Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

THs KTCT QUAN hệ lợi ÍCH TRONG THU hồi đất của NÔNG dân ở HYỆN mê LINH, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.38 KB, 109 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CAND

: Công an nhân dân

CNH, HĐH

: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐTH

: Đơ thị hóa

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

GQVL

: Giải quyết việc làm

KCN

: Khu công nghiệp

THĐ

: Thu hồi đất


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đất đai là nền tảng phát triển các quận huyện nói riêng và thành phố
Hà Nội nói chung, là nguồn lực quan trọng hàng đầu trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đơ thị hóa; khơng chỉ để đáp ứng nhu cầu về mặt
bằng; mà cịn là hàng hóa đặc biệt để khai thác, tạo ra nguồn lực để xây dựng
và phát triển thủ đơ.
Trong q trình phát triển thủ đơ theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
phát triển kinh tế - xã hội là một quá trình tất yếu, tác động rất lớn đến người
bị thu hồi đất. Để bù đắp cho họ một phần thiệt thịi đó, Nhà nước ta đã ban
hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho người bị thu hồi
đất, từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho
người có đất bị thu hồi đảm bảo về lợi ích và ổn định đời sống, sản xuất.
Tuy nhiên, đất đai là vấn đề lớn, phức tạp và rất nhạy cảm, đặc biệt là
ở các huyện ngoại thành Hà Nội; trong khi các quy định về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư thường xuyên thay đổi dẫn tới tình trạng so bì, khiếu nại của
người có đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng thực hiện
thu hồi đất qua nhiều năm. Mặt khác, Luật đất đai 2003 chưa có cơ chế bắt

buộc để bảo đảm có quỹ đất và nguồn vốn xây dựng khu tái định cư trước khi
thu hồi đất; chất lượng các khu tái định cư được xây dựng cũng chưa đáp ứng
yêu cầu “có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”; chưa chú trọng
tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề cho người có đất bị thu hồi; việc lập và tổ
chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại một số dự án còn
thiếu kiên quyết, thiếu dân chủ, công khai, minh bạch; năng lực, phẩm chất
của đội ngũ cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng ở nhiều nơi cịn chưa


4

đáp ứng yêu cầu; chưa phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng tham gia
thực hiện. Một số địa phương thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các
ngành; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích cho nhân dân
hiểu rõ quy định của pháp luật hoặc né tránh, thiếu cương quyết, không giải
quyết dứt điểm, làm cho việc giải phóng mặt bằng bị kéo dài nhiều năm.
Quan hệ lợi ích trong thu hồi đất đai của q trình cơng nghiệp hóa và đơ thị
hóa ở các huyện ngoại thành Hà Nội đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Đó là lý do tác giả chọn đề tài: "Quan hệ lợi ích trong thu hồi đất của nông
dân ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội hiện nay" để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thu hồi đất và giải quyết lợi ích trong thu hồi đất là một vấn đề
khá phức tạp và nhạy cảm, luôn nhận được sự quan tâm, nghiên cứu tìm
hiểu của nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học. Qua tìm hiểu về tình hình
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho
thấy, đã có khá nhiều luận văn nghiên cứu của học viên cao học như luận
văn của:
- Trần Hồng Hạnh (2013), Lợi ích kinh tế của người nông dân khi thu
hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích, đánh giá

và đưa ra một số giải pháp để giải quyết vấn đề về: Tình hình bố trí tái định
cư; Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp bị thu hồi
đất; Sự ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với lợi ích của người dân bị thu hồi
đất trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
- Phạm Văn Ninh (2011), Phịng chống tội phạm gây rối trật tự cơng
cộng trong cưỡng chế giải phóng mặt bằng các dự án phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn các huyện (thuộc tỉnh Hà Tây cũ), thành phố Hà Nội. Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã phân tích, đánh giá thực


5

trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết tình hình tội phạm và hoạt
động phịng ngừa tội phạm gây rối trật tự công cộng trong cưỡng chế giải
phóng mặt bằng trên địa bàn các huyện thuộc tỉnh Hà Tây (cũ).
- Nguyễn Thị Thu Hương (2012), Tìm hiểu, đánh giá việc thực hiện
chính sách đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ dự án xây dựng
cầu Thanh Trì trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.Trường Đại
học Kinh tế quốc dân. Luận văn đã khái quá những vấn đề lý luận về chính
sách và thực hiện chính sách đền bù thiệt hại thu hồi đất của Nhà nước. Từ đó
đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đền bù thiệt hại của Nhà nước khi
thu hồi đất phục vụ dự án xây dựng cầu Thanh Trì trên địa bàn huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất 5 nhóm giải pháp
nhằm triển khai thực hiện tốt hơn việc đền bù thiệt hại cho người dân.
- Lê Thành Phúc (2015), "Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất
của người dân để xây dựng các khu cơng nghiệp ở tỉnh Bình Dương hiện
nay", Học viện Báo chí và Tun truyền. Luận văn đã trình bày và phân tích
một cách có hệ thống những vấn đề cơ bản về lợi ích trên cơ sở đó rút ra quan
niệm đúng đắn về lợi ích. Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết
các quan hệ lợi ích nảy sinh trong thu hồi đất của người dân để xây dựng các

khu cơng nghiệp ở tỉnh Bình Dương. Phát hiện những mặt hạn chế, yếu kém
và nguyên nhân.
Đề xuất quan điểm, mục tiêu và giải pháp nhằm giải quyết hài hịa
quan hệ lợi ích trong thu hồi đất của người dân để xây dựng các khu công
nghiệp ở tỉnh Bình Dương đến năm 2020.
Ngồi các cơng trình tiêu biểu kể trên cịn có nhiều luận văn thuộc
chun ngành kinh tế và kinh tế chính trị cũng nghiên cứu đề tài này, như:
“Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất trong quá trình CNH, ĐTH ở Ninh
Bình”, luận văn Thạc sỹ của Tống Thị Lan Hương, năm 2009; “Việc làm và
thu nhập cho người có đất bị thu hồi ở Hà Nội”, luận văn Thạc sỹ, của Lê


6

Anh Tuấn, năm 2007; Luận văn của Phùng Thị Thảo, 2009, “ Giải pháp việc
làm cho người lao động sau thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp,
dịch vụ ở Vĩnh Phúc”… Các luận văn đó, với những góc nhìn khác nhau từ
thực trạng cụ thể của các địa phương, đã chỉ rõ ngun nhân nơng dân khơng
có việc làm, khơng có thu nhập, đời sống giảm sút. Nhìn chung các cơng trình
trên đã đề cập ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến đời sống của nông dân, trên
nhiều mặt như: việc làm, thu nhập, về định giá đền bù, hỗ trợ nông dân mất
đất.v.v.
Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách tổng quát cả về lý luận và thực tiễn về giải quyết quan hệ lợi ích trong
thu hồi đất ở huyện Mê Linh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết các quan hệ lợi ích nảy sinh
trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô
thị mới ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất giải pháp nhằm

hồn thiện cơ chế giải quyết hài hịa các quan hệ lợi ích trong thu hồi đất
của nơng dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở huyện
Mê Linh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày và phân tích một cách có hệ thống lý luận cơ bản về
lợi ích.
- Phân tích và đánh giá thực trạng giải quyết các quan hệ lợi ích giữa
các chủ thể trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp
và khu đô thị mới ở huyện Mê Linh từ năm 2008 đến nay, chỉ ra những kết
quả đạt được, những mặt còn hạn chế yếu kém và nguyên nhân.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế
thực hiện một cách hài hịa lợi ích của các chủ thể có liên quan đến quá trình


7

thu hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới
ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Quan hệ lợi ích nảy sinh giữa các chủ thể kinh tế trong quá trình thu
hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội có diễn ra chuyển
đổi đất nông nghiệp và đất ở của nông dân thành đất cho xây dựng các khu
công nghiệp và khu đô thị mới.
+ Về thời gian: từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta để xem xét chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất. Điểm
quan trọng của cách tiếp cận này là dựa trên lý luận về sở hữu: đất đai thuộc
sở hữu toàn dân và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có
trách nhiệm với người dân có đất bị thu hồi trong việc giải quyết hài hòa quan
hệ lợi ích giữa các chủ thể.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng các phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp trừu tượng hóa khoa học để phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn.
- Sử dụng kết hợp các phương pháp thống kê, phân tích, phương pháp
lơ gíc kết hợp với lịch sử, tổng kết để đánh giá quá trình giải quyết các quan
hệ lợi ích khi thu hồi đất của nơng dân cho xây dựng các khu công nghiệp và
khu đô thị mới.


8

- Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả của các cơng trình nghiên cứu
trước đây và cập nhật những thơng tin mới về chủ đề nghiên cứu.
6. Đóng góp khoa học của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyết
quan hệ lợi ích trong thu hồi đất cho xây dựng các khu công nghiệp và đô thị
mới, đồng thời nêu ra một số định hướng và giải quyết hài hịa mối quan hệ
lợi ích giữa các chủ thể ở huyện Mê Linh, Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: Hệ thống hóa các lý thuyết về lợi ích nói chung và lợi
ích trong thu hồi đất cho xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới
- Về thực tiễn: Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết quan hệ lợi
ích trong thu hồi đất của nơng dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu

đô thị mới ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, kiến nghị quan điểm, giải
pháp giải quyết mối quan hệ này.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ lợi ích trong thu hồi
đất của nơng dân cho xây dựng khu công nghiệp và khu đô thị mới
Chương 2: Thực trạng giải quyết quan hệ lợi ích trong thu hồi đất của
nông dân cho xây dựng khu công nghiệp và khu đô thị mới ở các huyện Mê
Linh, thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế giải quyết hài hịa
quan hệ lợi ích trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng khu công nghiệp
và khu đô thị mới ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội


9

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ LỢI ÍCH TRONG
THU HỒI ĐẤT CỦA NƠNG DÂN ĐỂ XÂY DỰNG CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU ĐÔ THỊ MỚI
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích, quan hệ lợi ích
1.1.1. Khái niệm lợi ích
Lợi ích là điều có ích, có lợi cho một đối tượng nào đó, trong mối
quan hệ với đối tượng ấy. Lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất là một khái niệm
tập hợp những ích lợi mà các bên mong muốn đạt đến khi tham gia vào quá
trình lập kế hoạch SDĐ, thu hồi đất. Đây là những lợi ích được mang đến
trong hoặc ngồi mong đợi của chủ thể. Ích lợi này có thể ở nhiều phương
diện như: vật chất và tinh thần, trước mắt và lâu dài, lợi ích và lợi ích xã hội,
mơi trường.

Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ
khách quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội
và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định. Mỗi một con người hay xã hội
muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ phải được đáp ứng. Lợi ích và
nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu và là
cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích.
Cũng giống như lợi ích của con người nói chung, lợi ích kinh tế gắn
liền với nhu cầu, song đây không phải là nhu cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh
tế (nhu cầu vật chất). Chỉ có những nhu cầu kinh tế mới làm phát sinh lợi ích.
Vì vậy lợi ích là một phạm trù kinh tế, một mặt, nó phản ánh những điều kiện,
những phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con người, mỗi
chủ thể. Suy cho cùng, lợi ích được biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà


10

mỗi con người có được khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Mặt
khác, nó phản ánh quan hệ giữa con người với con người trong q trình tham
gia vào các hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất cho mình. Những quan hệ
đó chính là quan hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy lợi ích cịn là hình thức biểu
hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định.
Quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quyết định vị trí, vai trị của mỗi con người, mỗi chủ thể trong q
trình tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, khơng có lợi
ích nằm ngồi những quan hệ sản xuất, mà nó là sản phẩm của những
quan hệ sản xuất, là hình thức vốn có bên trong, hình thức tồn tại và biểu
hiện của các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo Ph.Ăngghen: Các quan
hệ kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức
lợi ích.
+ Quan điểm của Mác và Ăngghen về lợi ích:

Mác khẳng định "những tư tưởng mà tách rời lợi ích thì sẽ làm nhục
nó". Ví dụ: Tư tưởng "phải giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc", trong
thời kỳ đất nước bị xâm lược, bị áp bức sẽ chẳng có ý nghĩa gì và chẳng ai
thực hiện nó nếu ta khơng gắn việc giải phóng dân tộc với việc đem lại đời
sống hạnh phúc ấm no cho mọi người
Kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với lợi ích của người
dân là đời sống của con người sẽ được cải thiện nâng cao, sẽ khơng có hiện
tượng bóc lột.
Như vậy những tư tưởng mặc dù tốt đẹp, cao cả đến đâu đo chăng
nữa mà không gắn liền với quyền lợi và lợi ích thì chẳng ai thực hiện tư
tưởng đó cả.


11

Ănghen cho rằng: ở đâu khơng có sự thưởng nhất về lợi ích thì ở đó
khơng có sự thưởng nhất định những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định
nào đó được biểu hiện trước hết là ở dưới hình thức lợi ích.
Chẳng hạn: quan hệ mua bán, trao đổi, đầu tư, sản xuất… đều gắn
liền liền với lợi ích. Như vậy, tóm lại, lợi ích là trọng tâm của mọi vấn đề,
nó liên quan đến mọi người trong xã hội ở mọi lúc và mọi nơi trong mọi
hoạt động [16, tr.281-282]
Lợi ích là một phạm trù kinh tế kết quả là trung tâm của mọi vân đề,
nó liên quan đến mọi người trong xã hội ở mọi lúc và mọi nơi trong mọi hoạt
động. Xuất phát từ việc phân tích như trên ta có thể rút ra định nghĩa lợi ích
như sau: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế kinh doanh là hình thức biểu
hiện của quan hệ sản xuất biểu hiện của quan hệ sản xuất được phản ánh
trong ý thức thành động cơ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu vật chất nhu cầu kinh tế của chủ thể
tham gia vào hoạt động đó.

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của lợi ích
Bản chất của lợi ích được thể hiện ở những đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, nó xuất
hiện trong những điều kiện tồn tại là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu
cầu kinh tế của các chủ thể kinh tế
Lợi ích là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất. Hay nói cách
khác, nói một cách cụ thể hơn, lợi ích được quyết định trước hết bởi vị trí của
con người trong hệ thống quan hệ sản xuất trước hết là quan hệ sở hữu. Vì
vậy trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất
thì sẽ được lợi ích nhiều nhất.
Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã
hội thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích.


12

Lợi ích là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được quy định
một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bở hệ thống quan hệ sản xuất,
trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Ph.Ănghen viết: “những quan
hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức
lợi ích”.V.I.Lênin cũng cho rằng: Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác
được xác định một cách khách quan theo vai trị mà họ có trong hệ thống
quan hệ sản xuất, theo những hoàn cảnh và đIều kiện sống của họ.
Là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, lợi ích thể hiện trong tất
cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Cần khẳng định rằng, ở đâu có
hoạt động sản xuất-kinh doanh thì ở đó có lợi kinh tế và chủ thể sản xuất-kinh
doanh cũng là chủ thể của lợi ích.
Ví dụ: Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu tư liệu
sản xuất, vì vậy đóng vai trị ơng chủ tổ chức và quản lý q trình sản xuất và
phân phối kết quả làm ra theo hướng có lợi cho giai cấp mình dưới hình thức

q trình thể dục. Cịn giai cấp vơ sản khơng có trị liệu sản xuất buộc phải đi
làm thuê và bị bóc lột.
+ Lợi ích có tính lịch sử và giai cấp: Sở dĩ lợi ích mang tính lịch sử và
tính giai cấp bởi vì lợi ích quan hệ sở hữu quyết định mà quan hệ sản xuất bao
giờ cũng mang tính lịch sử và tính giai cấp. Do đó lợi ích cũng thay đổi và
luôn đảm bảo cho giai cấp thống trị nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất.
Mỗi một xã hội có một hệ thống lợi ích riêng của mình, mức độ thoả
mãn nhu cầu lợi ích do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất của xã hội đó quyết định. Mỗi hệ thống lợi ích đó lại có sự khác nhau về
tính chất, kết cấu về vị trí và mối quan hệ giữa các bộ phận trong kết cấu đó.
Thứ hai, lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản
xuất và đời sống.


13

Chính những lợi ích đã gắn bó con người với cộng đồng của mình và tạo
ra những kích thích, thơi thúc, khát vọng và sự say mê trong hoạt động sản xuấtkinh doanh cho người lao động. Lợi ích được nhận thức và thực hiện đúng thì nó
sẽ là động lực kinh tế thúc đẩy con người hành động. Do đó, lợi ích thể hiện như
là một trong những động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung, phát triển
sản xuất-kinh doanh nói riêng. Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích là những động cơ
đã lay chuyển những quần chúng đơng đảo. [16, tr. 290-295]
Thứ ba, lợi ích kinh tế cịn có vai trị quan trọng trong việc củng cố,
duy trì các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất -kinh doanh
Một khi con người (chủ thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế đều
nhằm đạt tới những lợi ích tương xứng với kết quả sản xuất kinh doanh thì
mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ thể lợi ích.
Ngược lại, khi khơng mang lại lợi ích hoặc lợi ích khơng được đầy đủ thì sẽ
làm cho các mối quan hệ đó (quan hệ giữa các chủ thể) xuống cấp. Nếu tình
trạng đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tiêu cực trong hoạt động sản xuấtkinh doanh.

Thứ tư, lợi ích kinh tế thiết thân của cá nhân người lao động là động
lực trực tiếp đối với sự hoạt động của từng con người nói riêng và của cả xã
hội nói chung
Trong giai đoạn lịch sử hiện nay của đất nước, các lợi ích, lợi ích
trước mắt của các cá nhân đang là cấp bách nhất, vì thế, nó cũng đang
đóng vai trị quan trọng hơn cả trong việc thúc đẩy các chủ thể hoạt động
và qua đó gây nên sự vận động, phát triển của xã hội. Vì vậy vào thời
điểm lịch sử hiện nay, chúng ta phải chủ trương tạo điều kiện thuận lợi và
khuyến khích các cá nhân, các gia đình cũng như các nhóm xã hội thực


14

hiện các lợi ích trên đây là hết sức đúng đắn, là phản ánh đúng những đòi
hỏi khách quan của thực tiễn cuộc sống. Thực ra, thông qua các chủ
trương ấy, chúng ta nhằm vào các mục đích lớn lao hơn - đó là đưa xã hội
thốt khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển đời sống kinh tế xã hội
của đất nước.
1.2. Quan hệ lợi ích trong thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp và khu đô thị mới
1.2.1. Bản chất giải quyết lợi ích trong thu hồi đất để xây dựng các
khu công nghiệp và khu đơ thị mới
1.2.1.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích trong thu hồi đất của người dân bao gồm: Quan hệ
giữa lợi ích của xã hội do Nhà nước là đại diện với lợi ích của doanh nghiệp
- chủ đầu tư dự án; quan hệ giữa lợi ích của doanh nghiệp - chủ đầu tư dự án
với lợi ích của người dân và quan hệ giữa lợi ích của Nhà nước (xã hội) với
lợi ích của người dân bị thu hồi đất.
Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất định sẽ quy
định hệ thống lợi ích của xã hội đó.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều quan
hệ sản xuất, mà trước hết là nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế, do đó hệ thống lợi ích cũng mang tính đa
dạng. Tuỳ góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại lợi
ích khác nhau sau đây:
- Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích thành:
Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.


15

- Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích tương ứng với các
thành phần kinh tế đó.
- Dưới góc độ các khâu của q trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích của
người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
Dù cách phân chia có thể khác nhau nhưng các lợi ích bao giờ cũng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau: vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Mặt
thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một hệ thống,
trong đó lợi ích này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích khác. Chẳng hạn, có lợi ích
của người sản xuất, thì mới có lợi ích của người trao đổi, người tiêu dùng và
ngược lại. Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó
dẫn đến xu hướng lấn át của lợi ích này đối với lợi ích khác. Do đó, nó có thể
gây nên những xung đột nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh
tế - xã hội. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích cũng mang
tính đối kháng, do đó, nó dẫn đến những cuộc đấu tranh khơng khoan nhượng
giữa các giai cấp.
Trong thực tế, lợi ích thường được biểu hiện ở các hình thức thu nhập
như: tiền lương, tiền cơng, lợi nhuận, lợi tức, địa tơ, thuế, phí, lệ phí..
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang tồn tại nhiều
thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và

đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh. Đại hội lần thứ X của
Đảng đã xác định: ở nước ta hiện nay có 5 thành phần kinh tế. Đó là: kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi.
Như vậy, trên một góc độ nào đó (dựa vào các mối quan hệ kinh tế
trực tiếp chẳng hạn) ta có thể thấy được 5 cơ cấu các lợi ích, đó là:


16

- Thành phần kinh tế nhà nước có lợi ích của Nhà nước (xã hội); lợi
ích tập thể; lợi ích cá nhân người lao động.
- Thành phần kinh tế tập thể có lợi ích tập thể; lợi ích xã hội; lợi
ích cá nhân.
- Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có lợi ích của doanh nghiệp; lợi
ích của xã hội; lợi ích của cá nhân người lao động.
- Thành phần kinh tế tư nhân có: lợi ích chủ doanh nghiệp; lợi ích cá
nhân người lao động (đối với cơ sở có th mướn lao động); lợi ích xã hội.
- Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có lợi ích của nhà đầu
tư nước ngồi; lợi ích của nước chủ nhà; lợi ích của người lao động trong các
doanh nghiệp liên doanh.
Trong các cơ cấu lợi ích ấy, thì lợi ích nhà nước (xã hội) giữ vai
trị “hàng đầu” và là cơ sở để thực hiện các lợi ích khác, cịn lợi ích của
người lao động là quan trọng, nó thể hiện như là động lực trực tiếp thúc
đẩy người lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, doanh nghiệp... chỉ
hành động khi họ thấy được lợi ích của mình mà khơng cần thuyết phục
hoặc cưỡng bức. Song, vì có nhiều lợi ích khác nhau và vì lợi ích riêng
của mỗi cá nhân, vì lợi ích cục bộ, trước mắt có thể làm tổn hại đến lợi ích
chung của cộng đồng (tập thể và xã hội), do đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa

Việt Nam với tư cách là người tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế vĩ
mô phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích và hướng chúng vào
một quỹ đạo chung, tạo động lực lâu bền, mạnh mẽ và vững chắc cho sự
phát triển.


17

1.2.1.2. Đặc điểm của giải quyết lợi ích trong thu hồi đất để xây dựng
các khu công nghiệp và khu đô thị mới
Thu hồi đất trong các dự án xây dựng khu đô thị mới, chỉnh trang đô
thị là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất đã
giao cho các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai để thực
hiện các dự án xây dựng khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị theo quy hoạch đã
được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Đặc điểm việc thu hồi
đất của Nhà nước trong các dự án xây dựng khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị
là thể hiện quyền lực của đại diện chủ sở hữu nhằm thực thi một trong những
nội dung của quản lý nhà nước về đất đai thông qua một quyết định hành
chính của người có thẩm quyền nhằm chấm dứt quan hệ sử dụng đất giữa Nhà
nước với người sử dụng đất. Việc thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu của Nhà
nước và xã hội trên cơ sở các căn cứ do luật định. Việc thu hồi đất để thực
hiện các dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị được xác
định là các trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, cơng cộng. Tuy nhiên, các dự án này phải thuộc trường hợp do Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh chấp thuận, đồng thời, căn cứ thu hồi đất phải dựa trên kế
hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt và tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án. Hậu quả pháp
lý của việc thu hồi đất liên quan đến quyền, lợi ích của Nhà nước, các chủ đầu
tư và người bị thu hồi đất. Vì vậy, Nhà nước cần quan tâm đến lợi ích của xã
hội, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.

Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước thu lại quyền sử dụng đất
(QSDĐ) của người được Nhà nước trao QSDĐ hoặc thu lại đất của người sử
dụng đất (SDĐ) vi phạm pháp luật đất đai (khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai năm
2013). Thu hồi đất có nhiều trường hợp như: thu hồi đất nhằm thực hiện quy
hoạch, kế hoạch SDĐ, thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai và các


18

trường hợp chấm dứt QSDĐ như người SDĐ tự nguyện trả lại đất... Trên
thực tế, khi đề cập đến vấn đề cân bằng lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất,
chúng ta thường nhắc đến trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các
dự án đầu tư nhằm ổn định và phát triển đất nước. Đó là trường hợp thu hồi
đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng được
quy định tại Điều 62 Luật Đất đai năm 2013. Hoạt động này bắt đầu từ khi
Nhà nước công bố quy hoạch, kế hoạch SDĐ đến khi quyết định thu hồi đất
có hiệu lực và người có đất bị thu hồi đã bàn giao đất cho cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.[40, 28].
Lợi ích là “điều có ích, có lợi cho một đối tượng nào đó, trong mối quan
hệ với đối tượng ấy. Lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất là một khái niệm tập hợp
những ích lợi mà các bên mong muốn đạt đến khi tham gia vào quá trình lập kế
hoạch SDĐ, thu hồi đất. Đây là những lợi ích được mang đến trong hoặc ngồi
mong đợi của chủ thể. Ích lợi này có thể ở nhiều phương diện như: vật chất và
tinh thần, trước mắt và lâu dài, lợi ích và lợi ích xã hội, mơi trường.
Điều tiết lợi ích nói chung là việc phân chia một lợi ích cho các chủ
thể có cân nhắc đến sự tương xứng và cơng bằng. Điều tiết lợi ích trong thu
hồi đất và giải phóng mặt bằng là việc Nhà nước, thơng qua pháp luật, cơ
chế, chính sách để xác định các loại lợi ích trong q trình thu hồi đất đối
với các nhóm chủ thể; từ đó có những giải pháp bù đắp thiệt hại; cân nhắc
giữa yếu tố “lợi” và “bất lợi” trong một dự án dưới nhiều góc độ về kinh tế,

xã hội, mơi trường; cân bằng giữa lợi ích các chủ thể khi một dự án hoàn
thành. Đây là cơ sở để xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá dự án, thực hiện
tốt hơn cơng bằng xã hội.
Cân bằng lợi ích là việc Nhà nước, thơng qua pháp luật, cơ chế chính
sách để giải quyết hài hồ mối quan hệ giữa lợi ích cơng cộng và lợi ích chính
đáng của những người có đất bị thu hồi. Đây có thể được xem như là một


19

nguyên tắc tối ưu cần phải được lựa chọn để bảo vệ lợi ích cho cả hai bên.
Trên thực tế, cân bằng là một trạng thái trong một khoảng thời gian nhất định
và trong một hồn cảnh cụ thể. Ví dụ: Trong thời kỳ chiến tranh hay khủng
hoảng kinh tế, lợi ích cơng cộng cần phải được nhấn mạnh hơn. Tuy nhiên,
trong hịa bình, lợi ích cơng cộng là một trong những cách hiệu quả để hài hịa
các lợi ích cá nhân của các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
1.2.1.3. Các chủ thể cấu thành quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh
tế thị trường
Giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích là một vấn đề khá phức tạp và
giữ vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu nguồn gốc, động lực phát triển xã
hội nói chung, phát triển kinh tế thị trường nói riêng. Theo Ph.Ăngghen, "ở
đâu khơng có lợi ích chung, ở đó khơng có sự thống nhất về mục đích". Q
trình giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích là tạo ra những điều kiện trong
đó việc thực hiện các lợi ích sao cho cùng một hướng và bảo đảm tính hàng
đầu của lợi ích xã hội, cái có lợi đối với xã hội thì cũng phải có lợi đối với tập
thể, cá nhân và mỗi doanh nghiệp. Đó là nguyên tắc của sự kết hợp lợi ích
trong nền kinh tế thị trường.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích phải tính đến sự đan chéo,
chế ước, tác động qua lại giữa các lợi ích, đồng thời phải tính tốn một cách
tồn diện, bảo đảm lợi ích trước mắt, lâu dài, lợi ích tồn bộ và bộ phận.

Trong q trình thu hồi đất của người dân để thực hiện công cuộc
công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đã hình thành mối quan hệ lợi ích
giữa các chủ thể kinh tế đại diện cho các lợi ích đặc trưng nhất của nền kinh tế
thị trường hiện nay, cụ thể là:
- Nhà nước đại diện cho lợi ích kinh tế của xã hội: Việc thu hồi đất


20

nơng nghiệp để chuyển đổi mục đích sử dụng cho phù hợp với sự phát triển
của xã hội sẽ tạo ra những phát triển mới của nền kinh tế xã hội, thay đổi cơ
cấu của nền kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nhằm tạo ra sự
tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao sẽ tạo ra nhiều lợi ích mới cho nhân dân,
thực hiện được các mục tiêu phát triển xã hội như tạo việc làm, nâng cao thu
nhập cho người lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, xóa
đói, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội, phát
triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa… Vì vậy trong chính sách phát triển của
đất nước, nhà nước với vai trò quản lý, điều hành xã hội đã đưa ra những chủ
trương, chính sách phù hợp nhằm nâng cao lợi ích xã hội. Nhà nước cũng là
đại diện của lợi ích xã hội đó vì thế trong mối quan hệ lợi ích này nhà nước
phải có các chính sách phù hợp để đảm bảo lợi ích chung này.
Thông qua các cơ quan nhà nước, những lợi ích mà dự án thu hồi đất
mang lại được xác định trong các căn cứ thu hồi đất, mục đích thu hồi đất. Từ
khi lập dự thảo, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã cân nhắc đến tất cả các yếu tố lợi ích về
phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… một khi thực hiện dự án. Các
yếu tố này vẫn tiếp tục được xem xét trong quá trình phê duyệt những dự án
phù hợp với kế hoạch SDĐ hàng năm cũng như giám sát kiểm tra việc thực
hiện dự án, bảo đảm đúng với mục tiêu ban đầu.
- Chủ các dự án đầu tư (Doanh nghiệp):

Chủ đầu tư là những người bỏ vốn ra để thực hiện dự án. Tùy vào từng
mục tiêu của dự án mà chủ đầu tư có thể là Nhà nước, doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước hay các loại hình thương nhân… Trong
đa số các trường hợp, mục tiêu đầu tiên mà một tổ chức kinh tế muốn trở
thành chủ đầu tư cho dự án là vấn đề “lợi ích”, “sinh lời”. Nói cách khác, chủ
đầu tư tìm thấy những điểm chung nhất định về lợi ích giữa kế hoạch sử dụng


21

đất đã được xét duyệt tại một địa bàn nhất định với dự án đầu tư mà mình dự
kiến triển khai.
Là những chủ thể kinh tế đại diện cho lợi ích của đơn vị. Lợi ích của
họ bao gồm quyền được nhà nước giao sử dụng số đất nông nghiệp được thu
hồi để xây dựng các KCN, các khu đô thị mới và lợi nhuận được tạo ra trong
việc sử dụng số đất đai đó để sản xuất kinh doanh. Đây là cơ hội làm việc, là
điều kiện cho họ sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có của mình như nhân công,
vốn để tạo ra các lợi nhuận mới nghĩa là tạo ra các lợi ích mới cho bản thân
đơn vị của họ nói riêng và cho cả xã hội nói chung. Doanh nghiệp - chủ đầu
tư các dự án phát triển sản xuất - kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận lại là
điều kiện để tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước. Do đó Nhà nước cũng
cần phải quan tâm có cơ chế, chính sách hợp lý khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư vào phát triển các KCN và khu đô thị mới.
- Người dân bị thu hồi đất: Đại diện cho lợi ích của cá nhân họ. Đất
đai vốn là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của người dân. Lợi ích cơ bản của
họ chính là quyền được sử dụng đất đai đó để làm ra của cải, phục vụ cho nhu
cầu của mình và tham gia vào hệ thống trao đổi của xã hội. Vì vậy, khi đất đai
bị thu hồi thì lợi ích của họ là quyền được đền bù xứng đáng để họ có điều
kiện cần thiết tiếp tục duy trì hoạt động lao động và đảm bảo đời sống của
mình và gia đình mình. Ở đây cần chú ý rằng, lợi ích của người dân bị thu hồi

đất không phải chỉ thể hiện ở số tiền mà họ được đền bù, mà còn thể hiện ở
những điều kiện vật chất cụ thể được tạo ra sau khi thu hồi đất để họ tiếp tục
sản xuất kinh doanh ổn định đời sống - đây mới là lợi ích lâu dài, bảo đảm sự
ổn định chính trị - xã hội.
Nếu một dự án thực hiện mà khơng mang lại bất kỳ lợi ích nào cho
người dân với tư cách cộng đồng thì khơng cịn là một dự án có thu hồi đất


22

đúng nghĩa nữa. Trực tiếp hay gián tiếp, một bộ phận lớn người dân phải được
hưởng lợi nhất định từ dự án. Ví dụ: Dự án mở rộng đường phố sau khi thực
hiện sẽ làm giảm ùn tắc giao thông, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu đi lại của
người dân, đặc biệt là người dân địa phương.
Xét về tổng thể thì thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng là q
trình nâng cao lợi ích chung của tồn xã hội. Tuy nhiên trong q trình đó
khơng thể khơng tính đến lợi ích của các chủ thể cịn lại, đặc biệt là người dân.
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết quan hệ lợi ích trong thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp và đô thị mới
1.2.2.1. Nguyên tắc công bằng
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu quyết định thành cơng của giải
quyết quan hệ lợi ích trong thu hồi đất. Nếu chính sách cơng bằng những người
bị thu hồi đất sẽ tự nguyện chấp hành. Ngược lại, họ sẽ chống đối, giải quyết
quan hệ lợi ích trong thu hồi đất hoặc thất bại, hoặc trả giá đắt. Cơng bằng ở đây
là cơng bằng về chính sách, cơng bằng về chế độ, về đơn giá, về mức bồi
thường, hỗ trợ, về đối tượng thụ hưởng,... Công bằng không có nghĩa là cào bằng
bình qn. Để có chính sách cơng bằng phải hoạch định chính sách sát thực tế,
xem xét lợi ích một cách phân minh. Ngun tắc cơng bằng phải được quán triệt
và thực hiện nhất quán từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên.
1.2.2.2. Nguyên tắc hiệu quả

Ngun tắc này địi hỏi người có thẩm quyền thực thi giải quyết quan
hệ lợi ích trong thu hồi đất phải cân nhắc tính tốn kỹ càng về mọi mặt trước
khi quyết định. Hiệu quả ở đây được hiểu trước hết là hiệu quả về kinh tế
sau đó là hiệu quả về mặt xã hội (ổn định tình hình, ổn định đời sống). Nói
cách khác, phải tạo được sự đồng thuận của người dân trong vùng dự án.
Nguyên tắc hiệu quả phải đạt được cả trong ngắn hạn cũng như trong dài


23

hạn. Tuyệt đối khơng vì lợi ích trước mắt mà khơng tính đến lợi ích lâu dài
cho các thế hệ sau.
1.2.2.3. Nguyên tắc dân chủ
Nguyên tắc này đòi hỏi trong hoạch định giải quyết quan hệ lợi ích
trong thu hồi đất phải tham khảo ý kiến của dân cư, nhất là những người chịu
ảnh hưởng trực tiếp. Khi quyết định phải theo nguyên tắc thiểu số phục tùng
đa số, tập thể bàn bạc cân nhắc kỹ trước khi quyết định. Tuyệt đối khơng được
áp đặt quyết định từ một phía, khơng được tuyệt đối hố vai trị của cá nhân
cán bộ có chức quyền. Dân chủ nhưng phải tập trung, đồng thời tập trung
nhưng phải dân chủ cả ở khâu hoạch định chính sách cũng như thực hiện
chính sách, phải đối xử với mọi người một cách bình đẳng, tơn trọng quyền và
nghĩa vụ của họ.
1.2.2.4. Nguyên tắc tiết kiệm ngân sách nhà nước
Ngun tắc này địi hỏi người có thẩm quyền, người thực thi cơng vụ
có quyền quyết định chi ngân sách nhà nước phải hết sức tiết kiệm, khơng
được lãng phí. Vì ngân sách nhà nước có hạn, mà nguồn tiền để bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư lại rất lớn. Tiết kiệm chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư nhưng vẫn phải đảm bảo yêu cầu về lợi ích của người dân và điều
kiện sống của họ. Tiết kiệm khơng có nghĩa là bớt xén, là thực hiện khơng
đúng chế độ chính sách. Tiết kiệm là tổ chức công việc bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư một cách khoa học, quy củ, tránh làm rồi sửa, phá.
1.2.2.5. Nguyên tắc hỗ trợ người khó khăn
Nguyên tắc này hướng tới việc thực hiện các chính sách xã hội đối
với các trường hợp đặc thù, có hồn cảnh đặc biệt. Đó chính là tinh thần
tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, là bản chất tốt đẹp của xã hội ta.
Những nguyên tắc cơ bản nêu trên đều có vị trí quan trọng và có mối
quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau, ràng buộc nhau. Trong q trình cụ
thể hố chính sách và tổ chức thực hiện ở địa phương phải tôn trọng các


24

nguyên tắc nêu trên. Tuyệt đối không được xem nhẹ nguyên tắc này, xem
nặng nguyên tắc kia mà ngược lại, phải căn cứ vào chế độ chính sách của nhà
nước và tình hình thực tiễn ở địa phương để vận dụng một cách linh hoạt
nhằm đạt mục tiêu của giải quyết quan hệ lợi ích trong thu hồi đất là ổn định
tình hình, phát biển bền vững và cơng bằng xã hội.
1.2.3. Sự cần thiết phải giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích trong thu
hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới
Trong quá trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa ở nước ta, việc thu hồi đất
nông nghiệp chuyển sang làm đường, xây dựng các khu công nghiệp và khu
đô thị hiện đại sẽ cịn tiếp tục. Đi đơi với q trình thu hồi đất đó, số lượng
người dân bị thu hồi đất sẽ ngày càng tăng mà nếu khơng có chính sách hợp
lý, bài bản, dài hạn với họ thì nguy cơ bùng phát các vụ khiếu kiện, điểm
nóng sẽ nhiều hơn.Chính vì vậy, việc giải quyết hài hịa các mối quan hệ lợi
ích trong thu hồi đất là hết sức cần thiết. Cụ thể như sau:
1.2.3.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, người sở hữu nhà ở, chủ đầu tư,
chính quyền.
Ở nước ta, Nhà nước còn nắm một phần quyền sử dụng đất về mặt

pháp lý, tức nắm quyền quy định mục đích sử dụng cho các thửa đất theo quy
hoạch. Nhà nước nắm quyền này là để định hướng sử dụng đất đai cho phù
hợp với lợi ích của tồn xã hội về các phương diện đảm bảo an ninh lương
thực, cân đối các nhu cầu sử dụng đất, sử dụng đất hiệu quả, hạn chế tình
trạng đất để hoang hố, vơ chủ, sử dụng lãng phí, khơng bảo vệ đất,... Nhà
nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để đảm bảo đất có chủ
sử dụng thực sự và hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước giao quyền sử dụng đất
đúng mục đích cũng tạo điều kiện cho thị trường quyền sử dụng đất sau khi
hoạt động để khuyến khích sử dụng đất hiệu quả.
Trong rất nhiều mối quan hệ chồng chéo đó, làm thế nào để bảo đảm
lợi ích hợp lý giữa xã hội và cá nhân là vấn đề vô cùng phức tạp. Song, nếu


25

khơng giải quyết được các quan hệ này thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư sẽ khó triển khai. Bởi vì, Luật Đất đai ở nước ta quy định khi Nhà
nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích cơng cộng và phát triển kinh tế thì Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân bị mất đất.
Vậy bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như thế nào để đảm bảo sự hài
hịa lợi ích?
Thơng thường, việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải đáp ứng các
yêu cầu:
- Tạo điều kiện để người bị mất đất có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn
trước khi mất đất.
- Điều tiết phần lợi ích gia tăng khơng do các cá nhân tạo ra về ngân
sách nhà nước.
- Tạo điều kiện để người sử dụng đất sau này hoàn thành mục tiêu đã
được xã hội chấp thuận.

- Bảo tồn được quỹ đất và mơi trường.
1.2.3.2. Giải quyết hài hịa mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể
trong thu hồi đất nhằm ổn định cuộc sống, ổn định việc làm cho người dân
bị mất đất.
Việc thu hồi đất ở nước ta khơng hồn tồn mang tính thị trường nên
quan tâm đến cuộc sống của người dân bị mất đất là một mục tiêu quan trọng.
Để ổn định cuộc sống cho người mất đất cần xây dựng khu tái định cư đồng
bộ, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, văn hóa ít nhất khơng được thấp hơn địa
điểm cũ, nhất là các dịch vụ thiết yếu như giao thông, điện, nước, y tế, giáo
dục, hành chính...
Để ổn định lâu dài cho người dân bị mất đất, cần tạo điều kiện cho họ
có việc làm thơng qua các chương trình đào tạo, hỗ trợ đầu tư, lập nghiệp
hoặc xúc tiến việc làm. Trên thực tế việc làm của cơ quan tái định cư và người


×