Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận cao học triết những nhận thức mới trong việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.01 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử của sự phát triển văn minh, văn hóa nhân loại, vấn đề
con người và tương lai của con người ln giữ vị trí trung tâm và trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau, nhưng
chỉ có triết học mới nhận thức con người một cách tồn diện trong tính
chỉnh thể của nó.
Trong điều kiện hiện nay có thể nhận thấy, nền kinh tế Việt Nam vẫn
tiếp tục đà tăng trưởng ổn định, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, dưới sự tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chưa bao giờ sự kết nối
giữa con người được thực hiện dưới nhiều kênh thông tin và thuận lợi như
hiện nay, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước. Việt
Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức thương mại thế giới, xu hướng tồn
cầu hố đang dần chiếm ưu thế, cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt, vấn đề
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao để có thể
đáp ứng q trình hội nhập quốc tế và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
đang là yêu cầu bức thiết đi với nước ta. Đảng và Nhà nước ta đã và đang
phát huy và sử dụng nhân tố con người với tư cách là động lực chính của sự
phát triển kinh tế xã hội.
Thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) ở châu Á cho thấy dù
tài nguyên không nhiều, dân số lại đông để giảm sức ép giành lợi thế cạnh
tranh. Khai thác tốt nguồn lực nội sinh thúc đẩy cho giáo dục và khoa học
công nghệ nên đã tạo ra cho mình động lực phát triển tồn diện đất nước họ
đặc biệt quan tâm đầu tư cho giáo dục và khoa học cơng nghệ nên đã tạo cho
mình động lực phát triển. Điều này chứng tỏ nhân tố con người luôn có một
vai trị to lớn trong sự phát triển bền vững của mọI quốc gia. Đối với một số
nước mà tốc độ phát triển còn chậm như nước ta muốn xây dựng thành cơng
chủ nghĩa xã hội thì phảI phát huy tiềm năng trí tuệ con người Việt Nam xây
dựng nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng. Muốn thực
1



hiện được điều đó cần có những nhận thức mới trong việc phát huy nhân tố
con người ngay trong quá trình đào tạo trong quá trình sử dụng và phân cơng
lao động xã hội. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề trên nên tôi đã
chọn đề tài “Những nhận thức mới trong việc phát huy nhân tố con người
ở nước ta hiện nay” để làm tiểu luận cho mơn học của mình.
Do kiến thức có hạn nên bài viết này cịn nhiều hạn chế kính mong thầy
cơ nhận xét, góp ý để bài viết này hồn thiện hơn.

2


NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về nhân tố con người
1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người
1.1.2. Quan điểm về con người và bản chất con người của chủ nghĩa
Mác Lênin.
a). Vấn đề con người và bản chất con người.
Trên cơ sở quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, Các
Mác và Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con
người. Các ông xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con
người cải tạo thế giới và thông qua hoạt động vật chất cải tạo hiện thực của
con người để xem xét bản chất của con người. Như vậy, các ông không xem
xét bản chất con người một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó trong mối
quan hệ với tự nhiên, xã hội và con người. Con người sống dựa vào tự nhiên
như hết thảy mọi sinh vật khác. Nhưng, sở dĩ con người trở thành con người
được chính là ở chỗ nó khơng chỉ sống dựa vào tự nhiên, Ăngghen là người
đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ có lao
động. Q trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con người
trở thành con người. Ăngghen cho rằng, lao động là nguyên nhân xâu xa cho
quá trình chuyển biến từ vượn người thành người và cũng là điều kiện cho

con người tồn tại và phát triển.
Con người là một thực thể sống, có q trình trao đổi chất với mơi
trường, có tâm sinh lý, có những nhu cầu vật chất nhất định. Trước đây C.
Mác đã từng khẳng định, trước khi hoạt động chính trị, văn học, nghệ thuật,
con người phải ăn, ở, đi lại.
Mỗi cơ thể con người đều tuân theo quy luật của tự nhiên như: sinh ra,
tồn tại, trưởng thành, già và chết đi. Tuy nhiên những nhu cầu sinh học của
con người đã mang tính xã hội, do vậy, C.Mác quan niệm con người là một
thực thể đặc biệt đã nhân loại hóa.
3


Khơng giống như tự nhiên, xã hội khơng thể có trước con người mà nó
ra đời cùng với con người, xã hội cũng khơng phải là cái gì trừu tượng, bất
biến mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ thích hợp với một phương thức sản
xuất nhất định. Nhân tố quyết định phương thức sản xuất phát triển lại là lực
lượng sản xuất, bao gồm con người và cơng cụ lao động. Như thế, khơng phải
cái gì khác mà chính là con người, cùng với những cơng cụ do họ chế tạo ra,
đã quyết định sự thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy, xã hội đã sản xuất ra con người
với tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội
như thế ấy.
Con người trong q trình tồn tại khơng chỉ tác động vào giới tự
nhiên, làm biến đổi giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên
bản chất người, làm cho con người khác với con vật “bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội”. Như
vậy, có thể nói quan điểm về con người trong triết học Mác đã giải quyết
một cách triệt để, nó đã lên án một cách đanh thép những quan điểm duy tâm
thần học về con người, làm sáng tỏ những vấn đề xoay quanh con người và
là đáp án để đưa sự nhận thức về con người - một sinh vật đặc biệt một cách

khoa học nhất.
Khi phê phán quan điểm của Phơ-bach, xuất phát từ những cá thể cô
lập, Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: “Bản chất con
người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận
điểm trên thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Nói bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội, cũng có
nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con
người, nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan
hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi
hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò
4


chi phối và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản
chất con người trong giai đoạn lịch sử đó. Ở đây, cái phổ biến (cái chung của
nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái đặc thù (hình thái kinh tế - xã hội, giai
cấp) và cái đơn nhất (cá nhân từng con người). Do đó, khi bàn đến bản chất
chung của con người không thể gạt bỏ bản chất giai cấp của các tầng lớp khác
nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp của các tầng lớp khác nhau
không được quên bản chất chung của con người. Nhưng từ đó qui định bản
chất của con người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi hoạt động của
con người đều được giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc thực chất quan
điểm mác-xít về bản chất con người. Đây là một quan hệ không thể tách biệt
của các thứ bậc về bản chất con người. - Các quan hệ xã hội không phải chỉ
xét ở quan hệ ở từng hình thái quan hệ xã hội riêng biệt mà còn khái quát
những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại riêng biệt.
Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại) vừa theo chiều dọc
lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm cả quan hệ
hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử của mình con người

phải bắt buộc kế thừa di sản của những thế hệ trước nó. Trong lĩnh vực văn
hóa tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con người vươn lên, nhưng
cũng có những truyền thống “đè nặng lên những con người đang sống”. Do
đó, khi xem xét bản chất con người không được tách rời hiện tại và quá khứ.
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong
chỉnh thể cụ thể phong phú, đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất con người
có khác biệt.
Khơng hiểu bản chất chung của con người hay qui tất cả những gì của
con người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất của một con người cụ thể
là tổng hịa các quan hệ xã hội “vốn có” của con người đó và qui định những
đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Cịn tất cả những hành vi
của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của
họ. Sự thể hiện bản chất con người không phải là theo đường thẳng, trực tiếp
5


mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã
hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học; giữa lợi ích trước mắt và lâu
dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức, giữa di truyền tự nhiên và
văn hóa xã hội…Trong diễn biến đầy mâu thuẫn đó, bản chất thể hiện ra như
một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng đó.
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người làm biến đổi đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính bản
thân mình.
Điều đó cũng có nghĩa là con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình
thơng qua hoạt động thực tiễn.
Như vậy, bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng mà là hiện
thực, khơng phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi
cá thể riêng rẻ mà là tổng hịa của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có
giá trị to lớn của

Mác về bản chất con người.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành
bản chất con người, song khơng có nghĩa là chủ nghĩa Mác-Lênin coi nhẹ mặt
tự nhiên, phủ nhận các sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người.
Bởi vì, theo Mác, “giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó
con người phải ở lại trong q trình thường xun giao tiếp để tồn tại. Nói
rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với tự nhiên, vì
con người là một bộ phận của giới tự nhiên”. Con người và con vật đều có
những nhu cầu như ăn uống, tính dục…, nhưng Mác đã từng vạch ra tính chất
khác nhau của những nhu cầu ấy. Con vật hoạt động theo bản năng còn con
người hành động theo ý thức. Và chính mặt xã hội của con người đã làm cho
mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những động vật
khác. Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di
truyền có sẵn như các động vật thơng thường mà chủ yếu theo sự phát triển
của văn hóa, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác với con vật, con người ngoài
6


tính di truyền, cịn có tính kế thừa về mặt xã hội. Bằng con đường giáo dục
mà thế hệ trước truyền lại những kinh nghiệm của của họ cho các thế hệ sau.
Những đặc điểm di truyền của từng người vừa đảm bảo những thuộc tính sinh
học của mình, vừa đảm bảo để con người tiếp thu những kiến thức xã hội.
Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người với tư
cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên,
mặt khác con người là một thực thể xã hội. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh
học và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất con người.
b). Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một
chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lập lại,
khác biệt với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…

Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này
sống và hoạt động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau
do điều kiện lịch sử quy định. Trong mối quan hệ giống loài, tức là trong mối
quan hệ với xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống lồi “người”. Khơng có con
người nói chung, lồi người nói chung tồn tại cảm tính.
- Cá nhân là cá thể người riêng rẻ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã
hội, là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
- Cá nhân chỉ được hình thành và phát triển trong quan hệ xã hội.
Nhưng xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử nên cá nhân là một hiện tượng có
tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một “kiểu xã hội của cá nhân” mang tính
định hướng về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người
trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với
giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân
khác thì cá nhân là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong
riêng biệt với tồn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân
7


khác. Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong
riêng biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của “cái tôi” do tác động tổng
hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân “dấn
thân” vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hóa của xã hội
vào bên trong mình, thực hiện quá trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo
nên thế giới riêng của mình. Đây là quá trình kép, xã hội hóa cá nhân và cá
nhân hóa xã hội, cá nhân xã hội và cá nhân nhân cách là thống nhất. Với
nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về mình, làm chủ cuộc
sống của mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui và trách nhiệm hoạt động
cụ thể trong xã hơi.

Cá nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể như là bộ phận của cái
toàn thể, thể hiện bản sắc của mình thơng qua hoạt động tập thể, nhưng
khơng “hịa tan” vào tập thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mâu
thuẫn giữa cá nhân và tập thể. Tùy theo tính chất và khả năng giải quyết
những mâu thuẫn đó mà mối quan hệ này có duy trì, phát triển hoặc tan rã.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động
qua

lại lẫn nhau, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của

quan hệ này là quan hệ lợi ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là
sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho khai thác được cao nhất khả năng của
mỗi thành viên vào các quá trình kinh tế, xã hội và điều kiện, là môi
trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân không
chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội, của
hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của
lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng rẻ mà với tư cách là một bộ
phận của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân
là cộng đồng lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ thể lịch sử. Cá
nhân chỉ được hình thành phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động
cá nhân vào xã hội mang hình thức đặc thù tùy thuộc vào các chế độ xã hội
và trình độ văn minh khác nhau.
8


1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản VN về con
người
1.2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh

là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và giải phóng con người. Vấn
đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm,
xun suốt, đó cũng chính là nội dung cơ bản trong toàn bộ tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh. Ngay khi nước ta vừa giành được độc lập sau bao
năm nô lệ, Người đã khẳng định trong tuyên ngôn

Độc lập: “Tất cả mọi

người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai
có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và thậm chí đến cuối đời, qua bản Di chúc
thiêng liêng, ta cũng thấy được tình yêu thương bao la, vô bờ ấy: “Cuối cùng,
tôi để lại mn vàn tình thương u cho tồn dân, tồn Đảng, cho toàn thể bộ
đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến
các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được nhìn nhận vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Tư
tưởng đó được thể hiện rõ trong lý luận của Người về cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến, Người nhấn
mạnh là cần phải xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát huy tính sáng tạo
của quần chúng nhân dân để kháng chiến và kiến quốc. Trong xây dựng xã
hội chủ nghĩa, bao giờ Người cũng coi trọng những yếu tố khách quan vì
những yếu tố này luôn gắn liền và tác động đến con người. Người khẳng định,
muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trước tiên cần phải có “con
người xã hội chủ nghĩa”. Đó là những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”,
có phẩm chất đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
9


tư”; phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân và ra sức rèn luyện đạo đức

cách mạng “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Quan niệm của Bác về con người rất tồn diện, có cái tốt và cái xấu, do đó,
theo người “phải làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi”.
Hồ Chí Minh ln hướng về con người với tấm lòng yêu thương, trân
trọng.
Người có niềm tin rất lớn vào con người. Ngươi đã từng nói “Hiền dữ
phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Lịng tin đó được hình
thành ở Người từ nhữngngày cắp sách đến trường và phát triển lên trong thời
gian bơn ba tìm đường cứu nước. Niềm tin đó càng được khẳng định khi
Người bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin vì đó chính là “con đường để giải
phóng của chúng ta”. Người đã thâm nhập vào thế giới của những con người
“dưới đáy” xã hội, tìm hiểu họ, hướng họ đến với ngày mai và cũng ở nơi
đó, Người càng hiểu sâu sắc bản chất thật sự của khẩu hiệu mị dân mà bọn
thực dân đang hô hào trên các nước thuộc địa: “Tự do, bình đẳng, bác ái!”.
Càng tin vào con người, tin vào quần chúng bao nhiêu thì tình thương yêu của
Người đối với họ càng to lớn bấy nhiêu. Càng yêu dân, Người càng chăm lo
đến nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục vì
Người từng khẳng định rằng “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Người ước
mong dân tộc ta phải “sánh vai với các cường quốc năm châu”, đất nước đẹp
giàu, nhân dân no ấm.
Đúng vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn thiết thực và
quý báo về những động lực chủ yếu để thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Theo Người, động lực quan trọng và mang tính quyết định nhất của xây
dựng chủ nghĩa xã hội chính là nhân tố con người. Người khẳng định: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”;
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có người xã hội chủ nghĩa”. Đặc biệt,
10



truyền thống yêu nước, sự cố kết cộng đồng, gắn với sự lao động sáng tạo của
nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực vô cùng to lớn. Chính vì vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln chăm lo xây đắp khối đại đoàn kết dân tộc.
Người khẳng định: “Đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô
địch”.
Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của
“cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương
con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản
thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong
khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh ln tin ở dân, hết lòng thương yêu,
quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư
tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành
một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định tháng lợi của chính sự
nghiệp cách mạng ấy.
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy
vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trị của bản thân mình (với tư
cách là lãnh tụ), Người khơng bao giờ cho mình là người giải phóng nhân
dân. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là “đầy tớ trung thành”
có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp
cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với
tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa
nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một \chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt
cách của một nhà hiền triết phương Đông.

11


1.2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim
chỉ nam cho hành động, vì thế tư tưởng về con người của Đảng cộng sản Việt
Nam nhất quán với tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác và của Hồ Chí
Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và
qua các chủ trương, chính sách của Đảng trong suốt q trình Đảng lãnh đạo
cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được
Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung
tâm trong “chiến lược phát triển toàn diện”; đang là động lực của công cuộc
xây dựng xã hội mới với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” của Đảng ta Để đạt
tới mục tiêu đó, nhiệm vụ trung tâm của thời kì q độ là thực hiện thành
cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là q trình
biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp. Đối với
nước ta, do xuất phát điểm thấp về sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
cơ sỡ vật chất - kỹ thuật, trình độ khoa học cơng nghệ…nên sự nghiệp cơng
nghiệp hóa lại càng khó khăn và đòi hỏi chúng ta phải phát huy mọi tiềm năng
vốn có của đất nước để đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó tiềm
năng con người phải được khơi dậy. Tức là, phải bằng mọi cách phát huy vai
trị tích cực của con người Việt nam cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Điều đó có nghĩa là phải tìm những giải pháp tốt nhất nhằm
phát huy nhân tố con người - chủ thể của tồn bộ tiến trình đó. Nhận thức
được tầm quan trọng của nhân tố đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII

của


Đảng đã quán triệt một trong những quan điểm về cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa là “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển mạnh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước…”.
Với quan điểm này, Đảng ta đã xác định nhân tố con người chính là chủ
thể của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
12


Hiện nay cách mạng nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới “Thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” như Đại hội lần thứ X, XI,
XII đã nhận định. Đây là thời kỳ mà chúng ta cần huy động mọi tiềm năng,
sức người, sức của phấn đấu cho sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Do đó, hơn
lúc nào hết trong thời kỳ này việc nghiên cứu luận cứ một cách khoa học cho
việc tìm ra những nhận thức mới, những giải pháp mới nhằm phát huy nhân tố
con người có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa cơ bản. Từ những nhận thức đó đó,
những giải pháp đó phải đánh giá cho đúng tiềm năng của con người Việt
Nam, khơi dậy những tiềm năng trong nhân tố con người biến nó thành hiện
thực phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cơng cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết, vậy xuất phát điểm của đổi mới là gì, nếu khơng phải là từ con người,
bởi khơng có sự đổi mới xã hội nào nếu như khơng có sự đổi mới từ con
người. Một loạt vấn đề về con người: nhân cách, trí tuệ, tiềm năng, nguồn lực
con người, xây dựng và phát triển con người Việt Nam, đòi hỏi phải tiếp tục
đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực ra, vấn đề con người không phải là vấn đề mới, không phải đến
khi xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta mới bàn đến, mà ngay khi con người
có ý thức và khảnăng tìm hiểu thế giới xung quanh, con người cũng đồng thời
tìm cách giải đáp những bí mật về mình. Lịch sử nhân loại, xét đến cùng, là
lịch sử giải quyết vấn đề con người và giải phóng con người từng bước thoát

khỏi thần quyền và bạo quyền để đi đến mục tiêu cuối cùng là phát triển toàn
diện cá nhân trong xã hội văn minh. Không một dân tộc nào tồn tại và phát
triển lại không chú ý đến con người, chỉ có điều là khác nhau ở mục đích giải
quyết và phương pháp mà thôi. Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam vừa qua đã
chứng minh rằng, không phải bộ máy, cũng khơng phải khâu nào khác trong
hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó, mà chính là con người với
phẩm chất và năng lực nhất định đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh
13


của đổi mới. Vì thế, đổi mới khơng thể thành công, nếu chúng ta không tạo ra
được môi trường thuận lợi để khơi dậy hoạt động sáng tạo của con người. Mặt
khác, đổi mới cũng chẳng đem lại kết quả gì, nếu chúng ta quay lưng lại với
những vấn đề rất cơ bản của con người.
II. Những nhận thức mới trong việc phát huy nhân tố con người ở
nước ta hiện nay
Vấn đề giải phóng và phát triển tồn diện con người là mục tiêu cao
nhất trong suốt tiến trình cách mạng do Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo, đặc
biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển nền kinh tế tri thức. Trong tiến trình phát triển, vấn đề con
người không chỉ với tư cách mục tiêu phát triển, mà còn là động lực quan
trọng trong việc xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Trong mọi thời đại, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất
của mỗi quốc gia chính là con người. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo mơi
trường thuận lợi để con người có cơ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo, có
cuộc sống hạnh phúc.
Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta nhận thức rõ vai trò đặc biệt

quan trọng của nhân tố con người với tính cách là động lực của sự phát triển
xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội XHCN.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định “Nguồn lực q báu nhất, có vai trị quyết
định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội
sinh của dân tộc Việt Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con
đường phát triển theo định hướng XHCN như Việt Nam, sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con người.”

14


Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta
xác định một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận
dụng thành công những thuận lợi, những cơ hội và vượt qua những thách
thức, khó khăn mà q trình đó đặt ra hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc
phát huy nhân tố con người, vào chất lượng nguồn nhân lực. Đảng và Nhà
nước ta đã nhận thức một cách đúng đắn về chiến lược con người và khẳng
định bằng nghị quyết, chủ trương, chính sách thật sự coi trọng con người và
coi con người là nhân tố có tính quyết định để xây dựng thành công xã hội
mới. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những
nhận thức mới về nhân tố con người, phù hợp với tiến trình phát triển của đất
nước. Trong đó phải kể đến những nhận thức sau:
Một là, con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là
chủ thể phát triển
Kế thừa quan điểm về phát huy nhân tố con người từ các Đại hội trước,
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, Đảng xác định: “Tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững; Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là
chủ thể phát triển; Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, phát huy nhân tố con người”.

Đại hội XI của Đảng nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được
mục tiêu đó, Đảng đã xác định 3 khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng
định là khâu đột phá thứ hai.
Đây được xem là khâu đột phá phù hợp với hoàn cảnh nguồn nhân lực
của đất nước trong bối cảnh Việt Nam tích cực, chủ động tham gia hội nhập
quốc tế, với sự cạnh tranh diễn ra vô cùng quyết liệt và cuộc cách mạng khoa
học, công nghệ đang phát triển như vũ bão. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách
thức đòi hỏi nước ta phải tập trung nâng cao chất lượng nguồn lực con người.
15


Trong tiến trình phát triển, cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh:
nhân tố con người đóng vai trị quyết định xu hướng vận động của thế giới
đương đại. Luôn theo sát sự biến động của thời cuộc, đánh giá đúng đắn vị trí,
vai trị của nhân tố con người, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Phát
triển, nâng cao chất lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững đất
nước”; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
“Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển”. Con người thực sự là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi
tài nguyên, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất quyết định thành công của
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.

16



Hai là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con
người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển
Đại hội XI đưa ra quan điểm, phát huy nhân tố con người trên cơ sở
“Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Quan điểm này thực
chất là sự tiếp nối tư tưởng của Đảng coi con người là chủ thể, là nguồn lực
quan trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và là sự nghiệp của cách mạng
Việt Nam. Mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu
cao cả là vì con người.
Đảng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Muốn vậy, phải “xây dựng
và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục,
phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”; “Xây dựng
và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người
Việt Nam”.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8
khóa XI của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã chỉ
rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên
đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9
khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước tiếp tục khẳng định: Xây dựng nền văn hóa
và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến “chân - thiện - mỹ”,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

17



Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là
sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Ba là, Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Tại Đại hội XII, vấn đề phát triển con người toàn diện được Đảng ta
xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm
(giai đoạn 2016-2020): “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa”.
Đây là bước tiến trong nhận thức của Đảng sau 30 năm đổi mới, phù
hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đặt ra; thể hiện việc Đảng ta ngày càng
khẳng định và nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của việc xây dựng và
phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước thời kỳ hội nhập.
Đại hội XII nhấn mạnh phải “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất
là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ”; “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao...”; “thu hút và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của
nhân dân; Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những
vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã
hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và
giảm nghèo bền vững; Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc”.
Đại hội XII xác định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”. Từ đó, Đảng đã
xác định các nhiệm vụ cụ thể trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam,
“Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con
người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế”.

18


Như vậy, Văn kiện Đại hội XII đã kế thừa quan điểm của Đảng về xây
dựng và phát triển con người từ các kỳ Đại hội Đảng, đồng thời bổ sung, phát
triển nhiều nội dung mới, cụ thể hơn của con người Việt Nam trong thời kỳ
mới, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, loài người đã đạt tới
một trình độ nhận thức mới về tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và phát
triển con người. Trong đó, phát triển con người được xem là thước đo cho sự
phát triển của mỗi quốc gia.
Do đó, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy
mạnh phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mơ hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho
sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

19


KẾT LUẬN
Vấn đề con người và phát huy nhân tố con người là nội dung quan
trọng, luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đề cập tới
trong nhiều kỳ đại hội, trong các văn bản chỉ đạo của Nhà nước đặc biệt trong
thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, với phương châm đổi mới xuất phát từ
con người và vì con người, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm vừa là
mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, “để phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo
đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng mơi trường
văn hóa lành mạnh” đáp ứng u cầu phát triển bền vững đất nước. Tác giả

bài viết đã đưa ra quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những giải
pháp nhằm phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay đó là: Phát triển
mạnh mẽ giáo dục và đào tạo, xây dựng tiềm lực trí tuệ - cốt lõi của nguồn
nhân lực chất lượng cao; tạo lập mơi trường để hồn thiện và phát triển con
người; tạo động lực để phát huy nhân tố con người.
Như vậy, vấn đề con người và phát huy nhân tố con người luôn được
Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện
đất nước, với quan điểm đổi mới xuất phát từ con người, vì mục tiêu con
người và “lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững”. Sau 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực đặc biệt
là nguồn lực con người, “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa” ; để lại những bài học sâu sắc cho cách mạng Việt Nam, trong
đó “đổi mới phải ln qn triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân
dân, dựa vào dân phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo
và nguồn lực của nhân dân…”. Trong những năm tiếp theo, đất nước ta đang
đứng trước những thời cơ và thách thức mới, để tiếp tục phát huy nhân tố con

20


người trong điều kiện cách mạng mới nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, cần phải có một hệ thống các giải pháp
đồng bộ, trong đó, tập trung vào một số giải pháp như: Phát triển mạnh mẽ
giáo dục và đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước;
tạo lập mơi trường để hồn thiện và phát triển con người; đồng thời tạo động
lực để phát huy nhân tố con người, vì một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh”… con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện


21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI , Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI
HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 05 - 2017 ISSN 2354-1482 91
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội
8. Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 4, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội
9. Mác – Ăngghen (1987), Mác - Ăngghen tuyển tập, tập 1, Nhà xuất
bản Sự thật, Hà Nội.

22


MỤC LỤC

NỘI DUNG.................................................................................................................................................... 3
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta xác định một trong những yếu tố
quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành cơng những thuận lợi, những cơ hội và vượt qua
những thách thức, khó khăn mà q trình đó đặt ra hay khơng phụ thuộc chủ yếu vào việc phát huy nhân tố
con người, vào chất lượng nguồn nhân lực. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức một cách đúng đắn về chiến
lược con người và khẳng định bằng nghị quyết, chủ trương, chính sách thật sự coi trọng con người và coi
con người là nhân tố có tính quyết định để xây dựng thành cơng xã hội mới. Trong q trình lãnh đạo đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận thức mới về nhân tố con người, phù hợp với tiến trình phát
triển của đất nước. Trong đó phải kể đến những nhận thức sau:................................................................15
Một là, con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển..........................15
Kế thừa quan điểm về phát huy nhân tố con người từ các Đại hội trước, trong Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011-2015, Đảng xác định: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; Nâng cao rõ rệt hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển; Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người”.
................................................................................................................................................................. 15
Đại hội XI của Đảng nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng đã xác định 3 khâu đột phá chiến lược, trong
đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột
phá thứ hai................................................................................................................................................ 15
Đây được xem là khâu đột phá phù hợp với hoàn cảnh nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh Việt
Nam tích cực, chủ động tham gia hội nhập quốc tế, với sự cạnh tranh diễn ra vô cùng quyết liệt và cuộc
cách mạng khoa học, công nghệ đang phát triển như vũ bão. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức địi hỏi
nước ta phải tập trung nâng cao chất lượng nguồn lực con người..............................................................15
Hai là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và
là mục tiêu của sự phát triển..................................................................................................................... 17
Đại hội XI đưa ra quan điểm, phát huy nhân tố con người trên cơ sở “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa
nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Quan
điểm này thực chất là sự tiếp nối tư tưởng của Đảng coi con người là chủ thể, là nguồn lực quan trọng nhất
quyết định sự phát triển xã hội và là sự nghiệp của cách mạng Việt Nam. Mọi quá trình phát triển kinh tế xã hội phải hướng tới mục tiêu cao cả là vì con người...............................................................................17
Đảng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa

học, công nghệ”. Muốn vậy, phải “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”; “đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý là khâu then chốt”; “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con
người Việt Nam”...................................................................................................................................... 17
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”....................................................................................17
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước tiếp tục khẳng định: Xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến “chân - thiện - mỹ”, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học............................................................................................. 17
Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo
đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh......................................................................................................................................... 18
Ba là, Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.........................................................................18
Tại Đại hội XII, vấn đề phát triển con người toàn diện được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ
tổng quát phát triển đất nước 5 năm (giai đoạn 2016-2020): “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”........18
Đây là bước tiến trong nhận thức của Đảng sau 30 năm đổi mới, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn
đặt ra; thể hiện việc Đảng ta ngày càng khẳng định và nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của việc xây
dựng và phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
thời kỳ hội nhập........................................................................................................................................ 18

23


Đại hội XII nhấn mạnh phải “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lượng cao...”; “thu hút và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; Chăm lo
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển
xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và
giảm nghèo bền vững; Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc”.. 18
Đại hội XII xác định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của
chiến lược phát triển”. Từ đó, Đảng đã xác định các nhiệm vụ cụ thể trong xây dựng, phát triển con người
Việt Nam, “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời
kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế”......................................................................................................... 18
Như vậy, Văn kiện Đại hội XII đã kế thừa quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển con người từ các
kỳ Đại hội Đảng, đồng thời bổ sung, phát triển nhiều nội dung mới, cụ thể hơn của con người Việt Nam
trong thời kỳ mới, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn................................................................................19
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, loài người đã đạt tới một trình độ nhận thức mới về tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội và phát triển con người. Trong đó, phát triển con người được xem là thước
đo cho sự phát triển của mỗi quốc gia....................................................................................................... 19
Do đó, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột
phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền
kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho sự phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững.................................................................................................................... 19
KẾT LUẬN.............................................................................................................................................. 20

24



×