Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp, đề tài giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết sinh hoạt lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 41 trang )

Phần NỘI DUNG
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
1.1. Sự cần thiết của việc chú trọng tìm Giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học
sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT.
Hiện nay, việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo là trách
nhiệm của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người
học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ. Mục tiêu giáo dục phổ
thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị
những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Nội dung giáo dục đã chuyển hướng
từ việc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chuyên môn, không gắn với các
tình huống thực tiễn, nội dung được quy định chi tiết trong chương trình sang lựa
chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, gắn với các tình
huống thực tiễn, chương trình chỉ quy định những nội dung chính, khơng quy định
chi tiết. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới từ hướng
giáo viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học, học sinh
tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn sang hướng giáo viên chủ yếu
là người tổ chức, hỗ trợ, học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức, chú trọng khả
năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường
khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Tuy nhiên, về phương pháp dạy học và giáo dục ở không ít trường phổ thông
hiện nay, một số giáo viên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, đặc biệt là
những giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm lớp. Cụ thể, trong những tiết sinh
hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm chủ yếu thuyết giảng một chiều – biểu dương những
thành tích, phê bình những sai phạm của học sinh, chưa dành nhiều thời gian đưa
ra những tình huống có vấn đề, hay khơi gợi những bức xúc, những suy nghĩ đa
chiều cho học sinh được bày tỏ, tâm sự, để các em nói ra suy nghĩ của mình, thể


hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, quan điểm và cách ứng xử của các em trước cuộc
sống (Mà đây là một cách tạo hứng thú, giúp các em thoải mái, tự tin thể hiện
chính kiến, hiểu biết, vẻ đẹp tâm hồn mình; cũng là hoạt động nhằm đổi mới nội
dung giáo dục).
“Giáo viên không phải là một nghề mà là một sứ mạng. Đó là trọng trách
cao cả để dìu dắt học sinh mở rộng tầm nhìn, đánh thức tâm hồn, định hướng tương
lai, giúp những công dân tương lai ngày càng hồn thiện về trí tuệ, tâm hồn và
1


nhân cách” (Nhà giáo Đàm Lê Đức). Quả đúng như vậy. Nhiệm vụ của người giáo
viên không chỉ là phát huy trí tuệ của học sinh mà cịn vun đắp tâm hồn và giúp các
em từng bước hoàn thiện nhân cách. Đối với người giáo viên chủ nhiệm, ngồi
cơng việc giảng dạy, giáo viên chủ nhiệm còn phải là một nhà giáo dục, nắm bắt
những tâm tư, tình cảm, chăm lo đến quá trình học tập và rèn luyện đạo đức của
mỗi em và của cả tập thể học sinh. Trong cơng tác chủ nhiệm, giờ Sinh hoạt lớp
đóng vai trị rất quan trọng. Đó là một hoạt động giáo dục hữu ích góp phần xây
dựng tập thể học sinh đoàn kết và giúp các em phát triển những kĩ năng sống cơ
bản. Chính thơng qua hoạt động này, giáo viên chủ nhiệm có điều kiện gắn bó với
học sinh trong một cộng đồng chung để cùng giải quyết những vấn đề của tập thể,
đồng thời nắm được những thông tin cần thiết làm cơ sở để đánh giá quá trình rèn
luyện của học sinh. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, người giáo viên chủ nhiệm
cần tạo điều kiện để học sinh phát huy vai trò, năng lực, tính tích cực, chủ động
trong hoạt động giáo dục…
Chính vì vậy, việc tìm hướng tiếp cận ra sao để đổi mới phương pháp trong
tiết Sinh hoạt lớp nhằm tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập và giáo dục cho
học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp xung quanh, biết cảm
thông, yêu thương, chia sẻ với mọi người, với cuộc đời là vấn đề được đặt ra và
cần phải giải quyết.
Với vai trò là người tổ chức, hỗ trợ, hướng dẫn, điều khiển quá trình học tập

và giáo dục của học sinh, hơn ai hết, giáo viên phải tìm tịi, xây dựng hướng tiếp
cận mới để phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng
phấn, khơi dậy đam mê học tập và tình cảm, hành động tích cực ở mỗi học sinh
trong và ngoài nhà trường.
Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị nhân văn,
nhiều yếu tố văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao thoa, mai một. Từ
thực tế ấy, địi hỏi giáo viên nói chung và đặc biệt là các thầy cơ làm cơng tác chủ
nhiệm nói riêng phải nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình. Nó địi hỏi
người giáo viên ngồi chun mơn vững vàng, cần có tâm thế tốt, ln nhiệt huyết,
u nghề, luôn trau dồi đổi mới phương pháp để tạo được hứng thú học tập cho
HS, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, hưng phấn, tích cực cho học sinh
trong học tập bộ mơn nói chung và trong tiết Sinh hoạt lớp nói riêng là đổi mới
phương pháp dạy học và giáo dục theo hướng lấy hoạt động học tập và giáo dục
của học sinh làm trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến
thức, người thầy đóng vai trị là người tổ chức, chỉ đạo, hỗ trợ. Vì vậy, việc nghiên
2


cứu tìm những hướng tiếp cận giáo dục linh hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng
thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm thực tiễn của bản
thân, với mong muốn, trong từng bài dạy văn hóa nói chung và đặc biệt là trong
tiết Sinh hoạt nói riêng, học sinh ln hứng thú, chủ động, u thích tiết học, từ đó
góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tạo
hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT”.

1.2. Ý nghĩa và tác dụng của đề tài.
Là một trong những người làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp, tôi xác
định rõ tác động của hứng thú trong cuộc sống của con người nói chung và tác

động của hứng thú trong dạy học nói riêng.
1.2.1. Tác động của hứng thú trong cuộc sống.
- Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực,
duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người.
- Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con người
chịu khó tìm tịi và sáng tạo.
- Hứng thú đóng vai trị chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân cách
con người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng hoạt
động khác.
- Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
1.2.2. Tác động của hứng thú trong dạy học.
Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên – là những “kỹ sư tâm
hồn”, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người
(nhân cách). Dạy học không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt
ra những yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A.Ward thì:
“Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
3


Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”
Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh –
người học – là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể
dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo
Galileo Galilei).
Cho nên, trong quá trình dạy học và giáo dục, nếu giáo viên khơi dậy được
sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các
em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt
nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không

bị ép buộc,…
Cụ thể, khi hứng thú học tập, người học sẽ:
- Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn,
thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra.
- Hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ
ràng.
- Chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập
trung chú ý vào vấn đề đang học.
- Kiên trì hồn thành bài tập, khơng nản chí trước những tình huống khó
khăn…
- Hứng thú cịn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp đến
cao:
+ Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn…
+ Tìm tịi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết
khác nhau về một vấn đề…
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Tóm lại, học sinh khi hứng thú với tiết học sẽ tạo khơng khí thi đua học tập
sơi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tịi, nghiên cứu… đây chính là một trong
4


những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tơi tin rằng với tiền đề đó, q trình
dạy học, giáo dục nhất định sẽ đạt được kết quả cao.
“Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của
việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.”(Viện
KHGD – “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”)
Như vậy, việc tìm hướng tiếp cận nhằm tạo hứng thú trong giáo dục cho học
sinh là rất cần thiết, giúp các em hăng hái, tích cực, chủ động, sáng tạo trước các
tình huống đặt ra trong bài học và liên hệ thực tế, từ đó tạo cơ sở quan trọng để các
em sống tích cực, chủ động, hài hòa và lành mạnh trước cuộc sống. Và làm được

như thế tức là chúng ta đã thực hiện được mục tiêu giáo dục phổ thông, đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.

1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Có thể khẳng định rằng, việc tìm hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú
cho HS trong hoạt động dạy học và giáo dục ở trường phổ thông hiện nay luôn
được các giáo viên quan tâm, chú trọng và trăn trở. Hướng tiếp cận bài học nhằm
tạo hứng thú trong học tập cho học sinh rất phong phú và đa dạng ; tuy nhiên, trong
quá trình triển khai đề tài Một số hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho
HS trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT, tôi chỉ tập trung nghiên cứu cho các
vấn đề: Tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh; Phát huy vai trò của Ban cán sự lớp; Nâng
cao ý thức tự quản; Tích cực trong đánh giá, phê bình, góp ý; Tích cực trong sinh
hoạt tập thể; Mời đại diện phụ huynh đến dự tiết Sinh hoạt lớp; Tác phong sư
phạm của người thầy. Đây là một số hướng tiếp cận có tính chủ quan mà tơi đã rút
kinh nghiệm từ hoạt động giáo dục thực tiễn của mình và đã đạt được hiệu quả
nhất định.

5


2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
2.1. Cơ sở lý luận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng căn dặn các thế hệ học sinh Việt
Nam : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay khơng, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Và như Jacques
Delors đã nói : “Giáo dục là một trong những công cụ mạnh nhất mà chúng ta có
trong tay để đào tạo nên tương lai”.
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời đại,
theo đó địi hỏi nền giáo dục nước ta cần có sự đổi mới căn bản, tồn diện để bắt

kịp thời đại.
Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và
giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết TW II – Khóa
VIII).
Luật Giáo dục điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học ; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học,
khả năng làm việc theo nhóm ; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập
cho học sinh”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn, bản toàn diện
Giáo dục và đào tạo cũng nêu ra : “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kĩ năng của người học …”
Mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn, bản toàn diện Giáo dục và đào tạo là: phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Toàn diện ở đây được hiểu là chú
trọng phát triển cả phẩm chất và năng lực con người, cả dạy chữ, dạy người, dạy
nghề. Giáo dục và đào tạo phải tạo ra những con người có phẩm chất, năng lực cần
thiết như trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo, có hồi bão và lí tưởng phục vụ Tổ
quốc, cộng đồng; đồng thời phải phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo
của mỗi cá nhân, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ xã hội; có hiểu
biết và kĩ năng cơ bản để sống tốt và làm việc hiệu quả… như Bác Hồ từng mong
muốn: “một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những người cơng dân hữu ích
6


cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hồn tồn những năng lực
sẵn có của các em”.
Như vậy, vai trị của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát

triển bền vững của một quốc gia. Đảng ta đã quyết tâm phải đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục. Thực hiện nhiệm vụ đó, ngành giáo dục nhiều năm nay đã
khơng ngừng triển khai tới tất cả các nhà trường, các thầy cô giáo yêu cầu đổi mới
phương pháp giảng dạy, quản lí, ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới công tác
chủ nhiệm, giáo dục kĩ năng sống, tổ chức các hoạt động ngồi giờ lên lớp,... Đã có
rất nhiều cuộc tập huấn đổi mới phương pháp được tổ chức, nhiều tài liệu có tính
chất lí luận về các vấn đề này đã được ban hành. Trong đó có cả những nội dung
tập huấn về công tác chủ nhiệm.
Công tác chủ nhiệm lớp là làm công việc chỉ đạo, quản lý giáo dục toàn
diện học sinh (HS) một lớp. Đồng thời là người chỉ đạo mọi hoạt động của HS bao
gồm: hoạt động học tập, hoạt động rèn luyện theo quy định của điều lệ trường phổ
thơng. Bên cạnh đó, chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức xã
hội trong và ngoài nhà trường; là người tổ chức, phối hợp các lực lượng giáo dục.
Cùng với nhà trường, thơng qua cơng tác chủ nhiệm, góp phần định hình,
định hướng tính cách của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là nhà quản lý,
nhà tâm lý; là nơi để các em học sinh chia sẻ những buồn vui, là một chỗ dựa tinh
thần vững vàng cho các em trong cuộc sống. Đồng thời, GVCN là người đánh giá
khách quan kết quả rèn luyện của mỗi HS và phong trào chung của lớp.
Đổi mới công tác chủ nhiệm là phải đổi mới cả nội dung và phương
pháp. Đổi mới phương pháp vừa là yêu cầu để phù hợp với đổi mới nội dung, vừa
là động lực thúc đẩy nội dung khơng ngừng hồn thiện. Nếu chỉ đổi mới nội dung
mà khơng đổi mới phương pháp thì sa vào tình trạng khơng đồng bộ; gặp rất nhiều
khó khăn khi giải quyết vấn đề. Ngược lại, nếu chỉ đổi mới phương pháp mà khơng
đổi mới nội dung thì sa vào tình trạng “bình mới rượu cũ”, vơ tình tạo sức ì cho
sự phát triển nội dung.
Cơng tác chủ nhiệm có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo
đức, kĩ năng sống, nâng cao tri thức cho các em HS. Trong qui định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, cơng tác chủ nhiệm được tính 4 tiết trên tuần. Trong đó có một tiết
chính khóa, đó là giờ Sinh hoạt lớp ngày cuối tuần. Như vậy, Sinh hoạt là một môn
học bắt buộc. Tuy nhiên, đây là một mơn học có nhiều điểm khác biệt với những

mơn học văn hóa khác. Vì Sinh hoạt lớp là dạng hoạt động giáo dục tập thể, là một
hình thức tổ chức tự quản cho HS và là một trong những biện pháp cơ bản góp
phần xây dựng tập thể HS đồn kết. Chính thơng qua các giờ sinh hoạt lớp, các em
HS có thể bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và tự đánh giá, nhận xét nhau thẳng
thắn, tích cực. Các HS trong lớp được liên kết lại với nhau, GV gắn bó với HS
trong một cộng đồng thu nhỏ để giải quyết những vấn đề của cuộc sống thực hàng
7


ngày ở nhà trường, lớp học. HS được mở rộng các mối liên hệ, tăng cường sự hiểu
biết, giúp đỡ lẫn nhau, khắc phục xu hướng hẹp hòi, cục bộ, bè phái trong đời sống
tập thể. Đây cũng là dịp để HS làm quen với nhiều loại hình hoạt động khác nhau,
giúp các em phát triển các kĩ năng cơ bản và cần thiết cho bản thân. Các em phải
được vừa học vừa chơi, được thể hiện khả năng của mình... Nếu như các bộ mơn
văn hóa đều có chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ
năng, tài liệu tham khảo..., thì bộ mơn Sinh hoạt lớp lại khơng có một tài liệu
hướng dẫn cụ thể nào. Vài năm gần đây, việc thiết kế giáo án sinh hoạt lớp đã được
triển khai đến các nhà trường, các thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm. Như vậy,
nội dung và cách thức cơ bản để tiến hành giờ Sinh hoạt lớp đã được thống nhất
trong các nhà trường. Tuy nhiên việc thực hiện ở mỗi nơi, mỗi giáo viên..., vẫn có
sự khác biệt.
2.2 . Cơ sở thực tiễn.
2.2.1. Thực trạng việc lên lớp của giáo viên chủ nhiệm trong tiết Sinh hoạt lớp ở
trường THPT.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của GVCN là việc tổ chức giờ Sinh
hoạt lớp. Trong nhà trường phổ thông, giờ sinh hoạt lớp thường được xếp vào tiết
học cuối của mỗi tuần học. Đây là thời điểm để các em HS tự đánh giá những hoạt
động học tập, rèn luyện của cá nhân và tập thể lớp trong tuần, trên cơ sở đó xây
dựng kế hoạch hoạt động cho tuần tiếp theo nhằm mục tiêu hoàn thành tốt kế
hoạch năm học. Đây cũng là dịp để các em được bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và

tham gia các sinh hoạt tập thể cùng với các thành viên trong lớp. Từ đó, các em sẽ
được trải nghiệm, được rèn luyện và phát triển nhân cách. Song, phần lớn các em
HS khơng có nhận thức đúng đắn về vai trị của giờ học này. Chính vì thế thái độ
học tập của các em chưa tích cực, đặc biệt khơng mấy hứng thú.
Vậy làm sao để gây được hứng thú cho HS, không làm cho giờ Sinh hoạt bị
căng thẳng hoặc nhàm chán, lơi cuốn được HS vào những hoạt động tích cực trong
giờ sinh hoạt lớp?
Có thể nói, đối với các thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm lớp, giờ Sinh
hoạt là khoảng thời gian vô cùng quý báu để triển khai công việc, chấn chỉnh nền
nếp, uốn nắn HS, khơi dậy trong các em sự thích thú, khả năng sáng tạo....và đặc
biệt là giáo dục kĩ năng sống cho các em một cách tập trung và hiệu quả. Nhận
thức rõ vai trò của tiết Sinh hoạt lớp, hiện nay, hầu hết giáo viên chủ nhiệm đã ý
thức sâu sắc việc đổi mới phương pháp cho tiết Sinh hoạt lớp, nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động của người học, tạo hứng thú cho HS, giúp các em được bày tỏ ý
kiến, tình cảm, được thực hành giao tiếp nhiều hơn.
Tuy nhiên, thực tế việc tổ chức tiết Sinh hoạt lớp của khơng ít GVCN ở các
trường THPT hiện nay chưa đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả như mong

8


muốn, vẫn còn nhiều bất cập cần được khắc phục, trong đó có trường tơi đang
cơng tác. Đó là:
- Một số GV vẫn còn làm việc quá nhiều, nặng về thuyết trình đạo đức một
chiều, khiến giờ học thiếu sự phóng túng, mà trở nên nhạt nhẽo. HS khơng được
phát huy vai trị chủ thể, tích cực, ít có điều kiện chia sẻ, giãi bày tâm tư, thực
hành, liên hệ … Điều này dễ đưa HS vào thế bị động, không tạo điều kiện cho các
em độc lập suy nghĩ, sáng tạo, làm tê liệt sự hào hứng của HS.
- Nội dung giờ sinh hoạt lớp khô cứng lặp đi lặp lại, không thực sự gắn với
nhu cầu của HS. Vì thế, các em khơng thực sự cảm nhận được vấn đề trong từng

tuần học là vấn đề của chính các em phải giải quyết mà là vấn đề của thầy, cơ giáo.
- Hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp đơn điệu, nhàm chán, không hứng thú
với HS bởi các em không được cùng nhau tổ chức, tham gia vào giờ Sinh hoạt lớp.
- GV quá nghiêm khắc, không gần gũi, thân thiện, khơng đặt mình vào vị trí
của HS để lắng nghe tích cực tiếng nói của các em, để hiểu các em, để có những
chia sẻ, uốn nắn, định hướng hiệu quả...
- GV thường phê bình học trò hơn là khen ngợi (60 - 70%), mà lẽ ra phải
là ngược lại.
2.2.2. Thực trạng tiết Sinh hoạt đối với học sinh ở trường THPT.
Như đã nói ở trên, phần lớn các em HS khơng có nhận thức đúng đắn về vai
trị của giờ Sinh hoạt lớp. Chính vì thế, thái độ học tập của nhiều em là chưa
tích cực, đặc biệt không mấy hứng thú với tiết học này.
Thâm nhập vào các diễn đàn của tuổi teen, có thể rút ra được khung cảnh và
diễn biến của một số giờ Sinh hoạt lớp khiến các em “uể oải” như:
Ví dụ 1:
“Thầy chủ nhiệm lớp tớ nghiêm có tiếng, nên tiết Sinh hoạt lớp tớ thường im
phăng phắc. Thầy chỉ định ai phát biểu, ai nêu ý kiến gì thì mới được phát biểu,
nêu ý kiến. Đừng ai nghĩ đến việc xung phong đứng lên thẳng thắn bày tỏ quan
điểm riêng kiểu “Thưa thầy, em nghĩ khác cơ ạ”.
Có bạn thừa nhận nhiều lúc muốn “có nhời” thưa lại với mấy kiểu áp đặt của
thầy chủ nhiệm đối với những hoạt động của lớp lắm, nhưng rồi nghĩ “Một cánh én
nhỏ chẳng làm nên mùa xuân” nên lại thôi ngay ý định. Điều tệ nhất là trong lớp
lại có khá nhiều “cánh én” khác nghĩ thầm trong đầu hệt như em ấy, và thế là cả
một tập thể im ắng, khơng có lời phản biện nào; khiến cho buổi sinh hoạt trở thành
một chiều, vô cùng thụ động và chẳng có tác dụng gì nhiều với những vấn đề đáng
lẽ cả lớp phải cùng nhau nhiệt tình thảo luận.
Ví dụ 2:
“Với tớ và hội bạn ở lớp thì tiết Sinh hoạt lại nhẹ nhõm lắm, vì khơng phải
là tiết học mơn gì cả, tha hồ xả hơi và cả nhóm tranh thủ chép bài tập về nhà cho
kịp các tiết sau. Cơ giáo vừa hiền, ít nói và chả mấy khi tham gia tiết sinh hoạt,

9


giao hết cho cán bộ lớp điều hành. Tụi cán bộ lớp cũng chả muốn chơi nổi làm gì,
vừa mất cơng mất sức vừa ngại bị phản ứng nên nói qua loa cho xong rồi cũng yên
phận về chỗ”.
Ví dụ 3:
“Trong buổi sinh hoạt lớp, cô giáo chủ nhiệm lớp tớ thường phê bình thẳng
thắn những hiện tượng lệch lạc của học sinh. Cơ chỉ đích danh từng bạn, từng
khuyết điểm đã mắc phải và dặn dò phải cố gắng sửa chữa trong tuần tiếp theo.
Một số học sinh nói nhỏ với nhau: Như thế này không phải sinh hoạt lớp mà là giờ
“luận tội”...
Ví dụ 4:
“Tất nhiên chúng tớ bao giờ chả đoán được nội dung của tiết Sinh hoạt. Cô
giáo chủ nhiệm với mấy cán bộ lớp sẽ tổng kết lại tất cả một cách dài dịng những
gì ghi ở Sổ Nam Tào (Sổ ghi đầu bài) trong tuần rồi phê bình, kiểm điểm trước lớp.
Cái mới duy nhất của mỗi tiết “phụ mà chính” này là “nín thở chờ xem tuần này
anh nào nhà ta bị lên thớt và vận xui tới đâu với mấy hình phạt...”.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.3.1. Tên biện pháp và tầm quan trọng của biện pháp.
Vấn đề tìm giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt
lớp ở trường THPT không phải là một việc làm mới, bởi nó đã được rất nhiều tác
giả quan tâm, nghiên cứu. Song, để thực hiện được mục tiêu giáo dục này, chúng ta
cần phải trải qua một quá trình tìm tòi, nghiên cứu kĩ lưỡng và áp dụng đồng thời
nhiều biện pháp khác nhau.
Trước hết, giáo viên phải xác định mục đích và tầm quan trọng của việc tìm
giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT,
trên cơ sở đó, xác định hệ thống phương pháp phù hợp để đạt mục tiêu một cách có
hiệu quả. Do đó, GV phải có phương pháp nghiên cứu, tham khảo tài liệu hiệu quả.
Các nguồn tài liệu tham khảo như: Đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên chủ

nhiệm và đổi mới công tác chủ nhiệm, các tạp chí, các bài tham luận trên
Internet…
Tiếp theo, để khảo sát thực tế về nhu cầu của người học, giáo viên thực hiện
biện pháp quan sát, thống kê. Biện pháp này phải tiến hành trên diện rộng (thông
qua hoạt động học và sinh hoạt tập thể của toàn bộ học sinh ở các lớp mình giảng
dạy và chủ nhiệm), sau đó thống kê để tìm phương pháp phù hợp với quá trình giáo
dục.
Trong quá trình dạy học theo hướng tạo hứng thú cho HS, GV cần vận dụng
biện pháp điều tra – đàm thoại. GV tiếp cận, trao đổi, trị chuyện với HS, với cha
mẹ HS, thơng qua những người bạn trong lớp hoặc những người bạn khác lớp của
HS; trao đổi với GV bộ môn dạy lớp mình chủ nhiệm, với GV trong Tổ chun
mơn, với các GV chủ nhiệm của trường... Sau đó, GV tiến hành thực nghiệm để
10


kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của các ý kiến đóng góp về việc đổi mới giờ
Sinh hoạt lớp.
Và cuối cùng để đánh giá về kết quả thực hiện giải pháp nhằm tạo hứng thú
cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp, cần vận dụng biện pháp so sánh, biện pháp
này được tiến hành sau khi kết thúc năm học.
Vận dụng phối kết hợp các biện pháp nêu trên trong quá trình dạy học theo
định hướng đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra
hiệu quả nâng cao chất lượng giáo dục.
Tôi đã chú ý áp dụng thực hiện phương pháp này trong các năm học 20162017, 2017-2018, 2018-2019 và đặc biệt vẫn đang áp dụng trong năm học 20192020 này. Với kết quả chất lượng chủ nhiệm, tôi nhận thấy có nâng cao hơn so với
trước.
2.3.2. Đề xuất cách thực hiện.
2.3.2.1. Xác định các yêu cầu, nguyên tắc, phương pháp và hình thức tổ chức
giáo dục.
2.3.2.1.1. Các yêu cầu, nguyên tắc đổi mới tiết Sinh hoạt lớp, bao gồm:
Thứ nhất, nội dung tiết sinh hoạt phải bổ ích, gắn với nhu cầu xã hội, phù

hợp với nhu cầu, hứng thú, kinh nghiệm, trình độ của học sinh khối THPT.
Thứ hai, đa dạng hóa hình thức tổ chức sinh hoạt lớp nhưng cần phù hợp với
các điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
Thứ ba, phát huy thế mạnh của hoạt động nhóm/tổ
Thứ tư, tăng cường vai trị của học sinh, phát huy tính chủ động, sáng tạo
của học sinh. Học sinh là chủ thể, GVCN là người hướng dẫn.
Thứ năm, có sự giao lưu đối thoại giữa GVCN và học sinh, giữa các em học
sinh với nhau.
Thứ sáu, dành thời gian và công sức cho phần chuẩn bị của GVCN và học
sinh trước tiết sinh hoạt lớp.
2.3.2.1.2. Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục.
Đẩy mạnh đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát
triển năng lực cho học sinh. Cụ thể:
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các phương pháp giáo dục theo hướng: Giáo
viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ, học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức;
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh như giải quyết vấn
đề, dạy học kiến tạo, dạy học khám phá, dạy học theo dự án,... chú trọng bồi dưỡng
phương pháp tự học, chiến lược học tập, khả năng hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn,… nhằm hình thành và phát triển các năng lực chung, năng lực
chuyên biệt cho học sinh.

11


- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức giáo dục trong và ngoài lớp học, trong
và ngoài nhà trường; cân đối giữa dạy học và hoạt động giáo dục, giữa hoạt động
tập thể, nhóm nhỏ và cá nhân,… để đảm bảo vừa phát triển các năng lực cá nhân,
vừa nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi học sinh.
- Tăng cường, nâng cao hiệu quả của các phương tiện dạy học, đặc biệt là
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy

học. Tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận các nguồn học liệu mở, khai thác thông
tin trong môi trường công nghệ thông tin và truyền thông phong phú, đa dạng để
xây dựng các chủ đề học tập theo sở thích, phát triển năng lực tự học theo tốc độ,
cách học cá nhân.
2.3.2.2. Mơ tả giải pháp.
2.3.2.2.1. Thuyết minh tính mới.
2.3.2.2.1.1. Tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh.
Khi nhận sự phân công chủ nhiệm từ Ban giám hiệu nhà trường, GVCN cần
tìm hiểu kỹ các đối tượng học sinh của lớp mình. Để làm tốt được cơng tác chủ
nhiệm thì GVCN phải hiểu được tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, mong ước của
các em, nắm bắt được hoàn cảnh sống của các em, những tác động của gia đình, xã
hội đến tâm sinh lí của các em, mối quan hệ của các em với bạn bè trong và ngoài
xã hội. Vậy người giáo viên tìm hiểu bằng cách nào? Một là có thể trị chuyện trực
tiếp với các em, thông qua những người bạn của các em để hiểu về các em. Hai là
thông qua các hoạt động sinh hoạt tập thể để tìm hiểu, theo dõi những hành động,
cử chỉ của các em để hiểu về các em. Ba là thông qua các tiết Sinh hoạt lớp, tổ
chức các trò chơi tập thể để hiểu về các em.
Vào tiết Sinh hoạt đầu tiên của năm học (hay từ khi nhận lớp chủ nhiệm),
GVCN có thể phát cho học sinh mỗi em một “thẻ bài” do chính tay GV làm ra, cho
các em tự tay viết lên tấm thẻ đó một số thơng tin: “ngày sinh, sở thích, năng
khiếu, ước mơ của mình và tự tay trang trí cho tấm thẻ theo ý thích của mình sao
cho lành mạnh, lịch sự” (Hoặc giáo viên có thể cho HS làm việc này ở nhà, các em
có thể viết các thơng tin về họ tên, ngày sinh, sở thích …và trang trí theo sở thích
trên ứng dụng điện thoại thơng minh rồi gửi riêng cho GVCN). Tấm thẻ bài đó
GVCN dùng để gọi học sinh trong các tiết học. Ngoài ra, thẻ bài đó cũng phần nào
giúp GVCN hiểu được các em hơn, đồng thời giúp GV ghi nhớ sinh nhật của các
em và có thể gửi lời chúc mừng sinh nhật tới các em, trên zalo, facebook hoặc
trong tiết học nếu ngày hơm đó GV có tiết trên lớp học, hoặc có thể là lời chúc
mừng sinh nhật theo tháng. Đây là một việc làm tuy rất nhỏ nhưng có ý nghĩa rất
lớn, thể hiện sự quan tâm của người thầy đối với các em học sinh, thầy cô như cha

mẹ, như người anh chị đối với người con, em của mình. Với cách làm đó, học sinh
sẽ rất vui mừng và phấn khởi.
12


Việc làm tiếp theo là GVCN có thể cho mỗi học sinh viết ra một tờ giấy
những điều em mong muốn ở thầy, cô giáo và gửi lại cho giáo viên. GVCN sẽ đọc
tất cả những điều mà các em mong muốn và phân tích những điều các em mong
muốn ở thầy cơ giáo, đồng thời GVCN cũng nói điều mà giáo viên mong muốn ở
các em. Qua đó, giáo viên sẽ hiểu được học sinh, học sinh hiểu được giáo viên,
giáo viên điều chỉnh được những hoạt động của mình hướng tới các em và học sinh
có những hành động tích cực trong lớp học, làm cho khoảng cách giữa giáo viên và
học sinh được rút ngắn lại gần hơn.
Một lớp học sẽ có những học sinh ngoan, có những học sinh cá tính, nghịch
ngợm, ương bướng; có học sinh giỏi, có những học sinh thì chưa được giỏi, những
học sinh giỏi thì thường ý thức của các em rất tốt, các em có lịng tự trọng rất cao;
có những em điều kiện gia đình rất tốt, lại có những em thì gia đình rất hồn
cảnh… Do đó, GVCN phải biết phân luồng các đối tượng học sinh để có phương
pháp giáo dục cụ thể, khơng được đánh đồng để áp dụng phương pháp giáo dục
như nhau, bởi làm như vậy hiệu quả khơng cao, thậm chí đơi khi nó cịn đi ngược
lại với mong muốn của chính mình. Đặc biệt, GV không la mắng học sinh, phải
luôn giữ bình tĩnh trong mọi trường hợp, tình huống để có được những lời lẽ nhẹ
nhàng, tình cảm nhưng triết lí, nhằm khuyên bảo, cảm hóa học sinh, bởi mọi suy
nghĩ và hành động của các em cịn mang tính bộc phát, cảm tính. Chẳng hạn:
- Với những học sinh có hồn cảnh khó khăn, éo le, các em thường có tâm lí
tự ti, mặc cảm, dễ chạnh lịng. Do đó, những em này rất cần những lời động viên,
thăm hỏi, quan tâm ân cần của thầy cô, bạn bè để chia sẻ những khó khăn, vướng
mắc với các em, giúp các em có thể sống hịa đồng với bạn bè trong lớp. Muốn
vậy, người GVCN không chỉ là người thầy mà còn phải biết nhập vai để đồng cảm,
lắng nghe các em nói, tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng của các em, tạo cho các

em có cảm giác mình được chia sẻ, được giúp đỡ, có người hiểu mình, thơng cảm
với mình. Sau khi nghe, giáo viên phải tìm hiểu thực tế và có những lời khuyên
khéo léo, nhẹ nhàng, tình cảm, giúp các em nhìn nhận vấn đề tốt hơn, hiểu biết
đúng về hoàn cảnh thực tế để vươn lên trong học tập và trong cuộc sống.
- Đối với học sinh cá tính, chưa ngoan, GV phải vừa nghiêm khắc khi xử lí
những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên các em, thậm chí còn
phải dỗ dành các em. Muốn giáo dục được học sinh cá biệt, điều quan trọng là phải
tạo được mối quan hệ gần gũi với các em. GV có thể gặp riêng các em để trao đổi,
tìm ra nguyên nhân và có hướng giải quyết nhẹ nhàng, tình cảm nhưng sâu sắc mà
nghiêm khắc chứ không nhất thiết chúng ta cứ phải mang tất cả vi phạm của các
em vào trong tiết Sinh hoạt. La mắng các em, mang những “tội, lỗi” của các em ra
giữa lớp học để mắng mỏ, chỉ trích sao em thế này, sao em thế kia sẽ không mang
lại hiệu quả cao. Ở lứa tuổi này, tính sĩ diện, cái tơi của các em cao lắm, nên GV
càng cư xử tế nhị, tình cảm, nhẹ nhàng khuyên bảo, dẫn dỗ các em hiểu vấn đề
13


càng có lợi cho GVCN và học sinh sẽ đón nhận những lời dạy của GV tốt hơn. Khi
GV tạo được mối quan hệ gần gũi với HS rồi thì việc giải quyết vấn đề học sinh cá
biệt, thường xuyên vi phạm khơng cịn là vấn đề khó khăn nữa. Tuy nhiên, muốn
làm được điều đó, GVCN cần phải đầu tư thời gian, cơng sức và trí tuệ của mình
vào lớp chủ nhiệm.
2.3.2.2.1.2. Phát huy vai trò của Ban cán sự lớp.
Trong giờ Sinh hoạt lớp, đội ngũ Ban cán sự lớp sẽ hỗ trợ đắc lực cho thầy
cô chủ nhiệm trong cơng tác tổ chức, quản lí các hoạt động giáo dục HS lớp chủ
nhiệm nói chung và điều hành tổng kết, đánh giá thi đua, xây dựng kế hoạch cho
các hoạt động của lớp trong tuần, tháng nói riêng. Giáo viên chủ nhiệm chỉ giữ vai
trò thiết kế, giám sát là chính, “trao quyền” cho các em tổ chức, quản lý và điều
hành các bước của giờ sinh hoạt. Chẳng hạn:
- Các tổ trưởng báo cáo cụ thể kết quả thi đua của từng thành viên và cả tổ

trong tuần (điểm thi đua, xếp loại hạnh kiểm, điểm trung bình chung của tổ...).
- Các lớp phó văn - thể - mĩ, lao động nhận xét tình hình từng mảng mà
mình phụ trách.
- Lớp trưởng điều khiển học sinh thảo luận, đóng góp ý kiến về các hoạt
động của lớp, về việc theo dõi thi đua của các tổ... Trên cơ sở ý kiến của các bạn và
quá trình theo dõi lớp trực tiếp, lớp trưởng tổng kết những mặt mạnh, mặt yếu của
tập thể, đề xuất tuyên dương những cá nhân điển hình hay phê bình cá nhân vi
phạm, từ đó định hướng kế hoạch cho tuần tới.
Để Ban cán sự lớp làm việc nghiêm túc và có hiệu quả trong giờ Sinh hoạt,
GVCN khơng “khốn trắng” cho các em mà phải đóng vai trị là người cố vấn,
giúp các em tự tin thực hiện nhiệm vụ và phát huy vai trị của mình. Cụ thể:
- GVCN phân công nhiệm vụ cụ thể cho Ban cán sự lớp để các em có trách
nhiệm với mảng cơng việc mình được giao. Chẳng hạn: lớp trưởng quản lý lớp và
phụ trách mảng trật tự, nề nếp; lớp phó học tập theo dõi tình hình học tập của lớp;
lớp phó văn thể mĩ phụ trách công tác văn nghệ, thể thao và đời sống; bí thư tổ
chức các phong trào của lớp và phụ trách công tác vệ sinh; tổ trưởng điều hành
công việc chung của tổ, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện nội quy của tổ viên, xếp
loại hạnh kiểm; tổ phó theo dõi tình hình học tập, điểm cộng... Yêu cầu Ban cán sự
ghi chép vào trong sổ theo dõi của mình để cuối tuần có cơ sở đánh giá, nhận xét.
- Giáo dục cho các em thấy được vai trò “thủ lĩnh”, “đầu tàu” nên cần gương
mẫu trong học tập và rèn luyện để các bạn nể phục, yêu mến. Hơn thế, giáo dục
các em phải có ý thức và trách nhiệm với cơng việc mình được giao và có ý thức
xây dựng, gắn kết các thành viên trong tập thể. GVCN biểu dương kịp thời những
cố gắng của Ban cán sự lớp, đồng thời cũng phải nghiêm khắc chỉ ra những thiếu
sót, song cần giữ uy tín cho các em trước tập thể. Khi các em có được lịng tin

14


vững chắc, có vị trí quan trọng, có điều kiện để khẳng định mình, các em sẽ nỗ lực

cố gắng để hồn thành tốt cơng việc của mình vì mục đích chung.
Tuy nhiên, để Ban cán sự lớp phát huy được vai trò và trọng trách trên,
GVCN đặc biệt phải xây dựng được một đội ngũ Ban cán sự lớp thực sự có
năng lực, nhiệt tình, gương mẫu, có trách nhiệm cao và có uy tín trước các bạn
khác.
2.3.2.2.1.3. Nâng cao ý thức tự quản.
Trong những tuần đầu tiên của năm học, GVCN định hướng cho HS xây
dựng nội quy lớp học dựa trên tinh thần cộng tác. Có gì khác giữa việc thực hiện
một bản nội quy do giáo viên đưa ra và việc thực hiện nội quy do học sinh thiết kế?
Thay vì cảm thấy bị áp đặt với tâm lý thụ động, khi được chủ động đề ra những nội
quy cho tập thể của mình, các em sẽ tích cực gia tăng ý thức tự chủ và tinh thần
hợp tác. Chính các em là người thiết kế và thực hiện nội quy do tập thể thống nhất
đề ra. Đó là cơ sở để nâng cao ý thức tự quản.
Trên cơ sở những quy định của nhà trường, tiêu chí đánh giá thi đua của
Đồn và mục tiêu của lớp, GVCN tổ chức cho học sinh thảo luận về nội quy của
lớp. Cụ thể hóa những nội dung trên bằng hình thức chấm điểm thi đua, quy định
mức điểm cộng và điểm trừ phù hợp. Việc xếp loại hạnh kiểm của học sinh hàng
tuần dựa trên kết quả điểm mà các em đạt được. Tập thể lớp cũng đề ra hình thức
thi đua giữa các tổ, nhóm và cá nhân. Hàng tuần và sau mỗi đợt thi đua, các em sẽ
bình chọn những cá nhân và tổ, nhóm xuất sắc để biểu dương, khen thưởng (Phần
thưởng được trích từ quỹ lớp, có khi chỉ là một gói kẹo, chiếc bút bi, một quyển
vở... nhưng các em rất vui vì đã được tập thể ghi nhận và động viên những cố gắng
của mình). Để tạo hứng thú cho học sinh trong việc xây dựng bài ở các giờ học
trên lớp, GVCN gợi ý cho các em cộng điểm thi đua cho mỗi lượt phát biểu hoặc
được điểm cao. Nhờ vậy, nhiều giờ học của lớp đã diễn ra rất sơi nổi, các em có ý
thức học tập tốt hơn, hăng say, tích cực hơn trong các tiết học, cũng do đó mà các
giáo viên bộ mơn của lớp ln phấn khởi và hài lịng.
Cũng vì có điểm thi đua rõ ràng mà trong các tiết Sinh hoạt lớp cuối tuần,
các em tự đánh giá được kết quả rèn luyện của mình qua điểm thi đua và xếp loại
hạnh kiểm. Từ đó, các em biết cố gắng phấn đấu để ngày càng tiến bộ hơn.

Chẳng hạn như cách xếp loại Hạnh kiểm hàng tuần cho HS dựa trên số điểm
đạt được như sau (Đây là quy định mà Ban cán sự lớp đã đưa ra thảo luận và được
cả lớp nhất trí ngay từ tuần đầu tiên của năm học):
I. Quy định về xếp hạnh kiểm.
1. Hạnh kiểm Tốt :
- Không mắc lỗi.
- TSĐĐĐ > 30 điểm (TSĐĐĐ: Tổng số điểm đạt được trong tuần)
2. Hạnh kiểm Khá :
15


- Không mắc lỗi.
- 22 điểm < TSĐĐĐ < 30 điểm
3. Hạnh kiểm Trung bình :
- Mắc 1 đến 2 lỗi.
- TSĐĐĐ > 16 điểm (Nếu mắc 1 lỗi mà TSĐĐĐ < 16 điểm thì xếp HK
Yếu).
4. Hạnh kiểm Yếu :
- Mắc 2 lỗi trở lên
- TSĐĐĐ từ 16 điểm trở xuống.
II. Quy định về cách tính Tổng số điểm đạt được (TSĐĐĐ).
TSĐĐĐ = (Điểm được cộng + Điểm đạt được) - Số điểm bị trừ
1. Cách tính Điểm đạt được :
- 8 điểm được cộng 3 điểm.
- 9 điểm được cộng 4 điểm.
- 10 điểm được cộng 5 điểm.
- Mỗi lần xung phong phát biểu hoặc xung phong lên bảng làm bài
tập được cộng 2 điểm.
(Lưu ý: Các điểm 8, 9, 10 : là điểm số của HS được ghi cụ thể trong Sổ
ghi đầu bài).

2. Cách tính Điểm bị trừ :
- Mỗi lỗi vi phạm bị trừ 5 điểm (BCS lớp - Mỗi lỗi vi phạm bị trừ 7
điểm). Riêng HS đánh nhau, bỏ tiết và ý thức kém bị ghi trong Sổ ghi
đầu bài: trừ 10 điểm.
- Nếu HS nghỉ học có phép sẽ trừ 1 điểm (trừ trường hợp đặc biệt).
(Lưu ý: Các lỗi vi phạm được quy định trong nội quy của trường, lớp
như: mất trật tự, đổi chỗ ngồi, nói tục, đánh nhau, sử dụng điện
thoại trong giờ, hút thuốc lá, nhuộm tóc, ra tập thể dục muộn, nghỉ
học khơng lí do, bỏ tiết, đi học muộn, điểm kém, không chuẩn bị
bài ...)
3. Điểm được cộng : 20 điểm (là điểm GV thưởng cho HS được cộng
mỗi tuần để tạo hứng thú, phấn khởi cho các em).
2.3.2.2.1.4. Tích cực trong đánh giá, phê bình, góp ý.
2.3.2.2.1.4.1. Về phía Ban cán sự lớp và tập thể lớp.
16


Một trong những nội dung quan trọng của giờ Sinh hoạt lớp là phần đánh
giá, nhận xét, đóng góp ý kiến của học sinh. Đây là giờ sinh hoạt tự quản, giúp các
em phát huy tinh thần phê và tự phê, tự đánh giá các hoạt động của cá nhân và tập
thể. Các em được bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và tự đánh giá, nhận xét nhau
thẳng thắn, tích cực. Tuy nhiên, tâm lý của học sinh khi phê bình bạn là e ngại vì
sợ bạn ghét, sợ bị cơ lập hoặc có thể có những hành động bị “trả thù”, nên các em
thường có xu hướng bao che. GVCN cần nắm bắt tâm lí này để giúp đỡ và cố vấn
cho các em, khuyến khích các em mạnh dạn, tự tin khi bày tỏ quan điểm riêng của
mình.
Ví dụ:
- Với Ban cán sự lớp, GVCN cần giúp các em hiểu rằng làm việc phải công
tâm, nghiêm túc, phải tạo được uy tín để các bạn khác nghe theo, đồng thời trong
cách nhắc nhở, góp ý cho bạn, các em cũng cần tế nhị, khéo léo để tránh tổn

thương người khác. Để hoạt động này được hiệu quả thì ngay từ đầu năm học,
GVCN cần phải xây dựng đội ngũ Ban cán sự lớp vững vàng, uy tín có thể thu hút,
thuyết phục được tập thể. Đồng thời, GVCN cần có sự tập dượt cho lực lượng cán
sự lớp phương pháp làm việc, phương pháp theo dõi, đánh giá, phương pháp nhận
xét trước tập thể như: tuyên dương thì cần làm nổi bật, phê bình thì nhẹ nhàng,
thuyết phục; không nên dùng từ ngữ gay gắt gây tổn thương trực diện đối tượng bị
phê bình.
- Với tập thể lớp, GVCN cần giảng giải để các em hiểu được những lời phê
bình, nhận xét của Ban cán sự lớp đều là vì cơng việc chung, vì mục tiêu xây dựng
tập thể đoàn kết, giúp đỡ nhau tiến bộ. Tất cả các bạn trong tập thể lớp đều bình
đẳng, việc phê bình chỉ giúp hồn thiện chứ khơng mang tính chất chỉ trích, trù dập
hay cơ lập một thành viên nào đó trong tập thể.
- Với những cá nhân khi đóng góp ý kiến, các em cần xuất phát từ thái độ
chân thành, tôn trọng bạn bè; khi được góp ý, các em cần bình tĩnh, tránh tự ái, bảo
thủ, phải biết ghi nhận để tiến bộ hơn.
- Có những tình huống nảy sinh trong tập thể lớp như xích mích, hiểu
nhầm,... GVCN cần nêu vấn đề để các em thảo luận, trao đổi và quyết định, mục
đích là nhằm nâng cao bầu khơng khí đồn kết, tinh thần trách nhiệm của mỗi học
sinh trong lớp.
2.3.2.2.1.4.2. Về phía giáo viên chủ nhiệm.
GVCN cần phát hiện và tuyên dương, động viên kịp thời những HS đã có sự
cố gắng, phấn đấu trong tuần; phê bình nhẹ nhàng nhưng cương quyết những cá
nhân sai phạm về ý thức, chây lười, lơ là trong học tập và thiếu tinh thần trách
nhiệm với tập thể. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời hiện tượng học sinh cá biệt.
GVCN cần khen, chê học sinh đúng mức, đúng chỗ, đúng đối tượng. Nếu
GVCN biết khen chê đúng mức sẽ khiến học trò hứng thú trong học tập. Về
17


nguyên tắc, khen phải nhiều hơn chê để tạo tâm lí tích cực vì ai cũng thích khen.

Nhưng lưu ý, khi chúng ta khen học sinh thì sự khen ngợi đó phải cụ thể, gọi đúng
tên bản chất sự việc. Thái độ khen ngợi phải chân thật, gây được cảm xúc tích cực
nơi người được khen. Đối với những hành vi tích cực mới, GV cần khen ngay khi
nó vừa xuất hiện, nhất là với những em hay mắc khuyết điểm, những em học yếu,
nhút nhát... vừa có một sự tiến bộ nào đó. Ngay cả khi phê bình học sinh, GVCN
cũng cần lưu ý là phê bình hành vi cụ thể chứ khơng khái qt hố thành nhận định
liên quan đến nhân cách. Tuyệt đối tránh lối phê bình chì chiết, nhắc đi nhắc lại
những khuyết điểm cũ đã xảy ra từ lâu.
Một yêu cầu cũng rất quan trọng đối với GVCN là thưởng, phạt cần công
minh, đảm bảo được tính thuyết phục, thu hút và ràng buộc học sinh.
Đặc biệt, GVCN phải thực sự giao lưu - đối thoại với HS, để học sinh cởi
mở, thân thiện và đồn kết hơn, giúp các em tin tưởng và khơng bị ức chế về tâm lí
mỗi khi đến trường, đến lớp và đến giờ Sinh hoạt lớp. Khi các em mạnh dạn đưa ra
những quan điểm, chính kiến của mình, chúng ta nên sẵn sàng lắng nghe và tiếp
nhận những ý kiến đó một cách tơn trọng, đặt mình vào vị trí các em, lắng
nghe tích cực tiếng nói của các em để có những chia sẻ, uốn nắn, định hướng hiệu
quả.
2.3.2.2.1.5. Tích cực trong sinh hoạt tập thể.
Để tránh sự nhàm chán, căng thẳng của tiết Sinh hoạt lớp, bên cạnh những
vấn đề vừa nêu ở trên, GVCN cần tạo ra được sự tích cực, chủ động, hứng thú cho
HS trong các tiết Sinh hoạt lớp. Do đó, GVCN cần:
- Đa dạng hóa về nội dung tiết Sinh hoạt lớp. Nội dung tiết Sinh hoạt lớp
hàng tuần phải cụ thể, bổ ích, phải gắn với nhu cầu hứng thú của học sinh và phù
hợp với tâm lý, khả năng tiếp thu và trình độ hiểu biết của học sinh, huy động đến
mức cao nhất trí tuệ và tình cảm tập thể của các em. Tăng cường những nội dung
sinh hoạt có liên quan đến các cơng việc chung của lớp, phù hợp với nhu cầu và sở
thích của học sinh, để các em được bàn bạc, nỗ lực, cố gắng và hợp tác với nhau để
hồn thành cơng việc được giao.
- Thu hút tối đa sự tham gia của mọi HS dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ, cố
vấn của giáo viên nhằm tăng cường vai trò tự quản của học sinh. Tạo môi trường

chung để tất cả học sinh cùng được trải nghiệm những xúc cảm tích cực, tăng
cường giao lưu giữa các em, tạo ra môi trường lớp học mang bầu khơng khí tin
tưởng, thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ và lắng nghe ý kến của nhau. Từ đó tình
cảm gắn bó, chia sẻ giữa các em được hình thành và củng cố.
- Đa dạng hóa về hình thức tổ chức tiết sinh hoạt lớp: tổ chức trị chơi, hội
thảo, ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào việc tổ chức thực hiện giờ sinh hoạt.
Về vấn đề đa dạng hóa hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp, GVCN cần cố
vấn cho HS tổ chức những hoạt động tập thể như: Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm
18


học tập, kinh nghiệm sống, văn nghệ, kể chuyện, những trò chơi nhỏ, những cuộc
thi,... Các em sẽ rất hào hứng và sôi nổi khi tham gia các hoạt động này.
Tập thể lớp chủ nhiệm có thể tổ chức những hoạt động vui vẻ và có ý nghĩa
trong các giờ Sinh hoạt lớp nhằm tạo hứng thú cho HS như:
2.3.2.2.1.5.1. Chúc mừng sinh nhật – trao tặng yêu thương.
GVCN có thể cố vấn cho HS lớp chủ nhiệm chúc mừng sinh nhật những bạn
có ngày sinh trong tháng hoặc tuần đang sinh hoạt. Lớp tự thiết kế một món quà
đặc biệt, có thể chỉ là tấm thiệp có ghi những lời chúc mừng độc đáo của các bạn
trong lớp,… Món quà nhỏ nhưng có nhiều ý nghĩa về mặt tinh thần, thể hiện sự
đồn kết, hịa đồng, quan tâm và tình cảm chân thành của bạn bè dành cho nhau.
GVCN có thể thực hiện như sau: Làm một bảng tổng hợp ngày sinh của các
em theo tháng và treo vào một góc của lớp học. Đề nghị cả lớp hàng tháng, khi đến
sinh nhật của những bạn nào thì các bạn trong lớp sẽ gửi một lời chúc tốt đẹp nhất
của mình đến những bạn đó và bỏ vào một chiếc túi đặc biệt của lớp. Đến buổi
sinh hoạt tuần cuối của tháng, giáo viên sẽ mở túi đó ra và yêu cầu lớp trưởng đọc
từng lời chúc của từng bạn và sẽ tổng kết lại xem bạn nào nhận được nhiều lời
chúc nhất. Lớp cũng chuẩn bị những phần quà nho nhỏ dành cho các bạn có ngày
sinh trong tháng đó. Việc làm này được các em rất quan tâm và hưởng ứng.
2.3.2.2.1.5.2. Kể một câu chuyện/tấm gương có ý nghĩa về cuộc sống

GVCN có thể định hướng cho các em kể một câu chuyện/tấm gương có ý
nghĩa về cuộc sống. Phần này thường do tổ trực nhật đảm trách, GVCN gợi ý lớp
tạo điều kiện cho những bạn cịn rụt rè lên kể chuyện. Chẳng hạn, có HS kể về cụ
Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ mù yêu nước Nam Bộ, sống với ý chí, nghị lực phi
thường. Dù bị mù hai mắt, cụ vẫn làm được nhiều việc có ý nghĩa cho nhân dân,
đất nước như bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo, sáng tác thơ văn đề cao đạo lí
nhân nghĩa và tư tưởng yêu nước, chống quân xâm lược. Có bạn nữ kể về Nguyễn
Thị Ánh Viên như một thần tượng của em đó: Ánh Viên trẻ tuổi nhưng đã rất thành
công trong lĩnh vực thể thao bơi lội. Ví dụ, tại Đại hội thể thao lớn nhất Đông Nam
Á Sea Games 28, chị giành được 8 Huy chương vàng và phá vỡ 8 kỷ lục bơi; tại
Sea Games 30 vừa qua, khi giành được 6 Huy chương vàng ở 10 nội dung đăng kí
tham dự, Ánh Viên được nhận giải thưởng nữ vận động viên xuất sắc nhất. Ánh
Viên được nhất Hạng mục nữ vận động viên của năm trong Lễ trao giải Cúp chiến
thắng 2019. Thành tích ấn tượng này khiến Ánh Viên trở thành thần tượng của giới
trẻ, chị được gắn với nhiều tên như “Kình ngư vàng”, “Tiểu tiên cá”, “Siêu sao trên
đường đua xanh”... Dù phải xa nhà từ lúc 12 tuổi, mỗi năm về thăm bố mẹ rất ít,
suốt ngày chỉ có bơi lội và có một chế độ ăn uống nghiêm ngặt… nhưng Ánh Viên
chưa bao giờ bỏ cuộc mà luôn cố gắng. Ánh Viên luôn khiêm tốn, khéo léo trong
ứng xử: thắng không kiêu, bại không nản, không ngủ quên trong chiến thắng mà
phải luôn nỗ lực không ngừng… Đối với HS nam, Công Phượng gắn với quyết
19


tâm theo đuổi, ni dưỡng đam mê bóng đá từ nhỏ của cầu thủ đội tuyển Việt Nam
này đã được các em kể lại với niềm ngưỡng mộ sâu sắc. Cũng có bạn lại lấy những
tác phẩm văn học dân gian như Tấm Cám, Thạch Sanh, Trầu cau, Cây khế,… kể
trước lớp với những cách nhập vai nhân vật rất đa dạng đã nhận được sự tán
thưởng của cả lớp...
Thông qua những câu chuyện, đặc biệt là những chuyện với người thật,
việc thật mang tính giáo dục về nghị lực sống, sức mạnh của đam mê, cái giá phải

trả, biết quý trọng bản thân..., giáo viên định hướng cho các em rút ra những bài
học về cách làm người, cách sống, cách ứng xử nhân văn với mọi người. Đồng thời
qua những câu chuyện kể của các bạn, các em có thêm vốn sống và tư liệu để học
tốt hơn những mơn xã hội.
2.3.2.2.1.5.3. Tổ chức trị chơi.
* Ngun tắc áp dụng phương pháp trò chơi trong giờ Sinh hoạt.
Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng tuần, tháng, mối quan hệ giữa trò
chơi với hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng mức và đúng lúc để
không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trị
chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận
dụng cho tất cả các tiết Sinh hoạt, đơi khi gây phản cảm, phản tác dụng; trị chơi
bao giờ cũng kết thúc bằng việc thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ
nhàng người (đội) thua cho vui (dí dỏm, tế nhị).
* Lựa chọn thời gian vận dụng trò chơi.
Khi áp dụng phương pháp trò chơi vào trong giờ học, giáo viên phải biết lựa
chọn thời điểm áp dụng trị chơi cho thích hợp. Có thể tiến hành trò chơi khi cán sự
lớp đã tổng kết xong tuần học vừa qua, hoặc vào cuối tiết sau khi cán sự lớp thông
qua kế hoạch hoạt động tuần tới.
* Lựa chọn nội dung tổ chức trò chơi.
Nội dung phải vừa sức, phải đảm bảo đủ thông tin mà học sinh đã nắm được,
khơng dễ q và cũng khơng khó quá. Nội dung cần phù hợp với cuộc sống thực tế
của học sinh, giúp các em dễ vận dụng vào thực tiễn. Nội dung trị chơi phải có
tính khả thi, trò chơi đưa ra phải phù hợp với thực tế trường, lớp.
Để tăng thêm hiệu quả giáo dục, GVCN có thể gợi ý cho các em tổ chức
những trò chơi có nội dung phù hợp với lứa tuổi, gắn với ý nghĩa của những ngày
lễ lớn trong năm như: Ngày nhà giáo Việt Nam, Ngày học sinh sinh viên, Ngày
Quốc tế phụ nữ, Ngày thành lập Đoàn...
Những hoạt động sinh hoạt tập thể thực sự sẽ đem đến niềm vui và bầu
khơng khí đồn kết, sảng khối cho các em sau một tuần học tập và rèn luyện căng
thẳng.

* Cách tổ chức trị chơi có hiệu quả.
Trị chơi có thể tổ chức theo các bước sau:
20


- Bước 1: Phổ biến trò chơi:
+ Giáo viên cố vấn để quản trò (một bạn trong Ban cán sự lớp) giúp các bạn
học sinh nắm vững trò chơi như: Tên trò chơi, nội dung, cách chơi, cách phân
thắng bại…
+ Chọn một số học sinh tham gia trò chơi, hoặc tất cả học sinh được tham
gia, đặc biệt chú ý những học sinh nhút nhát, ít phát biểu.
- Bước 2: Học sinh thực hiện trò chơi:
+ Các em thảo luận với nhau về việc thực hiện trị chơi.
+ Một nhóm học sinh thực hiện trò chơi trước lớp, cả lớp theo dõi.
+ Những em khác, nhóm khác có thể tiếp tục thực hiện trò chơi
- Bước 3: Tổng kết, đánh giá:
Giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá việc thực hiện trị chơi: trị chơi có
được thực hiện đúng quy tắc khơng, có phù hợp với nội dung khơng, có thể rút ra
bài học gì qua trị chơi này? Giáo viên nhận xét, đánh giá chung và tuyên bố nhóm
(hay cá nhân) thắng cuộc (nếu có).
Giáo viên khen thưởng nhóm có kết quả tốt bằng cách:
+ Tặng một tràng pháo tay cùng với những lời động viên khen ngợi.
+ Ghi điểm các thành viên trong nhóm.
+ Trao thưởng (một hoặc hai gói quà) cho đội thắng.
* Lập kế hoạch và giao cơng việc: Lớp phó phụ trách phân cơng cho các nhóm chủ
động lên kế hoạch và chuẩn bị trước về nội dung, cách thức, quà tặng... Những bạn
có khiếu hài hước có khả năng làm quản trị sẽ làm cho lớp thực sự phấn chấn.
* Các trị chơi có thể tổ chức:
Có thể tổ chức nhiều trị chơi với hình thức phong phú như: Đuổi hình bắt
chữ, Đố vui để học, Thần tượng âm nhạc, Đối mặt, Trò chơi ô chữ, Trò chơi âm

nhạc... Tuy nhiên, tùy đặc điểm và điều kiện từng trường học, lớp học, GVCN có
thể định hướng cho HS trò chơi phù hợp. Một số trị chơi có thể tổ chức như:
- Trị chơi “Phỏng vấn hoa hậu đi muộn”.
Đây là trò chơi dành cho những HS hay đi học muộn. Những học sinh này sẽ
được làm hoa hậu ngồi trên chiếc ghế “Nóng” và các nhà văn, nhà báo (là các bạn
trong lớp) sẽ mỗi người một câu phỏng vấn xoay quanh việc “hoa hậu đi muộn”.
Giờ sinh hoạt biến thành giờ vui chơi giải trí nhưng lại thể hiện được sự giáo dục
học sinh cao. Mỗi khi học sinh nào đó đi muộn lại bị phỏng vấn, học sinh đó rất
ngại và lần sau khơng mắc lỗi nữa.
- Trị chơi “Bàn tay ai đẹp nhất”.
Quản trò chia lớp thành 4 đội, mỗi đội sẽ tìm trong số thành viên của đội
mình một người có bàn tay mà các em cho là đẹp nhất. Sau đó, các đội sẽ lên trình
diện và trình bày tiêu chí mà đội mình cho đó là bàn tay đẹp nhất. Sau cùng,
GVCN cho học sinh xem một đoạn video nói lên bàn tay đẹp nhất: Bàn tay tần tảo
21


sớm hôm của người mẹ mới là bàn tay đẹp nhất, để từ đó học sinh hiểu được nỗi
vất vả của người cha, người mẹ mình mà biết yêu thương cha mẹ mình hơn, do đó
biết cố gắng nỗ lực nhiều hơn nữa trong học tập và rèn luyện, để khơng phụ cơng
lao của người sinh thành ra mình. Sau trị chơi, GV có thể đặt câu hỏi: Thơng qua
trị chơi, em rút ra được điều gì? HS viết suy nghĩ ra một mẩu giấy, GV thu lại,
chụp lại những suy nghĩ của các em và đưa lên Zalo của lớp làm kỉ niệm.
- Trò chơi: “Hát đối đáp”.
Chia lớp thành 4 đội (có thể tương ứng với 4 tổ của lớp), quản trò (một bạn
trong Ban cán sự lớp) đưa ra một từ bất kì và phát hiệu lệnh, lần lượt các đội chơi
phải hát một bài hát có chứa từ đó. Đội nào nhớ và hát được nhiều bài nhất sẽ
thắng cuộc. Nhiều em HS tuy học không mấy nổi trội nhưng lại rất có khiếu văn
nghệ. Bởi thế, đây là dịp để các em đó được khẳng định mình trước bạn bè. Bầu
khơng khí chung của lớp là sơi nổi, thích thú và vơ cùng sảng khối.

- Trò chơi: “Ai nhớ nhiều hơn”.
Quản trò chia tập thể lớp thành 2 đội. Khi tiến hành trò chơi, quản trò đưa ra
chữ cái đầu tiên, lần lượt các đội chơi thi xem đội nào kể được nhiều con vật bắt
đầu bằng chữ cái đó hơn (ghi ra tờ giấy). Đội nào khơng kể được hoặc kể được ít
hơn sẽ thua cuộc. Với trị chơi này, GVCN khơng chỉ tạo được hứng thú cho HS
mà qua đó thêm một lần các em thấy được sự phong phú, đa dạng về các con vật
sống xung quanh mình. Đồng thời, GV có thể đặt câu hỏi cho HS: Những con vật
nào cần được con người quan tâm, yêu quý, bảo vệ?, từ đó giáo dục ý thức trách
nhiệm và tình cảm tích cực ở các em đối với sự sống xung quanh.
- Trò chơi: “Nối từ”.
Chia lớp thành 4 đội, quản trò đưa ra một từ bắt đầu (gồm 2 tiếng), các đội
lần lượt nối từ đó sao cho tiếng cuối của cụm từ trước là tiếng đầu của cụm từ sau
và tạo thành một cụm từ có nghĩa. Đội nào khơng nối được từ tiếp sẽ thua cuộc. Ví
dụ: Học sinh – sinh hoạt – hoạt động – động lòng – lòng thành – thành thật … Khi
tham gia trò chơi, HS vừa được vui chơi, vừa được thể hiện khả năng huy động
vốn từ tiếng Việt của mình nên các em rất hứng thú.
- Trò chơi: “Tay nhanh hơn não”.
Cả tập thể lớp ngồi thành vòng tròn. Quản trò điểm danh từ số 1 tới hết cho
các thành viên. Các thành viên có trách nhiệm phải nhớ số thứ tự của mình cũng
như của hai người bên cạnh. Khi bắt đầu trị chơi, quản trị sẽ đọc số bất kì của
thành viên nào đó. Người được gọi sẽ nhanh miệng đọc to một số khác, hai người
bên cạnh cần nhanh chóng bịt miệng người được gọi tên sao cho họ không kịp đọc
số khác. Nếu người được gọi bị bịt miệng thì sẽ thua, cịn nếu khơng bị bịt miệng
thì hai người bên cạnh sẽ thua. Trị chơi này khơng chỉ tạo hứng thú cho các em khi
tham gia chơi mà còn rèn luyện ở các em sự tập trung về tinh thần và sự nhanh
nhẹn của thể chất – hai yếu tố rất quan trọng để tạo nên chiến thắng và thành công.
22




Trong các trị chơi đưa ra, có đội (người) thắng, đội (người) thua, nên mỗi
một trị chơi đó, GV lại hỏi các nhóm là: Vì sao nhóm (người) lại thua và Vì sao
nhóm (người) có thể chiến thắng được trong trị chơi; Thơng qua trị chơi đó, các
em rút ra được cho mình những bài học gì?
Như vậy, qua những trị chơi, chúng ta có thể giáo dục cho học sinh nhân cách
sống, những bài học quý giá, sự bình tĩnh, tự tin… để từ đó các em có những kinh
nghiệm làm hành trang bước vào đời, đồng thời cũng giúp các em gần gũi với nhau
hơn, đoàn kết với nhau hơn để cùng nhau đi đến chiến thắng. Cũng chính vì hầu
như tuần nào các em cũng tham gia một trò chơi tập thể như vậy và mỗi trò chơi
các em lại hình thành một nhóm khác nhau nên giữa các em khơng có chuyện chia
bè phái trong lớp mà lớp học rất hòa đồng.
2.3.2.2.1.5.4. Cho HS viết tâm thư.
Sự bùng nổ và phát triển của thời kì 4.0 đã phần nào làm cho khoảng cách
giữa con người với con người tuy gần về khoảng cách địa lí nhưng lại xa về
khoảng cách tâm hồn, trong đó có khoảng cách giữa cha mẹ và con cái. Hơn nữa,
ước nguyện của khơng ít cha mẹ đã đè nặng lên tâm trí của con cái như: năng lực
của con có hạn nhưng cha mẹ ln địi hỏi cao, bắt con học q nhiều mà khơng có
thời gian vui chơi, giải trí, có thể trẻ bị stress … Lại có những cha mẹ vì mải mê
cơng việc mà thiếu đi sự quan tâm của mình với con, khiến cho một số bạn trẻ suy
nghĩ là cha mẹ khơng u thương gì chúng, khơng quan tâm đến chúng, thậm chí
có em cịn suy nghĩ tiêu cực rằng cha mẹ chỉ quan tâm đến tiền mà thơi. Rồi có
những học sinh rơi vào hồn cảnh cha mẹ li thân, cha mẹ không hạnh phúc, hay
tranh cãi với nhau… đã làm ảnh hưởng đến tâm lí của trẻ. Do đó, để giúp cho cha
mẹ có thể hiểu được con, con có thể hiểu được cha mẹ và giúp cho giáo viên có thể
hiểu được các em, nên mỗi lần trước khi diễn ra cuộc họp phụ huynh, GVCN có
thể tổ chức cho học sinh viết “tâm thư gửi cha mẹ”. Học sinh sẽ bày tỏ tình cảm và
những suy nghĩ của mình về bố mẹ các em mà lâu nay các em khơng dám nói,
khơng dám thổ lộ. Sau đó, giáo viên sẽ thu lại, giữ bí mật và tất nhiên là khi họp
phụ huynh, thư đó sẽ được gửi cho phụ huynh của các em đọc. Đồng thời GVCN
cũng yêu cầu các phụ huynh viết “tâm thư gửi con” để qua đó cha mẹ các em bộc

bạch những tình cảm, suy nghĩ của họ với con của mình. Từ đó, cha mẹ và con cái
có thể hiểu được nhau hơn, khoảng cách giữa cha mẹ và con cái sẽ được xích lại
gần với nhau hơn, cuối cùng là cha mẹ và con cái tìm được tiếng nói chung.
2.3.2.2.1.6. Mời đại diện phụ huynh đến dự buổi Sinh hoạt lớp.
- Với định hướng “trường học mở” như hiện nay, các nhà trường phổ thông
luôn mong muốn phụ huynh cùng đồng hành với nhà trường trong giáo dục học sinh.
Phụ huynh có thể tham gia các buổi trò chuyện về nghề nghiệp tương lai của con cái
và bổ sung phần “thực tế đời sống” cho các bài học, các hoạt động trải nghiệm sáng
23


tạo của học sinh. Thầy cơ chủ nhiệm có thể mời phụ huynh tiêu biểu, thành công
trong công việc đến trường dự giờ Sinh hoạt để trao đổi với học sinh về nghề mà phụ
huynh đang làm, về một lĩnh vực cơng việc mà các em học sinh muốn tìm hiểu.
Chính phụ huynh sẽ chia sẻ với học sinh về công việc của họ, những yêu cầu về kiến
thức, kỹ năng cần có để đáp ứng cơng việc... hay tố chất như thế nào thì hợp với cơng
việc đó. Điều này các phụ huynh có thể làm tốt hơn giáo viên. Bởi vì, các bác phụ
huynh có những câu chuyện thực tế, sinh động, là người thật, việc thật – là chính
cơng việc mà phụ huynh đang làm nên có thể thu hút học sinh, thổi vào tâm hồn các
em tình u, sự ham thích với một cơng việc nào đó trong tương lai. Học sinh thực sự
rất hứng thú với hoạt động này.
- Trong một năm học, các tháng có các phong trào thi đua quan trọng như
chào mừng Ngày thành lập Đồn TNCS Hồ Chí Minh 26/3, Ngày nhà giáo Việt
Nam 20/11, giáo viên chủ nhiệm có thể mời đại diện phụ huynh đến dự buổi sinh
hoạt lớp. Nhờ đó, phụ huynh nắm được các phong trào thi đua của lớp, của trường,
và nhắc nhở, động viên con em tích cực tham gia rèn luyện ý thức, thi đua học tập
để lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn. Đó chính là món q vơ giá mà các
em dành tặng cho thầy cơ và gia đình.
2.3.2.2.1.7. Tác phong sư phạm của người thầy.
Khi lên lớp, người giáo viên đóng vai trị chủ đạo để điều tiết khơng khí

lớp học. Do đó, cách ứng xử, tâm lý, tư thế và tác phong của giáo viên có ảnh
hưởng rất lớn đến hứng thú của học sinh. Chính vì thế mà hiện nay, Ngành giáo
dục đang phát động phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, có
nghĩa là cần tạo bầu khơng khí thân thiện, gần gũi với học sinh; và phong trào
“Mỗi giáo viên là một tấm gương sáng để học sinh học tập và làm theo”. Vậy, làm
thế nào để học sinh thực sự quý mến và kính trọng, tơn thờ GV như một thần tượng
trong lịng các em và rồi nói gì các em nghe đó? Tại sao có những giáo viên chủ
nhiệm khiến cho học sinh ln kính trọng và cả đời khơng bao giờ quên? Đó hẳn
phải là một giáo viên chủ nhiệm tuyệt vời, một người đã khiến cho cuộc đời của
học sinh thay đổi trong những giai đoạn nào đó.
Một giáo viên dạy giỏi và một giáo viên chủ nhiệm giỏi không nhất thiết là
một. Tố chất quan trọng của giáo viên chủ nhiệm là tố chất của một con người có
tâm và con người hành động.
Giáo viên chủ nhiệm với chữ “uy”. Chủ nhiệm lớp phải nghiêm túc và cần
một bộ óc kế hoạch hóa. Đối tượng quản lý trường học, lớp học là con người phải
giáo hóa, do đó khơng thể có một chương trình cài đặt sẵn. Phải lao vào làm. Thấy
đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc
huỷ bỏ theo quy trình: Xây dựng kế hoạch – thực hiện kế hoạch – kiểm tra kế
hoạch – tổng kết và vạch kế hoạch mới. Bên cạnh đó, rất cần ở chủ nhiệm lớp các
phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù, trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả
24


năng xây dựng đội ngũ cán bộ học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải vừa là thầy vừa
là bạn của học trị. Biểu hiện là ở lời nói, việc làm, hành động; là ở trang phục, tư
thế tác phong, cách thức cư xử… và sự hấp dẫn trong từng tiết học của giáo viên
chủ nhiệm.
Bên cạnh chữ “uy”, không thể thiếu chữ “tâm” của giáo viên chủ nhiệm.
Chữ “tâm” được hiểu ở đây là lịng thương u trẻ đích thực, là lịng tâm huyết với
cơng việc của mình. Người giáo viên chủ nhiệm cần phải quản lý lớp, giáo dục học

sinh bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm nhiều nhà giáo rút ra là: Học sinh u q
thầy cơ nào thì sẽ thích học, thích vâng và nghe theo lời thầy cơ ấy. Bởi “chỉ có
những điều xuất phát từ trái tim mới đến được trái tim” và “chỉ có yêu thương mới
gieo mầm hạnh phúc”.
Giáo viên chủ nhiệm với việc “làm gương”. Trong lớp học, giáo viên chủ
nhiệm là người “cao nhất” để học sinh noi theo. Cách hành động, suy nghĩ, cư xử
của giáo viên sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quan niệm của học sinh và cả phụ huynh
về giáo viên. Do đó, khi đã đề ra một nguyên tắc nào, giáo viên chính là người đầu
tiên phải thực hiện đúng theo nguyên tắc đó. Một giáo viên vừa là giáo viên chủ
nhiệm đồng thời là giáo viên bộ mơn; vì vậy, khi đến trường hoặc lên lớp, GV cần
chuẩn bị bài kĩ bài dạy, trong đó có tiết Sinh hoạt lớp. Chỉ khi nào thầy cô cảm
thấy hứng thú với bài dạy thì sự hứng thú đó mới lây truyền sang học sinh. Sự
hứng thú này đi đơi với việc soạn kĩ bài trước và có một chương trình trước cho
những gì phải làm trong giờ học thay vì một thái độ “tùy cơ ứng biến”. Người thầy
càng tận tâm thì học sinh càng cố gắng. Khi lên lớp, giáo viên cần có lời nói gọn,
rõ ràng, dứt khốt. Khi nói, GV nhìn thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em chứ
đừng nói như nói với chính mình hay nói khơi khơi giữa lớp. Dùng từ, câu dễ hiểu,
hợp với trình độ học sinh. Một điều rất quan trọng là giáo viên cần biết lắng nghe
học sinh nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, thầy cơ dù bận
rộn mấy cũng phải lắng nghe. Có như vậy, khi thầy cơ nói, các em mới chú ý nghe
trở lại.
Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm phải biết thông cảm và chia sẻ những khó
khăn của học sinh; trả lời những câu hỏi của các em một cách thấu đáo. Đồng thời,
cho học sinh biết là các em có thể gọi điện cho thầy cơ để nói chuyện hay hỏi bài
vở (cách làm bài, cách trả lời …); hỏi về những khó khăn trong đời sống, những
khó khăn ở trường… để thầy cơ có thể định hướng hoặc giúp các em giải quyết
những khó khăn này. Thêm nữa, trong lớp học hay ngồi lớp học, thầy cơ cịn phải
đóng vai người anh, người chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Đồng chí
Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo khơng chỉ dạy cho học trị bằng những cơng thức,
bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng tất cả tâm hồn mình”. Qua đó,

các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lịng nhân ái.

25


×