Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận cao học NHÂN CÁCH NGƯỜI LÃNH đạo TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.73 KB, 18 trang )

A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Làm lãnh đạo cũng là một nghề,
phải rèn đức luyện tài, trong đó đức phải là gốc”! Người lãnh đạo, quản lý là một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, xây dựng một đội
ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý “vừa hồng, vừa chuyên” là một trong những nhiệm
vụ then chốt trong cơng tác xây dựng Đảng. Vì thế phẩm chất, nhân cách và năng
lực của người lãnh đạo, quản lý giữ vai trò quan trọng. Người xưa quan niệm:
được mất, vinh nhục không phải do nghề mà do người hành nghề quyết định.
Trong các chức năng chủ yếu của quản lý đối với sự thành công của tổ chức, chức
năng điều hành và lãnh đạo con người là quan trọng nhất. Nhà quản lý cũng là
người lãnh đạo đồng thời là người điều hành một tổ chức, biết dự kiến, lập kế
hoạch, tổ chức, điều động và kiểm tra kết quả, nhằm mục đích làm cho tổ chức
thực hiện tốt nhất những nhiệm vụ và chức năng của mình.
Trong bài phát biểu ngày 26/7/2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân
Phúc đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Chính phủ mới trong nhiệm kỳ này, đó là
"Chính phủ kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân
dân". Để thực hiện mục tiêu đó, những yêu cầu và địi hỏi về phẩm chất của người
cán bộ, cơng chức lãnh đạo, quản lý phải gắn với những tiêu chí cốt lõi của thời kỳ
hội nhập.
Người lãnh đạo là người có khả năng vượt khó (chỉ số AQ), có trí tuệ năng
lực (chỉ số IQ) và trí tuệ cảm xúc (chỉ số EQ). Trong đó, EQ được coi là chỉ số thể
hiện năng lực quản lý tốt bản thân và các mối quan hệ, bao gồm khả năng tự biết
mình, tự quản mình, biết xã hội và kỹ năng xã hội. Những yếu tố như sự tự tin, tự
nhận biết và điều tiết cảm xúc của mình, tự đánh giá được điểm mạnh và điểm yếu
của bản thân và tổ chức, có ý thức trách nhiệm và khả năng thích nghi cao, thấu
hiểu tổ chức, biết rõ sự vận hành của tổ chức; biết liên kết và chèo lái trong mọi
hoàn cảnh khác nhau... là những yếu tố thực sự cần thiết cho mọi cương vị lãnh
đạo, quản lý.


Theo quan niệm của nền Nho giáo phương Đông, một nhà lãnh đạo, quản lý


phải có những phẩm chất cơ bản như: sự khiêm cung (đúng mực), có khả năng
nhẫn nhịn, biết chấp nhận sự khác biệt, có niềm tin, nỗ lực, chịu khó, hào hiệp.
Theo quan niệm của tư duy lý tính phương Tây, nhà lãnh đạo, quản lý phải
biết đánh giá cao người khác, biết chấp nhận sự khác biệt, có khả năng sáng tạo
dựa trên nền móng vững chắc, có tư duy tổng hợp (bao gồm cả khả năng xử lý mọi
thơng tin), có chun mơn sâu của một ngành, có đạo đức xã hội, biết đặt lợi ích
chung lên trên lợi ích cá nhân.
Sự khác biệt văn hóa đã hình thành những tiêu chí đánh giá về người lãnh
đạo, quản lý rất khác nhau. Văn hóa phương Đông thiên về việc coi trọng những
phẩm chất, giá trị tinh thần. Theo đó, sự lựa chọn người lãnh đạo, quản lý cốt ở
phẩm chất đạo đức, thiên về định tính. Cịn văn hóa phương Tây lại đề cao những
kỹ năng chuyên môn với biểu hiện hướng ngoại, mang tính định lượng, giá trị đạo
đức được xác định nằm ngay trong khả năng chuyên môn và sự cống hiến cho tổ
chức, cộng đồng.
Trong bối cảnh hiện nay, khi “thế giới phẳng” xóa nhịa các ranh giới quốc
gia, cùng với đó là một “thế giới cong” chứa đựng nhiều hiểm họa, rủi ro bất ngờ.
Vì vậy, người lãnh đạo, quản lý phải có tầm nhìn xa nhưng phải gắn với thực tế,
có năng lực thích ứng nhanh và phù hợp. Bên cạnh đó là khả năng đánh giá vấn đề
một cách tổng thể đồng thời chú ý đến những chi tiết quan trọng, thấy được các
mối liên hệ tiềm tàng của vấn đề với phần còn lại của bối cảnh bên trong và bên
ngoài tổ chức. Người lãnh đạo, quản lý có phẩm chất có thể đưa ra được giải pháp
cụ thể, cân nhắc đầy đủ các mối liên hệ với các yếu tố khách quan và chủ quan,
thể hiện sự nhạy cảm với mơi trường chính trị, kinh tế, văn hóa... Hiện nay có
nhiều tranh luận về ba phong cách lãnh đạo lớn (phong cách lãnh đạo 3D) với các
hình thức như: phong cách lãnh đạo trực tiếp, phong cách lãnh đạo dựa trên sự
trao đổi, thảo luận, phong cách lãnh đạo ủy thác, giao phó. Trong đó, nhà lãnh đạo
theo phong cách trực tiếp thường đặt ra những yêu cầu rất cụ thể cho cấp dưới; đề
cao vai trò gắn trách nhiệm cho từng người, thiết lập các tiêu chuẩn và dự kiến kết
quả mà họ mong muốn đạt được. Với phong cách lãnh đạo dựa trên sự trao đổi,
thảo luận, người lãnh đạo, quản lý sẽ lắng nghe nhân viên đưa ra các ý kiến, đặt



câu hỏi, cung cấp thông tin phản hồi, những giả định về thách thức. Người lãnh
đạo, quản lý phải là người đảm bảo chắc chắn các ý kiến đều được thảo luận cặn
kẽ và biến thành một cuộc tranh luận thực sự. Họ đóng vai trị như là một nhân tố
đảm bảo cho các cuộc thảo luận đi đúng hướng và tất cả mọi thành viên trong tổ
chức đều có cơ hội góp ý kiến. Ở phong cách lãnh đạo ủy thác, giao phó, người
lãnh đạo, quản lý thường giải thích hoặc có những cam kết về các cơng việc cần
được thực hiện và khi nào phải hồn thành cơng việc đó. Cịn cách thức làm việc
hồn tồn do cấp dưới chủ động quyết định. Mỗi phong cách đều chứa đựng
những ưu thế khác biệt. Điều quan trọng là mỗi phong cách lãnh đạo cần phù hợp
với những đặc thù của từng tổ chức, từng lĩnh vực.
Thực tế công tác cán bộ, đặc biệt là việc bổ nhiệm vào các cương vị lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam trong nhiều năm gần đây vẫn nặng về xem xét, đánh giá
những tiêu chí hình thành phẩm chất người lãnh đạo, quản lý, nghĩa là có khuynh
hướng định tính hơn là kỹ năng. Do đó, tính chun nghiệp trong quản lý, điều
hành ở những người đã được bổ nhiệm chưa cao. Vẫn cịn tình trạng bổ nhiệm
những người khơng có chun mơn sâu, chỉ thuần túy khả năng hoạt động phong
trào, trong nhiều trường hợp còn đề bạt, bổ nhiệm các cương vị lãnh đạo, quản lý
xuất phát từ mối quan hệ thân tộc hoặc lợi ích nhóm... Vì vậy, những người thực
sự có năng lực khơng có cơ hội bộc lộ khả năng của mình. Điều đó khơng tránh
khỏi lối tư duy và hoạt động quản lý nặng về thể hiện hình thức, thiếu nền tảng.
Hiện nay, khuynh hướng đánh giá phẩm chất người lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam cũng cần phải có những tố chất như tiêu chí về người lãnh đạo, quản lý ở các
quốc gia phát triển. Trước hết, người lãnh đạo, quản lý phải có kỹ năng, bởi lẽ
trong bối cảnh hội nhập, năng lực cạnh tranh địi hỏi phải có trình độ chun mơn
cao, đó là sự thông hiểu trên nhiều phương diện, khả năng nắm bắt xu thế và định
hướng được sự phát triển hợp lý cho tổ chức, cho xã hội. Thiếu kỹ năng trong lãnh
đạo, quản lý sẽ dẫn tới nguy cơ mắc phải ba hiểm họa: khơng có tầm nhìn, khơng
tiên liệu trước được tương lai; khơng thích ứng mau lẹ và hiệu quả với hiện tại do

thiếu óc thực tế và khả năng sáng tạo; không chịu rút ra bài học kinh nghiệm từ
quá khứ và thất bại do thiếu khả năng suy ngẫm, học hỏi và như vậy sẽ phải đối
mặt với sự tụt hậu, đi xuống của tổ chức.


Nhưng chỉ có tài mà khơng có đức cũng rất nguy hiểm. Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi đức là gốc rễ. Sự vô cảm của người lãnh đạo, quản lý cũng tức là mối
hiểm họa với tổ chức, với người dân. Có đức sẽ khiến người lãnh đạo, quản lý biết
hy sinh, có trách nhiệm xã hội, biết hướng tới lợi ích cộng đồng, biết sẻ chia, cảm
thơng, biết khích lệ, động viên… Khi người lãnh đạo, quản lý vì lợi ích cá nhân,
lợi ích nhóm mà bất chấp cả sự an toàn, ổn định, phát triển của tổ chức, của cộng
đồng thì đó thực sự là mối họa cho dân, cho nước.
Người lãnh đạo, quản lý phải đóng vai trò của nhà thiết kế chiến lược, tức
là người làm việc hiệu quả nhờ vào khả năng dự đoán tương lai, làm chủ các tình
huống dựa vào việc nhận thức được các cơ hội và rủi ro. Một người lãnh đạo, quản
lý thực sự có tầm chiến lược bao giờ cũng có mối quan tâm hàng đầu đến sự phát
triển của tồn bộ hệ thống.
Bên cạnh đó, bản lĩnh chính trị cũng là một tiêu chí quan trọng của người
lãnh đạo, quản lý. Khi những cám dỗ vật chất có nguy cơ lung lạc, làm xói mịn
đạo đức của nhiều tầng lớp xã hội, hơn hết người lãnh đạo, quản lý phải có khả
năng vượt qua thách thức, ln thể hiện sự kiên định của mình trong mọi tình
huống khác nhau.
Các mơ hình lãnh đạo thường được quy về hai dạng là lãnh đạo cải biến và
lãnh đạo tác vụ với những biểu hiện và tác động sau:
Vì vậy, các tổ chức, các cấp, các ngành cần phải có sự hiện diện của kiểu
người lãnh đạo cải biến với sự chủ động, có hồi bão, có tầm nhìn, biết trân trọng
các cá nhân, biết khích lệ, động viên tinh thần của cấp dưới. Đó là “tuýp” người
lãnh đạo dám đột phá, dám tự chịu trách nhiệm, dám đối mặt với thách thức. Đã
đến lúc kiểu lãnh đạo tác vụ mang tính thụ động, đối phó, chỉ biết quan tâm đến
lợi ích trước mắt, khơng có khả năng phát hiện, sử dụng nhân lực cần phải bị loại

trừ, bởi họ đã trở thành rào cản đối với sự đi lên của tổ chức và do vậy kéo lùi sự
phát triển của tổ chức, thậm chí của cả một ngành, một địa phương.
Thay đổi tiêu chí trong đánh giá, bổ nhiệm cán bộ khơng phải là việc dễ
thực hiện, địi hỏi phải có sự thay đổi mà trước hết là ở tư duy, sự đồng bộ trong


chỉ đạo, thực thi, đồng thời phải có chính sách động viên, khen thưởng thỏa đáng
để người lãnh đạo, quản lý có động lực cống hiến hết khả năng cho tổ chức.
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG YÊU CẦU VỀ NHÂN CÁCH NGƯỜI LÃNH ĐẠO
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1. Khái niệm Nhân cách:
Nhân cách là khái niệm được phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội.
Các tác giả Xơ viết có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách với những
tên tuổi nổi tiếng như: B.G.Ananiev, A.N.Lêonchiev, K.K.Platonov...
A.N.Lêonchiev coi nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới được hình thành
trong các quan hệ sống của cá nhân do kết quả của hoạt động cải tạo của người
đó. Theo ơng, nhân cách là sản phẩm của q trình tiến hóa. Ông phân biệt giữa hai
khái niệm cá nhân và nhân cách. Cá nhân là một chỉnh thể, một sản phẩm của sự tiến
hóa chủng lồi và tiến hóa cá thể. Nhân cách là một cấu tạo tâm lý đặc biệt có tính
trọn vẹn, là kết quả của q trình chín muồi những yếu tố bẩm sinh dưới tác động của
môi trường xã hội. Sự phát triển nhân cách diễn ra theo quá trình phát triển của cá
nhân. Đối với đứa trẻ sự hình thành nhân cách được bắt đầu từ sự hình thành mối
quan hệ giữa trẻ em với người lớn, trẻ em với thế giới xung quanh. Nhân cách được
hình thành theo một quá trình từ nhỏ đến lớn. Đặc biệt ơng nhấn mạnh đến vai trị của
hoạt động, đặc biệt là hoạt động chủ đạo của mỗi giai đoạn lứa tuổi.
Muốn hiểu nhân cách một con người, phải dựa vào hoạt động của họ và đồng
thời phải đề cập đến các yếu tố động cơ, nhu cầu, mục đích...
B.G.Ananhiev coi nhân cách là một cá thể mang tính xã hội lịch sử. Nhân cách
tồn tại trong một xã hội nhất định. Vì vậy phải nghiên cứu nhân cách cùng với tính

chất lịch sử xã hội và tâm lý xã hội của nó. Đồng thời dựa trên cơ sở của các khái
niệm cá thể, cá nhân, hoạt động, chủ thể, khách thể để lý giải các vấn đề về nhân
cách. Ơng cho rằng chủ thể và nhân cách khơng có sự tương đồng. Chủ thể là sản
phẩm của hoạt động, là thái độ tích cực của hoạt động. Nhân cách là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội, xác định vị thế của con người trong xã hội. Vì vậy phải nghiên cứu
nhân cách gắn liền với hoàn cảnh xã hội nhất định, nghiên cứu vị trí của cá nhân
trong xã hội và chức năng xã hội gắn liền với vị trí đó.


K.K.Platonov coi nhân cách là con người có ý thức. Bàn về sự hình thành
nhân cách, ơng cho rằng sẽ là không biện chứng khi xác định lúc nào nhân cách
được hình thành ở trẻ. Khi đứa trẻ biết nói “tơi” thì đó chính là một nhân cách rồi.
Nhân cách được hình thành trong giao tiếp. Vì vậy, khơng thể nói một cách chỉnh xác
nhân cách hình thành từ khi nào.
Quan niệm của các nhà Tâm lý học Việt Nam:
Các tác giả Việt Nam đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau về nhân cách. Có thể
nêu một số quan niệm như sau:

-Theo Nguyên Quang Uẩn: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những
thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân đó.
-Theo Nguyễn Ánh Tuyết: Nhân cách là bộ mặt xã hội tâm lý của một
người, là tổ hợp những thuộc tính tâm lý vừa đặc trưng cho cá nhân vừa mang
ý nghĩa xã hội. Người có nhân cách được coi là một thành viên của xã hội, chịu
sự chi phối của xã hội, đồng thời là chủ thể có ý thức của sự phát triển xã hội...
Hai quan niệm trên cho thấy: muốn đánh giá một nhân cách của một con
người phải đánh giá giá trị xã hội con người đó.
- Theo Nguyễn Khắc Viện: Nhân cách là tồn bộ những gì hợp thành một
con người, một cá nhân với bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất
(tạng), tài năng, phong cách, ý chí, đạo đức, vai trị xã hội. Nhân cách là một cá
nhân có ý thức về bản thân đã tự khẳng định được, giữ được một phần nào tính

nhất quán trong mọi hành vi. Ông cũng cho rằng, trong con người có ba mặt:
tạng, tâm và phận. Tạng là thể tạng của con người, tâm là tâm lý, đời sống tinh
thần của con người, phận là bổn phận con người phải đảm nhiệm (vai trò xã
hội mà các nhân phải đóng).
Nếu như Mạnh Tử coi nhân cách là tiên thiên, con người sinh ra vốn
tính thiện “nhân chi sơ, tính bản thiện” hay Tuân Tử thì ngược lại “nhân chi sơ,
tính bản ác”, cịn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại có cách nhìn khoa học và tồn diện
hơn. Theo quan điểm của Người, con người từ khi sinh ra chỉ là một sinh vật,
chưa có nhân cách, q trình đứa trẻ lớn lên và thơng qua q trình xã hội hóa
thì nhân cách mới được hình thành và phát triển. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:


“Ngủ thì ai cũng lương thiện, tỉnh dậy sinh ra kẻ dữ hiền”. Quan điểm của
Người khơng thần thánh hóa theo kiểu duy tâm mà coi nhân cách như là một
yếu tố động, bởi từ lúc chào đời cho đến giai đoạn trưởng thành thì cá nhân bao
giờ cũng chịu sực tác động của một hệ thống các yếu tố xung quanh, đồng thời
con người cũng là chủ thể của các hoạt động và giao tiếp. Đối với người cán bộ
cũng vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng đến việc tu dưỡng rèn luyện.
Do vậy, trong quá trình đó mỗi người cán bộ ln phải quyết tâm cao, phát huy
sức mạnh của ý chí, ln tự phê bình và phê bình để hồn thiện bản thân.
Với tính chất giao thoa giữa Tâm lý học và Xã hội học, Tâm lý học xã hội
không thể xem xét cá nhân một cách riêng rẽ mà luôn đặt cá nhân trong mối quan hệ
qua lại với cá nhân khác, với nhóm và với cộng đồng xã hội. Mỗi cá nhân là một
thành viên của một nhóm xã hội. Cá nhân chịu tác động của các chuẩn mực nhóm,
chuẩn mực xã hội. Tâm lý học xã hội nghiên cứu nhân cách bao gồm toàn bộ các đặc
điểm tâm lý của cá nhân được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội thông qua hoạt
đông và giao tiếp của mỗi cá nhân đó

Như vậy, chúng ta có thể hiểu khái niệm nhân cách như sau: Nhân cách
được hiểu là giá trị xã hội của cá nhân do cá nhân lĩnh hội các giá trị xã hội tạo nên.

Tuy nhiên không phải mọi nhân cách đều là những nhân cách phù hợp hoàn tồn với
hình mẫu nhân cách mà xã hội mong muốn. Hiện tượng nhân cách có hành vi phi xã
hội khơng phù hợp với các chuẩn mực xã hội trong mối quan hệ với người khác hoặc
với xã hội được gọi là sự suy thoái nhân cách. Sự biến thái nhân cách và phá vỡ cấu
trúc tâm lý của nhân cách thường có lịch sử lâu dài bao gồm nhiều giai đoạn khác
nhau. Có quan điểm cho rằng sự biến thái nhân cách có nguồn gốc từ thời kì thơ ấu.
Ngay trong những thời kì đầu của sự hình thành nhân cách, cá nhân đã chịu ảnh
hưởng của những nhân tố không thuận lợi cho sự phát triển nhân cách sau này. Đặc
biệt trong một số thời kì nhạy cảm trong q trình phát triển nhân cách.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách của người lãnh đạo.
Chuẩn mực đạo đức của người lãnh đạo được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ yếu
nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỉ luật của Đảng, thực hiện tốt đường
lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên
trước lơi ích riêng của cá nhân mình. Một lịng phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì


nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc. Lãnh đạo là
đầy tớ trung thành của nhân dân . Người lãnh đạo là một nhà chức trách, nắm
quyền lực thực tế, có trong tay một số cán bộ, cơng nhân viên nhất định, đồng
thời có quyền ban hành các quyết định về những vấn đề liên quan đến lợi ích của
cơ quan, của người lao động thuộc quyền quản lý.
Khi đã ở cương vị quản lý, người lãnh đạo tự quyết định mình phải làm gì,
làm như thế nào, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trước
tập thể, trước cấp trên. Người lãnh đạo giữ vị trí trung tâm của tập thể lao động,
mang sức mạnh quyền lực - sức mạnh được Nhà nước đảm bảo tác động trực tiếp
với đối tượng quản lý của mình.
Người lãnh đạo là cầu nối giữa cơ quan quản lý cấp trên và tập thể lao
động; mọi chỉ thị, nghị quyết của Nhà nước ban hành thông qua người lãnh đạo

để đến với tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp trên về trạng thái hoạt động, kết
quả hoạt động, cũng như các mặt về đời sống của tập thể do mình quản lý. Có
trách nhiệm tạo những điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện sáng kiến
của người lao động, đảm bảo cho họ tham gia tích cực vào hoạt động quản lý của
tập thể lao động.
Để thực hiện tốt vai trò, chức năng trên và để khẳng định tốt vị trí của
mình, người lãnh đạo cần phải có những phẩm chất và năng lực cần thiết - Đó là
những nét đặc trưng về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo.
Nhân cách nhà lãnh đạo chứa đựng những phẩm chất tốt đẹp của giai cấp
cơng nhân và dân tộc Việt Nam, có những trình độ và năng lực cần thiết thực hiện
các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Đó là:
- Những phẩm chất chính trị - tư tưởng nói lên khuynh hướng hoạt động xã
hội và lập trường chính trị của người lãnh đạo, bao gồm: lòng trung thành với lý
tưởng XHCN, với đường lối, quan điểm của Đảng ta, niềm tin và thắng lợi cuối
cùng của cách mạng, có lập trường kiên định của giai cấp cơng nhân.
- Những phẩm chất - tâm lý - đạo đức nói lên trình độ trưởng thành về ý
thức đạo đức, hành vi đạo đức, lập trường đạo đức của người lao động. Nhờ có
trình độ cao mà người lãnh đạo có được các hành vi đạo đức đúng đắn trong mọi


tình huống. Sự trong sáng về đạo đức, sự tận tâm với cơng việc, sự quan tâm
chăm sóc mọi người lao động, tinh thần phê và tự phê nghiêm túc, tinh thần tập
thể, tính trung thực, cơng bằng, giản dị, khiêm tốn..
- Những năng lực tổ chức - chuyên môn nói lên khả năng về văn hố,
chun mơn nghiệp vụ của người lãnh đạo có thể thực hiện tốt cơng việc của
mình như năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn ..


Theo quan điểm của người Việt Nam, đạo đức là cái gốc của nhân cách. Vậy
những nét đặc trưng trong đạo đức người lãnh đạo được thể hiện như thế nào.

Phẩm chất chính trị - tư tưởng của người lãnh đạo được thể hiện tập trung
trong quan điểm quản lý của họ. Quam điểm này sẽ bảo đảm phương hướng giai
cấp, cho mọi suy nghĩ và hành vi quản lý của mỗi người. Quan điểm quản lý của
mỗi người lãnh đạo chịu sự chi phối, sự qui định của đường lối, quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam.
Quan điểm quản lý cá nhân đúng đắn của mỗi người cán bộ quản lý lãnh
đạo hiện nay được thực hiện rõ nhất trong sự cố gắng đặt lợi xã hội lên hàng đầu
trong mọi hoạt động của mình. Biết kết hợp hài hồ 3 lợi ích ở cơ quan, đơn vị
mình, ngồi ra phải có lập trường sống cá nhân tích cực nữa.
Người lãnh đạo phải có quan điểm, lập trường vững vàng, kiên quyết chống
hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong chính bản thân, tích cực tham gia các
hoạt động sáng tạo, đóng góp cho sự phát triển xã hội, trên cơ sở tự nguyện, tự
giác, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Phẩm chất đạo đức nói lên trình độ trưởng thành về ý thức đạo đức, hành vi
đạo đức, lập trường đạo đức của người lãnh đạo. Nhờ có trình độ cao mà người
lãnh đạo có được các hành vi đạo đức đúng đắn trong mọi tình huống. Sự trong
sáng về đạo đức, sự tận tâm với công việc, sự quan tâm chăm sóc mọi người lao
động, tinh thần phê và tự phê nghiêm túc, tinh thần tập thể, tính trung thực, công
bằng, giản dị, khiêm tốn...
Chuẩn mực đạo đức của người lãnh đạo được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ yếu nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỉ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối,
chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên
trước lơi ích riêng của cá nhân mình. Một lịng phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì
nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc. Lãnh đạo là
đầy tớ trung thành của nhân dân .


Đạo đức người lãnh đạo là phải biết cách xử thế giữa người lãnh đạo và
người bị lãnh đạo trong quá trình quản lý, nhằm xây dựng được những quan hệ tốt

đẹp với nhau, trên cơ sở đó mà bảo đảm thực hiện công việc chung đạt kết quả
cao. Chẳng hạn, trong cơng tác địi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải có tính khách
quan cơng bằng đối với mọi cán bộ, công nhân viên dưới quyền, không được "yêu
là tốt, ghét là xấu"; không thiên vị, không định kiến. Người lãnh đạo phải biết
nghe lời nói phải, nghe những ý kiến bị coi là trái với ý kiến của mình, để xử lý,
chọn lọc những thơng tin đúng phục vụ cho công tác lãnh đạo .
Năng lực tổ chức - chun mơn nói lên khả năng về văn hố, chun mơn
nghiệp vụ của người lãnh đạo có thể thực hiện tốt cơng việc của mình như năng
lực tổ chức, năng lực chun mơn ...
Người lãnh đạo phải có tư chất đúng mực, tự chủ, thể hiện: phải là người
biết tự kiềm chế sự bột phát tình cảm của bản thân, nếu khơng biết làm chủ được
tâm trạng của mình thì khơng thể làm lãnh đạo được. Dù tâm trạng riêng như thế
nào chăng nữa thì người lãnh đạo khi đến cơ quan làm việc vẫn phải luôn vui vẻ
với mọi người, bình tĩnh để giải quyết cơng việc được tốt nhất. Người lãnh đạo
biết lắng nghe ý kiếm của người khác, biết phát biểu đúng nơi đúng chỗ, biết im
lặng và biết tránh những kích động khơng cần thiết. Mọi hành vi và lời nói của
người lãnh đạo đều phải có suy nghĩ, có sự kiểm sốt.
Trong ứng xử hàng ngày phải luôn tỏ ra hồn nhiên, khiêm tốn, biết tôn trọng
mọi người. Quan hệ với mọi người chân thật, đúng mức; trên khơng nịnh hót, dưới
khơng quyền uy; tránh tình trạng nịnh trên, nạt dưới. Người lãnh đạo cần sống
giản dị, chân thật, có lối sống phù hợp với thực tại khách quan, với truyền thống
dân tộc, không xa hoa phù phiếm, phơ trương hình thức, dối trá, lừa lọc, độc ác.
Đạo đức trong cơng tác cịn địi hỏi người lãnh đạo làm việc tận tâm, có
sáng kiến, công tác đạt hiệu quả cao, phải thực hiện "lời nói đi đơi với việc làm",
ln lấy chữ tâm làm đầu; làm việc phải có lề lối, có quy tắc, có chương trình, kế
hoạch và tổ chức thực hiện phải theo chương trình, kế hoạch đó. Người cán bộ
phải giám nghĩ, dám làm và giám chịu trách nhiệm trước những cơng việc của
mình.



Tuy nhiên, người lãnh đạo chỉ có đạo đức vẫn chưa đủ. Chủ tịch Hồ chí
Minh dạy rằng: "Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó". Do vậy, người
lãnh đạo phải có năng lực tổ chức và điều hành. Để làm tốt được vai trò này, người
lãnh đạo cần có một số tư chất chung như: Có khả năng vận dụng mau lẹ kiến
thức, kinh nghiệm vào cơng tác thực tế của mình. Sẵn sàng tiếp xúc với mọi
người, biết lắng nghe họ nói chuyện, gợi ý để họ thể hiện quan điểm, rồi thu lượm
những điều cần thiết cho cơng tác của mình. Có sự suy xét sâu sắc, suy nghĩ phân
tích tìm ra bản chất của vấn đề, thấy được mối quan hệ nguyên nhân - kết quả.
Biết tác động tới từng người một cách kiên quyết, khiến họ phải làm theo mình.
Tìm ra những sáng kiến để thực hiện công việc một cách tốt nhất. Độc lập trong
cách suy nghĩ, phán quyết trong cơng việc, biết tự tìm ra các giải pháp hợp lý,
nhưng cũng biết tiếp thu cái hay của người khác. Làm việc gì cũng phải theo đuổi
từ đầu đến cuối để đạt được mục đích đã đề ra. Có sự nhạy cảm về tổ chức: trước
hết, đó là sự tinh nhạy về tâm lý - là khả năng mau chóng đi vào thế giới tâm hồn
của mọi người, biểu hiện qua hành vi, hình dáng, giao tiếp. Từ đó nhà quản lý có
được kết luận tương đối chính xác về một con người, thậm chí ngay cả trong cuộc
tiếp xúc đầu tiên với thời gian ngắn nhất.
Nhà quản lý phải xác định một cách nhanh chóng sự phù hợp của mỗi con
người với những lĩnh vực hoạt động nhất định, xác định được những lợi ích mà
người đó đem lại khi bố trí vào cơng việc phù hợp với khả năng của bản thân họ,
phát huy sở trường, hạn chế sở đoản của họ. Đây là khả năng nhìn người đặt việc.
Người lãnh đạo cần phải nhạy cảm với tình hình để ln đi đầu, đón trước
sự phát triển của sự việc. Chẳng hạn, người lãnh đạo ở các cơ quan Đảng, Nhà
nước, đồn thể trong tình hình hiện nay cần nhanh chóng nắm bắt tình hình chính
trị, xã hội để kịp thời động viên giáo dục tư tưởng chính trị cho nhân viên luôn đề
cao cảnh giác trước những âm mưu của các thế lực thù địch. Cũng như đề ra
những biện pháp chủ động, kịp thời trong việc bảo vệ an ninh, bí mật, tài sản của
nhà nước.



Trong thời đại ngày nay, dù ở trong cương vị nào, tài năng và đức độ vẫn là
những phẩm chất cần thiết cho kết quả của công tác quản lý. Vì vậy mỗi cán bộ
lãnh đạo cần ln ln tự hoàn thiện bản thân, tự học tập, trau dồi kiến thức thông
qua sách vở và thực tiễn để tự nâng cao trình độ, năng lực quản lý của bản thân,
đáp ứng nhu cầu công tác lãnh đạo và quản lý
3. Những yêu cầu về nhân cách người lãnh đạo trong giai đoạn hiện
nay.
Nhân cách của người cán bộ, lãnh đạo, quản lý là sự tổng hòa giữa tài và
đức, giữa phẩm chất và năng lực. Trong đó, đạo đức được coi là gốc của nhân cách
và tài giữ vai trò quan trọng. Vì vậy, đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý khi
rèn, luyện phát triển nhân cách phải phát triển cả tài và đức, phẩm chất và năng
lực.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp phải mang những phẩm chất của người
cán bộ cách mạng:
Bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối
trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Gương mẫu trong thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Gần gũi, tận tụy, chăm lo đời sống của nhân dân, biết phát huy sức dân thực
hiện đúng quan điểm: Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là cơng bộc của dân,
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Đó là những người tự tin, nhất quán, dám nghĩ, dám làm, dám dân thân vào
việc khó, quyết tâm vượt qua thử thách, thực hiện mục tiêu đã đặt ra, không dao
động trước những khó khăn, tác động bên ngồi, lời nói và hành động đi đơi với
nhau, từ đó tạo lịng tin cho cấp dưới. Phải có khả năng vượt qua những cám dỗ,
tiêu cực của chức quyền và lợi lộc, giữ vững phẩm chất trong sáng của người cán
bộ.
Phải gương mẫu về đạo đức, lối sống, thực hiện lời Chủ tịch Hồ Chí Minh
dạy “cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư”, tích cực đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; đấu tranh với lối sống thực dụng, lối sống



trái với đạo đức truyền thống của dân tộc, giữ gìn đồn kết, thống nhất trong
Đảng, gắn bó với nhân dân. Đồng thời có trái tim nhân hậu, có khát vọng cống
hiến. Những phẩm chất này sẽ góp phần tạo nên uy quyền của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý đối với thuộc cấp và hình ảnh đẹp trong mắt quần chúng nhân dân.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là người có năng lực (tài):
Phải giàu trí tuệ, năng lực nhận thức cần phải đạt đến trình độ tư duy lý
luận. Năng lực tư duy lý luận góp phần tích cực vào việc xây dựng, ban hành, sửa
đổi, bổ sung triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách cảu Đảng,
Nhà nước một cách có hiệu quả. Tư duy lý luận còn giúp người cán bộ lãnh đạo,
phân tích, đánh giá mức độ thực hiện nhiệm vụ và chỉ ra khó khăn, thuận lợi,
những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, những hệ quả trước mắt và lâu dài, những điều
kiện, nguồn lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ; phân tích, đánh giá được các vấn
đề đưa ra có phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế hiện nay không. Năng
lực nhận thức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý thể hiện ở khả năng nhìn xa,
trơng rộng, khả năng tiên đốn và phân tích các yếu tố để hoạch định bước đi cho
tương lai.
Có năng lực chun mơn là năng lực vận dụng kiến thức chuyên môn để
phục vụ công tác lãnh đạo. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở lãnh đạo, quản lý mọi
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng trên địa bàn. Để chỉ
huy, điều khiển, phát huy khả năng của cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ, đòi hỏi
người lãnh đạo phải am hiều cơng việc mình đảm trách để khi cần thiết, biết dồn
tiềm lực vào những khâu trọng yếu nhất. Trình độ chun mơn giỏi sẽ giúp người
lãnh đạo biết đánh giá và giúp đỡ công việc của cấp dưới.Kiến thức chuyên môn
càng uyên bác, chuyên sâu sẽ phục vụ tốt công việc, đồng thời sử dụng hiệu quả
đội ngũ chuyên gia.
Có năng lực lãnh đạo, quản lý bao gồm một hệ thống như: Năng lực thực
tiễn, năng lực quản lý, năng lực dự báo, định hướng phát triển, năng lực tổng kết
thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật, năng lực thuyết

phục và tổ chức nhân dân thực hiện, đặc biệt đối với một người lãnh đạo, quản lý
giỏi cần phải có năng lực phát hiện và bố trí, sử dụng cán bộ: phải phát hiện những


người giỏi có phẩm chất tốt để bố trí vào những vị trí quan trọng; theo dõi, bồi
dưỡng để đề bạt, tạo nguồn cán bộ thay thế…
Bên cạnh đó, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở còn phải biết sử
dụng cơng nghệ thơng tin, có kiến thức xã hội. Những kiến thức này ngày càng
quan trọng.
II. THỰC TRẠNG VỀ NHÂN CÁCH NGƯỜI LÃNH ĐẠO HIỆN NAY
VÀ GIẢI PHÁP.
1. Thực trạng nhân cách của cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.
Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý là sự tổng hòa các yếu tố về
phẩm chất và năng lực (đức và tài), trong đó nổi lên là vấn đề đạo đức. Nhân cách
của người cán bộ lãnh đạo, quản lý biểu hiện trong cuộc sống thường ngày và
trong cơng tác. Nó tạo nên tư cách chủ thể của người cán bộ trong hoạt động và
quan hệ xã hội, nhân cách là đặc trưng riêng của từng người cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Nhân cách càng phát triển thì phản ánh giá trị xã hội của cá nhân càng cao. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, người cán bộ cấp cơ sở cần tích cực
hồn thiện nhân cách để hội đủ các yếu tố cần thiết về đức và tài, phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay đa phần có trình
độ chun mơn, lý luận chính trị và năng lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao,
góp phần nâng cao các mặt cơng tác, khơi dậy được các nguồn lực của nhân dân,
nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, đời sống nhân dân được nâng lên đáng kể, góp
phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền, đảm
bảo an ninh, chính trị, quốc phịng ở cơ sở.
Tuy vậy, vẫn còn một số cán bộ lãnh đạo, quản lý có hiện tượng gây phiền
hà cho dân; nói khơng đi đôi với làm; năng lực yếu kém, chưa mạnh dạn tự phê
bình và phê bình. Cá biệt cịn có cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi dụng chức quyền để

thu vén lợi ích cá nhân, làm mất lịng tin của nhân dân. Về tình trạng này, Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” đã chỉ ra, “Một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những
đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư


tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt
lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc…
Bối cảnh hiện nay đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về quản lý, điều hành
phát triển kinh tế - xã hội, trước thực trạng trên, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở phải không ngừng học tập về chun mơn, lý luận chính trị và
rèn luyện đạo đức cách mạng để hoàn thiện nhân cách, đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn.
3. Giải pháp chủ yếu rèn luyện, phát triển nhân cách của người cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Một là, nâng cao chất lượng công tác cán bộ:
Cấp ủy cơ sở dựa trên cơ sở về năng lực, hiệu quả công việc của cán bộ để
đánh giá, đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ. Tránh việc đánh
giá cán bộ một cách chủ quan “theo dòng họ”, “bè phái” hoặc cảm tính, “yêu nên
tốt, ghét nên xấu”. Đồng thời, căn cứ vào vị trí việc làm, yêu cầu thực tiễn để bố
trí, phân cơng cán bộ theo ngun tắc “đúng người, đúng việc” nhằm phát huy
năng lực, sở trường của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cấp ủy Đảng cần tăng
cường công tác kiểm tra, đánh giá cán bộ hàng năm. Thực hiện lấy phiếu tín
nhiệm theo Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 của Bộ Chính trị về việc lấy
phiếu tín nhiệm hàng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo
trong cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Trong sinh hoạt đảng cần làm tốt cơng tác “phê bình, tự phê bình”. Qua đó
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở nhận thức, đấu tranh loại bỏ những tồn tại, hạn
chế của bản thân để rèn luyện, phát triển nhân cách ngày càng hồn thiện hơn.

Hai là, phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong quá trình tự rèn luyện phát triển nhân cách của bản thân:
Bản thân người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải khơng ngừng học tập, nâng
cao trình độ, tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn thông qua các mơ hình
điển hình, các phong trào thi đua, từ đó phát triển chun mơn, nghiệp vụ cơng
tác, trình độ lý luận chính trị, trau dồi đạo đức, lối sống. Xây dựng kế hoạch tự học


tập, tự bồi dưỡng của bản thân, thực hiện phương châm suốt đời học tập: Xây
dựngchương trình hành động, kế hoạch cụ thể rèn luyện, học tập tư tưởng tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15-5-2016
của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí Thư
trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp.
Nỗ lực rèn luyện và phát triển nhân cách trong thực tiễn. Chính thực tiễn sơi
động sẽ giúp cho người cán bộ ý thức được sự hạn chế, thiếu hụt của bản thân để
có kế hoạch học tập và rèn luyện. Đồng thời giúp cán bộ bổ sung, bồi đắp thêm
những thiếu hụt về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm và kỹ năng công tác đáp ứng
với sự vận động, phát triển cách mạng trong giai đoạn mới. Theo đó, người cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải học tập ngay từ thực tiễn công tác lãnh đạo, quản
lý hàng ngày, học từ người dân, học từ đồng chí, đồng nghiệp, học từ việc tổng kết
thực tiễn, tổng kết những mơ hình mới, những cách làm hay…
Thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện công việc của bản thân;
thực hiện tốt việc “tự phê bình”, qua đó khắc phục những sai lầm, hạn chế của bản
thân và nâng cao bản lĩnh trước những cám dỗ, tiêu cực mặt trái của kinh tế thị
trường.
Như vậy, việc rèn luyện, phát triển nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản
lý hiện nay là nhiệm vụ cấp thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, tài năng, tâm huyết, trách nhiệm, nói đi

đơi với làm, mạnh dạn dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, khơng ngại
khó, ngại khổ, có “Tâm – Tầm –Tài”, là những cán bộ của nhân dân, được nhân
dân tin u, kính trọng và góp phần hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
C. KẾT LUẬN
Rèn luyện hồn thiện nhân cách cho cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý nói riêng là một nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng con


người mới nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước ta hướng đến
trong giai đoạn hiện nay.
Rèn luyện hoàn thiện nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý hiện
nay là vấn đề cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong rèn luyện hoàn thiện
nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thì giáo dục bản lĩnh chính trị,
mục tiêu lý tưởng, đạo đức cách mạng là vấn đề cốt lõi, xun suốt.
Trong q trình rèn luyện hồn thiện nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh
cần áp dụng kết hợp nhiều biện pháp. Trong đó, giáo dục đào tạo giữ vai trị chủ
đạo trong việc định hướng hình thành và phát triển nhân cách còn tự tu dưỡng và
rèn luyện của bản thân mỗi người giữ vai trò quyết định việc hình thành và phát
triển nhân cách. Cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái nhân cách người lãnh đạo
quản lý không tách rời việc giáo dục nhân cách và sự tự tu dưỡng, tự rèn luyện
nhân cách.



×