Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đổi mới kiểm tra đánh giá Ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.38 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của sáng kiến
Đổi mới KTĐG là hết sức cần thiết trong quá trình triển khai đổi mới
chương trình giáo dục phổ thơng để đảm bảo và giữ vững quan điểm đổi mới
giáo dục phổ thông, đặc biệt tạo điều kiện thiết yếu cho việc đổi mới PPDH
hướng vào hoạt động học tích cực, chủ động có mục đích rõ ràng của người
học.
Việc kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng của HS có vai trị rất quan
trọng, nó vừa giữ vai trị động lực thúc đẩy q trình dạy học, nó lại vừa có
vai trò bánh lái, giúp giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy và giúp người
học thay đổi phương pháp học tập để phù hợp với hình thức, phương pháp
kiểm tra nhằm đạt kết quả cao.
- Thông qua KTĐG tạo điều kiện cho GV :
+ Nắm được sự phân hố về trình độ học lực của HS trong lớp, từ đó có
biện pháp giúp đỡ HS yếu và bồi dưỡng HS giỏi; có cơ sở thực tế để điều
chỉnh và hồn thiện quá trình dạy học.
+ Giúp cho HS : biết được khả năng học tập của mình so với mục tiêu
đề ra và với yêu cầu của chương trình; tìm được nguyên nhân sai sót, từ đó
điều chỉnh hoạt động của mình; phát triển kĩ năng tự đánh giá.
+ Giúp cho cha mẹ HS và cộng đồng biết được kết quả dạy học một
cách thực chất, khách quan, toàn diện nhất.
+ Giúp cho cán bộ quản lí giáo dục nắm được các thông tin cơ bản về
thực trạng dạy và học ở đơn vị để có sự chỉ đạo kịp thời, đúng hướng.
Đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục phổ thơng
nói chung và bộ mơn Ngữ văn nói riêng là vấn đề được đặt ra và thực hiện từ
nhiều năm nay. Để thực hiện vấn đề này, đã có nhiều những hình thức và biện
pháp dạy học được triển khai như: dạy học nêu vấn đề, tổ chức các hoạt động
dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, ứng dụng
công nghệ thơng tin trong dạy học…
Những biện pháp và hình thức đó, trong q trình thực hiện, đã góp
phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy


của giáo viên và chất lượng học tập của HS. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa
chất lượng dạy học, bên cạnh các biện pháp, hình thức dạy học như trên thì
việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS là vô cùng quan trọng.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá sẽ tạo động lực thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy
học, góp phần nâng cao chất lượng, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu của môn Ngữ văn ở trường phổ thông là hình thành và phát
triển ở HS năng lực chung (tức năng lực giao tiếp, khả năng ứng dụng các
1


kiến thức và kĩ năng đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn, và năng lực
chuyên biệt. Tức là năng lực văn học, gồm tiếp nhận hoặc cảm thụ văn học,
sáng tác văn học) tuy nhiên, nhà trường phổ thông hiện nay chưa đặt ra mục
tiêu cụ thể về hình thành và bồi dưỡng năng lực đặc trưng của bộ môn cho
HS.
Để đánh giá được các năng lực Ngữ văn của HS, cần có những bộ cơng
cụ phù hợp với mục đích và tính chất của từng bài kiểm tra, kì thi. Việc kiểm
tra, đánh giá thường xuyên và định kì phải mang tính chất rèn luyện, thực
hành, tăng cường yêu cầu vận dụng để chuẩn bị cho các kì thi quốc gia.
Hiện nay nhiều giáo viên trong các nhà trường đã thực hiện nhiều kĩ
thuật dạy học để đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn đồng thời còn sử
dụng nhiều phương pháp để đánh giá năng lực người học. Tuy nhiên, những
phương pháp đánh giá đó cịn nhiều hạn chế và khó khăn trong q trình thực
hiện. Với đặc trưng năng lực bộ mơn, cần có những phương pháp mới để đánh
giá đúng năng khiếu, năng lực và cảm thụ văn học của HS.
II. Lý do chọn sáng kiến
Kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập là một khâu quan trọng trong quá
trình dạy học ở nhà trường phổ thông, giúp đánh giá năng lực người học và
điều chỉnh phương pháp dạy học. Đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ là động lực
thúc đẩy các quá trình khác như đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách

thức tổ chức hoạt động dạy học, đổi mới quản lý….
Hiện nay, một số nội dung kiểm tra vẫn thiên về học thuộc lịng văn
bản, ghi nhớ máy móc một nội dung nào đó của văn bản, kiểm tra trí nhớ là
chính. Việc kiểm tra đánh giá đó theo hướng cung cấp nội dung nên kết quả là
HS tập trung học thuộc lòng hoặc sưu tầm chép những bài văn mẫu. Một số
giáo viên mới chỉ đánh giá để biết được mức độ tiếp thu kiến thức và kỹ năng
của người học mà chưa chú ý đến yêu cầu thực hiện những cơng việc có ý
nghĩa giống với những thách thức đời thường sẽ gặp sau này để xem người
học hình thành kỹ năng đến mức nào. Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì
cái quan trọng trong việc đào tạo ở THPT không chỉ là cung cấp kiến thức mà
quan trọng hơn là dạy cách học.
Để khắc phục tình trạng trên, tránh sự khuôn mẫu và để phát huy tính
tích cực, chủ động, độc lập suy nghĩ của HS thì việc làm cấp bách hiện nay là
phải đổi mới quá trình kiểm tra đánh giá năng lực học của HS.
Hiện nay, thực tế chung tại các nhà trường THPT là các đề thi chưa
đánh giá được toàn diện năng lực Ngữ văn của người học, chưa khuyến khích
được sự sáng tạo của HS trong làm bài. Ngoài ra, với tâm lí dạy và học khá
thực dụng, hầu hết các câu hỏi trong bài kiểm tra thường xuyên và định kì đều
ra theo “mẫu”, “dạng” của đề thi THPT Quốc gia. Cách kiểm tra đánh giá này
vơ hình chung khơng đánh giá được toàn diện năng lực người học, chưa thực
2


sự công bằng khi nhận định về năng lực của một HS so với các HS khác trong
lớp.
Tính “ổn định” trong cách ra đề và làm đáp án của kì thi THPT Quốc
gia này có ảnh hưởng vơ cùng lớn với việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập
và phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
Trên thực tế, năng lực Ngữ văn của HS phong phú hơn nhiều so với
những “chuẩn” nêu ở trong chương trình hiện hành. Theo thuyết trí thơng

minh đa dạng của Tiến sĩ Howard Gardner, con người có 8 loại trí thơng minh
khác nhau (Ngơn Ngữ, Tốn học, Giao tiếp, Vận động, Âm nhạc, Tự nhận
thức, Tự nhiên, Khơng gian). Nói cách khác, mỗi HS có những năng lực, trí
thơng minh khác nhau, nhiệm vụ của người giáo viên là khai thác được các
tiềm năng đó, giúp HS tự nhận thức được thế mạnh của mình và đánh giá HS
ở các thế mạnh riêng của nó. Nếu chỉ dụng một phương thức KTĐG thì khơng
cơng bằng với các HS trong lớp. Vì vậy, khơng cần phải đợi đến khi có
chương trình giảng dạy phổ thông môn Ngữ văn theo hướng tiếp cận năng lực
ra đời mới đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập Ngữ văn của HS theo
hướng đánh giá năng lực.
Đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực, tức là xác định được khả
năng vận dụng tổng hợp những gì đã học của HS vào việc giải quyết những
tình huống mới. Phương thức đánh giá khơng chú trọng yêu cầu học thuộc,
nhớ máy móc, nói đúng và đầy đủ những điều thầy, cô đã dạy… mà coi trọng
ý kiến và cách giải quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học; động viên những
suy nghĩ sáng tạo, mới mẻ, giàu ý nghĩa; tôn trọng sự phản biện trái chiều,
khuyến khích những lập luận giàu sức thuyết phục…
Do cách ra đề kiểm tra như vậy thì giáo viên cũng chỉ chủ yếu dạy theo
phương pháp thuyết trình, minh họa , dạy chay, ít dạy thực hành. Nói chung ra
đề kiểm tra bằng các hình thức trên thì chưa ngăn chặn được những biểu hiện
tiêu cực trong kiểm tra như cịn có hiện tượng nhìn bài, quay bài, nhắc bài cho
bạn… Do vậy chưa khuyến khích tư duy sáng tạo, chưa phát huy tính tích
cực, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. vấn đề đặt ra là làm thế nào để việc kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của HS tốt hơn, đảm bảo tính khách quan, đa
chiều, công bằng…
Để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và xu thế quốc tế, cần đổi mới
kiểm tra đánh giá chất lượng học tập mơn Ngữ văn nói chung và nhất là ở cấp
THPT, bởi nó có tác động trực tiếp đến khả năng thi THPT Quốc gia theo
định hướng phát triển năng lực người học.
Trong hoạt động chun mơn tại trường THPT Phiêng Khồi, BGH nhà

trường coi trọng nhiệm vụ đổi mới kiểm tra- đánh giá để thúc đẩy đổi mới
phương pháp dạy học các bộ môn. Nhiều giáo viên đã tích cực đổi mới PPDH
và kiểm tra đánh giá, song vẫn còn vướng mắc ở nhiều khâu, nhiều giai đoạn.
Nên việc kiểm tra đánh giá vẫn chưa thực chất: ví dụ ra đề q khó hay quá
3


dễ, đề bài chỉ đổi mới hình thức mà chưa chú trọng nội dung, chưa đánh giá
được những năng khiếu, thế mạnh của HS….
Vì vậy, là một giáo viên Ngữ văn, tôi xây dựng sáng kiến: “ Một số
kinh nghiệm trong đổi mới kiểm tra đánh giá ở môn Ngữ văn 11 tại trường
THPT Phiêng Khoài”
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của sáng kiến là một số kinh nghiệm trong
đổi mới kiểm tra đánh giá ở môn Ngữ văn 11 tại trường THPT Phiêng Khoài
năm học 2018 – 2019
- Phạm vi nghiên cứu
+ Thời gian: năm học 2018-2019
+ Giới hạn thực nghiêm: HS các lớp 11A3, 11A4 và 11A5 Trường THPT
Phiêng Khoài năm học 2018-2019
IV. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí thuyết và thực tiễn áp dụng việc đổi mới kiểm
tra đánh giá ở HS lớp 11 trường THPT Phiêng Khồi.
Từ đó đề xuất một số kinh nghiệm trong đổi mới kiểm tra
đánh giá mới phù hợp với HS các lớp 11A3, 11A4 và 11A5 và với
mơn Ngữ văn nói chung.
Nhằm xây dựng những hình thức, phương pháp kiểm tra
đánh giá hiệu quả, vừa đánh giá thực chất năng lực người học
vừa phát huy được năng khiếu HS và tạo hứng thú trong học
tập bộ môn.


4


PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng vấn đề
Thập niên gần đây để đáp ứng với nhu cầu của thời kì mới, ngành giáo
dục đã và đang từng bước thay đổi chương trình và phương pháp đào tạo, tuy
nhiên việc kiểm tra đánh giá vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức,
nhiều khi cịn tùy tiện, chủ quan, thiếu chính xác, hình thức chủ nghĩa, cơng
tác thanh kiểm tra về vấn đề này chưa được thường xuyên. Điều đó cho thấy
muốn thay đổi một hệ thống chương trình và phương pháp giáo dục cần chú
trọng việc đổi mới kiểm tra đánh giá.
Nhắc đến kiểm tra đánh giá trong các môn học nói chung và trong mơn
Ngữ văn nói riêng, người ta thường nghĩ đến các hình thức kiểm tra như:
Kiểm tra miệng (về các bài đọc hiểu văn bản là chính): Hiện nay
khơng có quy định cụ thể về cách kiểm tra miệng, song thơng thường là kiểm
tra học thuộc lịng văn bản, ghi nhớ máy móc một nội dung nào đó của văn
bản mà HS chưa được trình bày cách hiểu và lí giải một khía cạnh nào đó của
văn bản dưới hình thức nói/trình bày miệng.
- Kiểm tra dưới 1 tiết (thường là kiểm tra 15 phút): Cũng như kiểm tra
miệng, hiện nay khơng có quy định cụ thể về cách kiểm tra dưới 1 tiết, song
đó cũng thường là kiểm tra học thuộc lòng văn bản, ghi nhớ máy móc một nội
dung nào đó của văn bản; hoặc có đổi mới nhưng chỉ mang tính hình thức
hoặc đổi mới chưa hiệu quả
- Kiểm tra từ 1 tiết trở lên (45 phút – 90 phút): dưới dạng 2 phần đọc
hiểu và làm văn, ở các mức độ nhận biết, thông hiểu và vận dụng; yêu cầu HS
tạo lập VB (tự sự, thuyết minh, nghị luận…) về một vấn đề văn học hoặc đời
sống; phạm vi kiến thức và kĩ năng kiểm tra hẹp (sau một cụm bài, một bài
học).

Trong kiểm tra đánh giá một số mơn ở chương trình THPT như: Hóa,
Sinh, Lý, Cơng nghệ, Địa, Sử…có tiết thực hành và có tối thiểu một lượt
điểm/học kì là điểm thực hành. Nhưng mơn Ngữ văn hiện chưa có lượt điểm
thực hành(chỉ có điểm miệng, điểm viết…). Trong khi thực tế mơn Ngữ văn
có rất nhiều tiết thực hành (Sáng tác thơ, dịch thơ Nơm, thơ chữ Hán, …). Vì
vậy, KTĐG ở mơn Ngữ văn chưa có tính thực hành cao. Đa số đều là lý
thuyết, viết trên giấy. Cách kiểm tra này khiến văn học chưa thực sự gắn liền
với đời sống.
5


Chương trình mơn Ngữ văn hiện hành thiên về cung cấp kiến thức văn
học nên hầu hết các chuẩn về kĩ năng đọc, viết đều liên quan đến văn học; các
chuẩn chưa được cụ thể hóa thành những kĩ năng, thao tác cụ thể (“mức độ
cần đạt” thường là “hiểu, cảm nhận được những nét chính về nội dung và
nghệ thuật”, “bước đầu hiểu một số đặc điểm về thể loại”; phần “diễn giải”
thường nêu các kĩ năng đi kèm là “nhớ, đọc thuộc lịng”, trong đó “nhớ”
chiếm tỉ lệ nhiều hơn cả.
Các đề kiểm tra thường xuyên, đề kiểm tra định kì, đề thi tốt nghiệp
THPT quốc gia hầu như được ra theo dạng cố định, tính tích hợp (giữa các
phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Văn học và liên môn) chưa cao.
Các câu hỏi chủ yếu đánh giá HS ở 2 mức nhận biết và thông hiểu.
Phần lớn nội dung các đề thi kiểm tra kiến thức về văn học, về chính những
văn bản đã học trong chương trình và sách giáo khoa.
Để làm bài, HS thường phải ghi nhớ máy móc nội dung bài học. Đáp án
của đề thi đưa ra hệ thống ý mà các em phải trình bày cùng với biểu điểm hết
sức cụ thể, chi tiết. Cách làm này mang tính áp đặt, nếu học sinh khơng làm
đúng đáp án sẽ khơng có điểm.
Để khắc phục tình trạng trên, tránh sự khn mẫu và để phát huy tính
tích cực, chủ động, độc lập suy nghĩ của HS thì việc làm cấp bách hiện nay là

phải đổi mới khâu ra đề, kiểm tra đánh giá năng lực học của HS.
II. Nội dung sáng kiến
1.

Bản chất của giải pháp mới

1.1 Vận dụng các PPDH, kĩ thuật dạy học để kiểm
tra, đánh giá năng lực chuyên biệt, năng khiếu của HS
Thực hiện theo hướng dẫn của công văn 1318/SGDĐT-GDTrH ngày
28/8/2017 của Sở Giáo dục và Đào tạo Sơn La về hướng dẫn xây
dựng kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triển năng lực
HS từ năm học 2017 - 2018. Và công văn 1173/SGDĐT-GDTrH
ngày 29/8/2018 của Sở Giáo dục và Đào tạo Sơn La về việc
thực hiện nhiệm vụ GDTrH năm học 2018 - 2019. Theo đó, các
nội dung về đổi mới PPDH, KTĐG phải được xây dựng từ đầu
năm học và cụ thể hóa trong PPCT. Trong q trình thực hiện,
có những bổ sung, điều chỉnh kịp thời để phù hợp với thời
gian, đối tượng HS, ….
Việc đổi mới kiểm tra đánh giá này tập trung khai thác
những năng khiếu nhất định và đánh giá năng lực (khả năng
tiếp thu, sự tích cực, khả năng làm việc, đóng góp vào sản
phẩm học tập) của HS. Kết hợp với các bài kiểm tra viết đã
được quy định trong kế hoạch dạy học (PPCT), thì các hình
6


thức đổi mới kiểm tra đánh giá này sẽ giúp đánh giá tồn diện
hơn, chân thực hơn
Như đã trình bày ở trên, con người có 8 loại trí thơng
mình và mỗi người thường có tối thiểu 2/8 trí thơng minh đó.

Vì vậy, sử dụng các hình thức đổi mới KTĐG này giúp HS nhận
diện được loại thông minh mà bản thân sở hữu. đồng thời
phát huy nó một cách tích cực nhất.
Theo đó, tơi đã vận dụng các PPDH, kĩ thuật dạy học để
kiểm tra, đánh giá năng lực chuyên biệt, năng khiếu của HS
môn Ngữ văn 11 như sau:

TÊN BÀI

PP-KT
DẠY HỌC

Chữ người tử PP
tù-Nguyễn
vai
Tuân

NHIỆM VỤ

SẢN PHẨM

Đóng - Hãy đóng vai mình là - Đầu báo tường
Huấn Cao, luyện viết chữ của nhóm-tổ
thư pháp cho một đầu
báo tường

Chí
Phèo- DH theo dự - 4 dự án (4 tổ)
- Video, clip,
Nam Cao

án + PP + Q trình tha hóa của bảng phụ hoặc
đóng vai
phần trình chiếu
Chí
power point của
+ Q trình thức tỉnh của HS (do HS được
Chí
tự do lựa chọn
+ Tình u Thị Nở-Chí hình thức thể
hiện)
Phèo
+ Viết tiếp câu chuyện
Chí phèo
Phỏng vấn và DH theo dự - 4 tổ = 4 dự án: PV và
trả lời phỏng án kết hợp TLPV về các vấn đề sau
vấn
TNST
+ Vấn đề ATGT ở địa
phương em
+ Vấn đề giới tính thứ ba
+ Vấn đề sống ảo

- Video nhóm HS
đã thực hiện hoặc
sản phẩm trình
bày của nhóm
(do HS được tự
do lựa chọn hình
thức thể hiện)


+ Vấn đề Tình yêu học
đường
Bản tin

Hoạt động - 4 tổ = 4 dự án: Thực - Video nhóm đã
TNST
hành viết bản tin về vấn thực hiện (do HS
7


đề sau:

được tự do lựa
+ Vấn đề bạo lực học chọn hình thức
thể hiện)
đường
+ Vấn đề ơ nhiễm mơi
trường ở địa phương em
+ Vấn đề khơng khí đón
giáng sinh
+ Vấn đề hành trình bóng
đá Việt Nam tại AFF
Suzuki cup
Tình u và PP
thù hận (Trích vai
Romeo

Juliet)Wsếch xpia

đóng - lớp chia 2 hoặc 4 tổ


- Vở kịch được
Chọn phân đoạn trong diễn trên lớp
đoạn trích và diễn kịch

Vĩnh việt Cửu PP
Trùng Đài – vai
Nguyễn Huy
Tưởng

đóng - lớp chia 2 hoặc 4 tổ

Người trong PP
bao –Sê-khốp vai

đóng - Mỗi tổ (4 tổ) xây dựng
một hình tượng nhân vật
Bêlicốp theo cách nghĩ
của mình

- Vở kịch được
Chọn phân đoạn trong diễn trên lớp
đoạn trích và diễn kịch
- Hình ảnh nhân
vật (do HS được
tự do lựa chọn
hình thức thể
hiện)

Các bài thơ Hoạt động - Chia thành các nhóm - Bảng phụ hoặc

mới:
Vội nhóm
tương ứng trong các bài câu trả lời của HS
vàng- Xuân
dạy
Diệu
+
Tràng
giang-Huy
Cận
+ Đây thôn Vĩ
Dạ -Hàn Mặc
Tử…
- Cách tiến hành
Bước 1: GV giao nhiệm vụ cho HS

8


- GV nêu câu hỏi, nhiệm vụ một cách cụ thể cho từng nhóm
HS (thơng thường lớp học chia thành 4 nhóm). Chọn nhóm
trưởng, thời gian chuẩn bị 1 tuần
+ GV có những định hướng cụ thể, rõ ràng khi nêu câu hỏi,
nhiệm vụ
Bước 2: HS tiếp nhận nhiệm vụ và thực hiện
- Nhóm trưởng tập trung nhóm. Phân cơng nhiệm vụ cho các
thành viên. (hoặc các thành viên tự đề xuất nhiệm vụ theo
khả năng của mình.)
- Trong quá trình tập luyện nếu phát sinh các vấn đề ngồi dự
kiến thì liên hệ với GVBM

- Nhóm trưởng theo dõi và điều hành hoạt động của nhóm
- HS chuẩn bị đầy đủ các đạo cụ khi sử dụng PP đóng vai. Các
sản phẩm dự án cần gửi GV bộ môn trước buổi học.
- GV kiểm tra sản phẩm trước 1 ngày (nếu cần thiết)
Bước 3: Báo cáo sản phẩm
- HS đại diện cho nhóm thuyết trình.
- Các nhóm khác nhận xét, đánh giá, bổ sung
- GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức
Bước 4: Đánh giá và cho điểm
- Tiêu chí chấm điểm
+ Tiêu chí chung: dựa vào sự sơi nổi, tích cực, tiến bộ của các
cá nhân trong tiết học.
+ Tiêu chí riêng: Tùy từng yêu cầu tiết học mà có tiêu chí cho
phù hợp
VD:
+ PP đóng vai: diễn xuất, trang phụ, đạo cụ, nội dung kịch
bản, sự chuẩn bị…
+ DH theo dự án: Chất lượng hình ảnh, ngơn từ, hình ảnh,
mầu sắc, …
- Cách đánh giá, cho điểm
+ GV bộ môn đánh giá tổng thể sản phẩm của từng nhóm,
nhận xét từng mặt tốt và hạn chế của sản phẩm. Từ đó, HS
được rút kinh nghiệm và tiến bộ hơn ở những tiết sau.
9


+ Đánh giá theo khả năng và đóng góp của cá nhân HS vào
sản phẩm của nhóm. Người đóng góp nhiều nhất được điểm
cao nhất, và điểm số giảm dần theo mức độ đóng góp của cá
nhân đó. Nếu cá nhân nào khơng tham gia, khơng hoạt động

và khơng có đóng góp vào sản phẩm của nhóm thì cho 0
điểm.
+ Người đánh giá và cho điểm là nhóm trưởng và tất cả các
thành viên trong nhóm. Đánh giá theo biểu mẫu
+ Sau khi cho điểm, điểm số đó được cơng khai trước tập thể
lớp, được ý kiến phản hồi
+ Người quyết định số điểm sau cùng là GV bộ môn đó
1.2 Xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể với bộ
môn
Phương pháp KTĐG HS thông thường là học thuộc lòng văn bản, làm
bài kiểm tra trên giấy, với 2 phần đọc - hiểu và làm văn. Hình thức KTĐG
này mới chỉ chứng minh HS nắm vững kiến thức để làm bài tập, nhận biết vấn
đề hoặc giải thích một số hiện tượng liên quan đến những kiến thức đã học.
Năng lực mà HS được đánh giá với PP này chủ yếu là năng lực trình bày, diễn
đạt, lập luận, trình bày cảm nghĩ v..v.. Một số kỹ năng lực như trình bày một
vấn đề trước đám đơng, xử lý tình huống, làm việc hợp tác, độc lập sáng
tạo… rất cần trong cuộc sống nhưng khó xác định được với cách KTĐG như
trên.
Vì vậy, ngồi các bài kiểm tra theo PPCT, (cách KTĐG thơng thường)
tơi đưa ra những tiêu chí riêng theo đặc trưng bộ môn để đánh giá năng lực
người học.
1.2.1 Đưa ra những tiêu chí, năng lực cụ thể trong tiết học
Việc KTĐG sẽ dễ dàng và đảm bảo hơn khi đưa ra tiêu chí rõ ràng và
GV nhận xét trên những tiêu chí đó. Điều này khơng chỉ có tác dụng hỗ trợ
giúp đỡ HS tiến bộ mà sự phối hợp giữa GV và gia đình trong việc giáo dục
HS tốt hơn. Trong đổi mới KTĐG, tôi chú trọng các năng lực sau:
(1) Kỹ năng làm việc độc lập
(2) Năng lực sáng tạo
(3) Mức độ hoàn thành các bài tập
(4) Năng lực sử dụng công nghệ thông tin

(5) Khả năng hợp tác với những người xung quanh
(6) Khả năng giải quyết những xung đột của cá nhân
(7) Mức độ tham gia các hoạt động tập thể của lớp
10


(8) Khả năng giải quyết vấn đề
(9) Khả năng biết đặt mục tiêu để hoàn thiện trong tương lai.
(10)Khả năng lãnh đạo, phân công nhiệm vụ, hướng dẫn các thành viên
hồn thành nhiệm vụ được gia (Với nhóm trưởng)
Ở tất cả các mục trên, giáo viên chủ nhiệm đều nhận xét điểm mạnh,
điểm tốt của HS đã đạt được trong q trình học tập, rèn luyện ở trường, nếu
HS có hạn chế, GV có nhận xét đi kèm để HS rút kinh nghiệm.
1.2.2 Đánh giá q trình chứ khơng chỉ đánh giá kết quả
Đổi mới KTĐG là đánh giá quá trình học tập, hoạt động và tạo ra sản
phẩm chứ khơng chỉ đánh giá kết quả. Nó giúp phát triển năng lực người học,
tích cực hóa q trình dạy học; nuôi dưỡng hứng thú học đường, tạo sự tự
giác trong học tập và quan trọng hơn là gieo vào lòng HS sự tự tin, niềm
tin “người khác làm được mình cũng sẽ làm được”… Điều này vô cùng quan
trọng để tạo ra mã số thành công của mỗi HS trong tương lai.
Khi KTĐG quá trình làm việc của HS, GV cần phải bình tĩnh, tránh vội
vàng nơn nóng, cắt ngang ý kiến của HS. Phải động viên, khích lệ HS, tránh
những lời nói, hành vi thiếu tơn trọng nhân cách HS. Phải uốn nắn, bổ sung
câu trả lời của HS cho cả lớp nghe.
Năng lực của HS chỉ được nâng lên khi nhận xét của GV tập trung chỉ
rõ những ưu nhược điểm trong mỗi câu trả lời. Phần nhận xét của GV cần:
- Tập trung vào năng lực của HS, chứ khơng hướng vào cá tính, phê
phán có tính xây dựng chứ khơng cơng kích.
- Khi nhận xét chỉ rõ chỗ sai, cần sửa chữa, chỗ chưa đúng, chưa chuẩn
mực…. Nếu GV chỉ nhận xét là trả lời sai mà không chỉ rõ là sai ở chỗ nào,

sửa chỗ sai ấy như thế nào thì HS khơng tiến bộ được.
- Tạo ra một khơng khí trong lớp học, chấp nhận câu trả lời chưa đầy
đủ hoặc thiếu sót để HS không quá lo sợ khi trả lời, các HS kém khơng mặc
cảm về trình độ của mình.
- Khuyến khích động viên sự cố gắng của HS. Nếu GV tin ở sự cố gắng
của HS thì các em có thêm nỗ lực phấn đấu khơng nản chí.
- GV trân trọng mỗi tiến bộ nhỏ của HS, tuy nhiên cũng không nên quá
lạm dụng lời khen.
Đánh giá trước hết phải vì sự tiến bộ của HS, giúp HS nhận ra mình
đang ở đâu trên con đường đạt đến mục tiêu bài học/chuẩn kiến thức, kỹ
năng… Đánh giá không làm HS lo sợ, bị thương tổn, mất tự tin.
Đánh giá phải diễn ra trong suốt quá trình dạy học, giúp HS liên tục
được phản hồi để biết mình mắc lỗi, thiếu hoặc yếu ở điểm nào để cả giáo
viên và HS cùng điều chỉnh hoạt động dạy và học. Đánh giá phải tạo ra sự
11


phát triển, phải nâng cao năng lực của người học, tức là giúp các em hình
thành khả năng tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau… để phát triển năng lực tự
học.
1.3

Phát huy vai trị của HS trong q trình đánh
giá

Bên cạnh việc kiểm tra đánh giá của giáo viên trong suốt các giờ học,
kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ thì giáo viên phải hướng dẫn cho HS
biết tự đánh giá kiến thức của mình, biết đánh giá cho bạn mình. Như vậy, thì
thay vào việc xưa nay giáo viên độc quyền đánh giá HS thì nay HS có quyền
tham gia vào kết quả đánh giá của chính mình và của bạn mình.

Đổi mới KTĐG là đổi mới cả chủ thể đánh giá, hình thức đánh giá.
Theo đó, HS được tham gia vào quá trình. HS được đánh giá các HS khác,
được đánh giá những thành viên trong nhóm mình, được đánh giá kết quả,
quá trình làm việc của các nhóm khác…
Học sinh cịn là cầu nối giữa cá nhân học sinh, giáo viên và lãnh đạo
nhà trường trong công tác đổi mới kiểm tra đánh giá. Mỗi cá nhân được thử
nghiệm vị trí, vai trị của mình trong công tác kiểm tra đánh giá.
Tham khảo từ SGK mới và các hình thức đổi mới PPDH-KTĐG, tơi sử
dụng bảng đánh giá sau:
PHIẾU ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA ………..
Họ

T
tên
HS

Nhiệt
tình
trách
nhiệm

Đóng góp
Tinh thần
Tham gia
trong
Hiệu
hợp tác,
Đưa ra ý
tổ chức,
việc hồn quả

tơn
kiến có
quản lý
thành
cơng
trọng,
giá trị
nhóm
sản
việc
lắng nghe
phẩm

Tổng
điểm
trung
bình

1
2

Điểm được đánh giá ở thang điểm 10. Sau khi các nhóm đánh giá thành
viên của nhóm mình, tổ thư ký (hoặc GV bộ môn) tổng hợp điểm và đánh giá
chung.
Phiếu đánh giá này được phát cho từng thành viên trong nhóm, trong tổ
hoặc trong lớp (Tùy thuộc vào bài kiểm tra, hoạt động nhóm, hoặc hoạt động
GV định sử dụng điểm vào sổ điểm…). HS sẽ đánh giá các thành viên còn lại
về các mặt như trên. Việc đánh giá này sẽ tạo sự công bằng trong đánh giá.
HS nhiệt tình, có đóng góp như thế nào thì nhận về thành quả như vậy.
12



Sau khi cho điểm, điểm số đó được cơng khai trước tập thể lớp, được ý
kiến phản hồi.
Người quyết định số điểm sau cùng là GV bộ môn.
Muốn để HS tham gia vào q trình đánh giá thì vai trị của giáo viên
giảng dạy vô cùng to lớn. Giáo viên giảng dạy phải hướng dẫn các em, phải
lắng nghe các em, phải công tâm, công bằng và khách quan đối với mọi HS.
Giáo viên, nhóm trưởng cần lắng nghe ý kiến của các em, định hướng giúp
các em biết phương pháp tự kiểm tra đánh giá, biết đánh giá người khác: Nhìn
nhận cả những kết quả nhóm khác, bạn khác làm tốt hoặc chưa tốt, đánh giá
khách quan, trung thực…
2. Ưu, nhược điểm của giải pháp mới
- Ưu điểm
HS được phát huy năng khiếu sở trường của bản thân.
HS trường THPT Phiêng Khoài đa số là các em HS người dân
tộc thiểu số, các em rất yêu văn hóa văn nghệ, có năng khiếu
diễn kịch, ca hát, thích được thể hiện năng khiếu của mình. Vì
vậy phương pháp đổi mới KTĐG này rất thiết thực và đem lại
hiệu quả cao khi áp dụng tại nhà trường
Những HS khơng có nhiều năng khiếu, sở trường ở việc
diễn kịch, vẽ tranh thì được rèn luyện, va chạm với những tình
huống thực tế đồng thời rèn luyện khả năng làm việc nhóm và
học tập ở bạn bè những kĩ năng sống thiết thực.
Hiện nay việc HS sử dụng điện thoại rất phổ biến. Các
em tốn tương đối nhiều thời gian vào nó. Và các ứng dụng
trên điện thoại các em sử dụng rất nhuần nhuyễn. Vì vậy, khi
sử dụng các hình thức KTĐG mới này, các em có thể phát huy
thế mạnh của mình và việc tốn thời gian vào điện thoại sẽ
khơng cịn vơ ích nữa.

Tạo mơi trường học tập sơi nổi, hứng thú. Giúp HS thêm
u thích mơn học, có động lực học tập hơn. Đặc biệt có
nhiều HS rất mong chờ đến tiết học Ngữ văn trong tuần.
Giảm nhẹ gánh nặng điểm số và áp lực thi cử cho người
học. Thay vì đánh giá kiến thức, kĩ năng rồi cho điểm thì ở
hoạt động này, sẽ đưa ra các nhận xét, mục tiêu kĩ năng của
các HS phát triển đến đâu, có cần hỗ trợ ở mặt nào khơng...
Dựa trên sự tự đánh giá của HS cũng là hết sức quan trọng.
Các em biết mình đang ở mức nào, làm sao để hoàn thiện
hơn. Đồng thời các em được đánh giá lẫn nhau, được nhận

13


xét, khen ngợi, phê bình lẫn nhau. Giúp các em hình thành kĩ
năng đánh giá và tự đánh giá cho bản thân mình.
HS được tham gia vào quá trình đánh giá, được tự đánh
giá, đánh giá lẫn nhau. Đảm bảo tính cơng bằng, khách quan,
nhiều chiều khi đánh giá.
- Nhược điểm
HS và GV phải bỏ nhiều công sức, thời gian để chuẩn bị,
hướng dẫn thực hiện các hoạt động trên.
Tốn chi phí nhất định cho các hoạt động trên.
III. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Sáng kiến đã được áp dụng tại 3 lớp 11, trường THPT
Phiêng Khoài năm học 2018- 2019 và được HS tiếp nhận
hưởng ứng một cách rất tích cực và hứng thú.
Những kinh nghiệm trong đổi mới kiểm tra đánh giá này
hồn tồn có thể áp dụng hiệu quả cho HS khối 10 và 11
trong nhà trường.

Các đồng nghiệp dạy bộ môn Ngữ văn trong tỉnh Sơn La
có thể tham khảo sáng kiến và áp dụng sao cho phù hợp với
đối tượng HS, đơn vị mình.
Với một số lớp đại trà hoặc những HS có năng lực yếu
hơn thì việc áp dụng các phương pháp đổi mới kiểm tra đánh
giá trên chưa đạt kết quả như mong muốn. Nguyên nhân là do
những hạn chế nhất định về năng lực người học, khả năng
điều khiển của trưởng nhóm, sự thiếu nhiệt tình, thiếu sự đầu
tư nên chất lượng sản phẩm chưa cao.
IV. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu
được khi áp dụng giải pháp
Nâng cao chất lượng bộ môn. HS hứng thú học tập, tiếp
thu bài chủ động, không nặng tư duy điểm số thì chất lượng
bộ mơn sẽ được nâng cao. Cụ thể, tôi đã khảo sát kết quả học
tập của HS khối 11 năm học 2017-2018 và HS các lớp 11A3,
11A4, 11A5 năm học 2018-2019:
Kết quả bài kiểm tra trước khi áp dụng sáng kiến
(HS khối 11 năm học 2017 - 2018)
Lớp Tổn
g
số

Giỏi
TS

%

Khá
TS


TB

%

TS
14

%

Yếu
TS

%

Kém
TS

%


11A
1
11A
3
11A
4
11A
5

HS

41
38
42
35

Tổn
g
156
số

0

0

2

5%

29

71
%

10

24
%

0


0

0

0

3

8%

24

63
%

11

29
%

0

0

1

2%

4


10
%

29

69
%

8

19
%

0

0

3

8%

5

14
%

23

66
%


4

12
%

0

0

4

3%

14

9%

10
5

67
%

33

21
%

0


0

Kết quả bài kiểm tra sau khi áp dụng sáng kiến
(HS 3 lớp 11 năm học 2018 - 2019)
Tổn
g
số
Lớp HS
11A
3
11A
4
11A
5

37
40
36

Tổn
g
113
số

Giỏi

Khá

TB


Yếu

Kém

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

0

0

9


25
%

28

75
%

0

0

0

0

4

10
%

22

55
%

14

35

%

0

0

0

0

9

25
%

21

58
%

4

17
%

0

0

0


0

13

13
%

52

46
%

46

41
%

0

0

0

0

Qua bảng so sánh trên ta thấy, sau khi áp dụng sáng
kiến này, số HS đạt điểm giỏi, điểm khá tăng lên (tăng 10%
HS có điểm giỏi, 37% HS có điểm khá); điểm yếu giảm xuống
15



rõ rệt (Giảm 21% HS yếu, kém). Tức là chất lượng bộ môn đã
được nâng cao, giảm số HS yếu, kém rõ rệt.
Tạo ra khơng khí thi đua học tập sơi nổi trong tập thể lớp
học. Đó là sự cạnh tranh giữa các nhóm, các lớp để được nhận
xét tốt nhiều hơn, được khen ngợi nhiều hơn…. Tránh được
việc nhìn bài, chép văn mẫu, sử dụng tài liệu khi thi…Tạo nên
một mơi trường học tập thân thiện, HS tích cực, chủ động và
sáng tạo trong học tập.
Tạo hứng thú khi học tập, tiếp thu bộ môn. Ngữ văn là
một môn học đặc thù bởi tính nghệ thuật và tính khoa học
của nó. Ngồi việc cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản
như các môn học khác, môn học Ngữ văn cịn tác động đến tư
tưởng, tình cảm, đem lại niềm vui, sự hứng thú học tập cho
HS, góp phần trực tiếp vào việc giáo dục đạo đức, nhân cách
cho mỗi HS...Vì vậy đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ giúp HS tiếp
thu bộ môn một cách tự nhiên giảm áp lực thi cử, điểm số và
tư duy thành tích cho người học.
Để tìm hiểu về hứng thú, sự yêu thích của HS khi học
mơn Ngữ văn, tơi tiến hành khảo sát HS khối 11 (100 HS ở các
lớp 11A3, 11A4, 11A5 năm học 2018-2019) ở đầu năm học
(khi chưa áp dụng sáng kiến) và cuối năm học (khi đã áp dụng
sáng kiến): Câu hỏi khảo sát: Anh(chị) có hứng thú khi
học môn Ngữ văn không?
Kết quả: ( số liệu khảo sát từ 114 HS khối 11)
Hứng thú của HS đối với bộ môn trước khi áp dụng
sáng kiến
(tiến hành ngày 30/8/2018)


Mức độ hứng
thú
Khơng hứng thú
Hứng thú bình
thường
Rất hứng thú

Số HS

Tỉ lệ %

57

50 %

49
8

43 %
7%

Cực kì hứng thú
0
0
Theo bảng này, đa số HS chưa u thích, khơng hứng thú
với bộ môn Ngữ văn. Đa số HS học do là bộ mơn bắt buộc
trong chương trình THPT, học vì tư duy điểm số, bệnh thành
tích vì vậy chưa có sự đầu tư thích đáng vào mơn học.
16



Hứng thú của HS đối với bộ môn sau khi áp dụng
sáng kiến
(tiến hành ngày 10/4/2019)

Mức độ hứng
thú

Số HS

Không hứng thú

15

Hứng thú bình
thường

25

Rất hứng thú
Cực kì hứng thú

Tỉ lệ %

Ghi chú

13%

Giảm 37 %


22%

Giảm 21%

55

48%

Tăng 41%

19

17 %

Tăng 17%

Như vậy, khi áp dụng sáng kiến, HS tỏ ra yêu thích, hứng
thú với mơn Ngữ văn hơn rất nhiều. Có được sự u thích đó
của HS, một phần nhờ vào việc đổi mới KTĐG, HS được đánh
giá theo những năng lực đặc trưng của mơn Văn. Năng lực HS
khơng cịn thể hiện trên các bài kiểm tra, giấy thi, các em
được thực hành, thể hiện khả năng, năng khiếu và bản lĩnh
của mình trong những môi trường cụ thể. Qua các hoạt động
trên, HS sẽ khơng chỉ u thích bộ mơn hơn mà còn thay đổi
suy nghĩ trong kiểm tra đánh giá:
Một là Mơn văn khơng cịn là mơn phải học thuộc lịng
rất nhiều thơ, mà là bộ mơn có những bức tranh, những câu
chuyện, những vở kịch, những buổi làm việc nhóm thú vị.
Hai là kiểm tra đánh giá không chỉ là học thuộc lịng, là
chép hoặc mơ phỏng văn mẫu,…mà cịn là cơ hội để phát

triển những kĩ năng quan trọng cần thiết cho cuộc sống sau
này. (Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng suy nghĩ độc lập, kĩ năng làm
việc nhóm, các năng khiếu của cá nhân…)
Rèn luyện kĩ năng mềm, năng khiếu cho HS: Kĩ năng
thuyết trình, biểu diễn trước đám đơng, kĩ năng tự suy nghĩ và
trình bày ý kiến, kĩ năng làm việc tập thể….là hiệu quả của
đổi mới KTĐG. HS được thể hiện năng khiếu của mình, được
rèn luyện trong thực tế. Biến môn Văn trở thành mơn học giàu
tính thực hành chứ khơng đơn thuần là lý thuyết sng ít gắn
với đời sống.
HS được tham gia vào q trình đánh giá nên kết quả
KTĐG đó phản ánh năng lực người học một cách cụ thể hơn,
khách quan hơn và nhiều chiều hơn.
17


Khi nghiên cứu đề tài này, tơi hy vọng góp thêm một
tiếng nói của mình vào việc cụ thể hóa những quan điểm đổi
mới kiểm tra đánh giá trong bộ môn Ngữ văn.

PHẦN KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
Giáo viên cần phải chịu khó sưu tầm tài liệu, sách chuyên mơn, phương
pháp để nâng cao kiến thức chun ngành, có kĩ năng truyền đạt, tổ chức dạy
học tốt, hướng dẫn tốt để HS tự chiếm lĩnh kiến thức một cách dễ dàng, dễ
hiểu, dễ nhớ. Từ đó biết linh hoạt trong KTĐG cũng như tiến hành các hoạt
động dạy học.
Người giáo viên phải có tâm huyết, nhiệt tình trong cơng tác giảng dạy.
Khi đổi mới kiểm tra, cả GV và HS đều phải bỏ ra rất nhiều công sức, thời
gian và một phần nhỏ vật chất. Đây là cơ hội để cơ-trị có điều kiện hiểu nhau,

gần gũi nhau hơn nhưng cũng gây cảm giác mệt mỏi, bực bội nếu không thực
hiện được nghiêm túc hoặc kết quả không như ý.
Xây dựng kế hoạch đổi mới kiểm tra đánh giá trước khi
bắt đầu năm học, có thể điều chỉnh, thay đổi trong năm học
cho phù hợp với đối tượng HS, với thời gian, hoàn cảnh...;
quan tâm đúng mức đến đối tượng HS có học lực yếu, kém,
cần đầu tư xây dựng nội dung ôn tập riêng cho những đối
tượng này.
Coi trọng việc phân tích kết quả, sản phẩm sau hoạt
động nhóm về nhà, qua đó giáo viên điều chỉnh hoạt động
18


giảng dạy và học tập, giúp HS biết tự đánh giá để phát huy
điểm mạnh, khắc phục điểm yếu trong học tập.
Đổi mới kiểm tra - đánh giá GV cần gắn liền với đổi mới
phương pháp giảng dạy. Bởi kiểm tra - đánh giá là một phần
của quá trình dạy học. Để đổi mới cả hai lĩnh vực này đòi hỏi
nỗ lực và sáng tạo của người dạy, người học và người quản lý,
trong đó vai trị của giáo viên và HS là quan trọng nhất
Để đạt được hiệu quả tối ưu giáo viên cần có sự linh hoạt
trong quá trình giảng dạy. Tùy từng kiểu bài và năng lực học
sinh mà giáo viên vận dụng kết hợp các phương pháp trong
đổi mới kiểm tra đánh giá, giảm bớt gánh nặng điểm số, bệnh
thành tích và áp lực thi cử cho HS
Kết hợp một cách hợp lý hình thức đổi mới với các hình
thức kiểm tra đánh giá truyền thống. Thực hiện đúng quy định
của quy chế đánh giá xếp loại HS THPT do Bộ GDĐT ban
hành.
Với HS, phải có ý thức tự giác học tập và rèn luyện các

kỹ năng trong làm bài kiểm tra, kiên trì, chịu khó trong quá
trình học tập, thực hiện các nhiệm vụ học tập ở nhà và trên
lớp.
2. Kiến nghị, đề xuất
* Với Sở GD & ĐT Sơn La: không
* Với Nhà trường
Nhà trường tạo điều kiện để cán bộ giáo viên nhà trường
tham gia giao lưu chuyên môn với nhiều trường phổ thơng,
đặc biệt các trường THPT có đội ngũ cán bộ giáo viên có trình
độ chun mơn, nghiệp vụ vững vàng trong toàn tỉnh để GV
học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để nâng cao hiểu biết và
tổ chức kiểm tra đánh giá hiệu quả.
Cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra đánh giá,
tổ chức thanh kiểm tra thường xuyên và định kì nội dung này
nhiều hơn nữa.
3. Cam kết
Tôi xin cam đoan những giải pháp đưa ra trên đây là do cơng sức lao
động của chính bản thân mình. Khơng sao chép, khơng đạo văn dưới mọi hình
thức. Nếu sai tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Sơn La, ngày 20 tháng 5 năm 2019
19


CƠ QUAN, ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Dung


20



×