Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (0 B, 112 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Trang

MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẤY PHÉP
VÀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG GIAI
ĐOẠN GIA NHẬP THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM

7

1.1. Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia
nhập thị trƣờng ở Việt Nam

7

1.1.1. Kinh doanh và gia nhập thị trường tại Việt Nam

7

1.1.2. Khái niệm Giấy phép và điều kiện kinh doanh

11

1.1.3. Sự cần thiết, vai trò và tác động của Giấy phép và điều
kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường ở


Việt Nam

19

1.1.4. Một số nguyên tắc áp dụng Giấy phép và điều kiện kinh
doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường

25

1.2. Cơ sở pháp lý của Giấy phép và điều kiện kinh doanh
trong giai đoạn gia nhập thị trƣờng ở Việt Nam

26

1.2.1. Khái quát chung về pháp luật Giấy phép và điều kiện kinh
doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường ở Việt Nam

26

1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về Giấy phép và điều
kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường ở
Việt Nam

27

1.2.3. Những nguyên tắc cơ bản của việc điều chỉnh pháp luật
về Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn
gia nhập thị trường ở Việt Nam

29



CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẤY PHÉP
VÀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG GIAI
ĐOẠN GIA NHẬP THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM

36

2.1 Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về Giấy phép
và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị
trƣờng ở Việt Nam

36

2.1.1. Giai đoạn trước năm 1999

36

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1999 đến trước ngày 1/7/2006

37

2.1.3. Giai đoạn từ 1/7/2006 đến nay

41

2.2. Đánh giá các quy định của pháp luật về Giấy phép và điều kiện
kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trƣờng ở Việt Nam

45


2.2.1. Những tác động tích cực của các quy định pháp luật về
Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia
nhập thị trường ở Việt Nam

46

2.2.2. Một số hạn chế của các quy định về Giấy phép và điều
kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường

48

2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Giấy phép và điều kiện
kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trƣờng ở Việt Nam

73

2.3.1. Thực tiễn tuân thủ các quy định về Giấy phép và điều
kiện kinh doanh của các chủ thể kinh doanh

73

2.3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về Giấy phép và điều
kiện kinh doanh của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

74

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT GIẤY PHÉP VÀ ĐIỀU KIỆN
KINH DOANH TRONG GIAI ĐOẠN GIA NHẬP

THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM

78

3.1. Một số nguyên nhân của những hạn chế trong pháp luật về
Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia
nhập thị trƣờng ở Việt Nam

78


3.1.1. Nguyên nhân do còn một số tồn tại về nhận thức trong
quá trình lập pháp, lập quy và cải cách hành chính

78

3.1.2. Nguyên nhân do cơ chế giám sát việc ban hành các quy
định về Giấy phép và điều kiện kinh doanh chưa hiệu quả

81

3.1.3. Nguyên nhân do bất cập trong cơ chế giám sát việc thực
hiện quyền và chức năng của các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền

82

3.1.4. Nguyên nhân do bất cập về trình độ, năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức Nhà nước


82

3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện các quy định về Giấy phép và
điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trƣờng ở
Việt Nam

83

3.2.1. Sự cần thiết phải cải cách các quy định về Giấy phép và
điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường
ở Việt Nam

83

3.2.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định về Giấy phép và
điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường
ở Việt Nam

84

3.3 Một số kiến nghị cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật về

88

Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia
nhập thị trƣờng ở Việt Nam
3.3.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật về Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong
giai đoạn gia nhập thị trường ở Việt Nam


88

3.3.2. Kiến nghị về cơ chế thực thi các quy định của pháp luật
về Giấy phép và điều kiện kinh doanh

96

KẾT LUẬN

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

106


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Luật Doanh nghiệp năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 được đánh

giá một bước tiến quan trọng trong q trình hồn thiện khung pháp luật về
Doanh nghiệp tại Việt Nam. Lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh của công dân
trở thành nguyên tắc chủ đạo, được thể hiện trong nhiều nội dung của Luật
Doanh nghiệp. Từ nguyên tắc này, rào cản trong các quy định về Giấy phép
và điều kiện kinh doanh tồn tại trong các Luật chuyên ngành như Luật các tổ
chức tín dụng, Luật Khống sản, Luật kinh doanh bất động sản,…được tìm
hiểu sâu và rộng hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, sự xuất hiện và tồn tại của
những ngành nghề kinh doanh có tác động trực tiếp đến an ninh cơng cộng,

kiểm sốt kinh tế vĩ mơ, mơi trường sinh thái, sức khỏe con người và những
lợi ích cơng cộng khác ln cần có sự quản lý bằng Giấy phép và điều kiện
kinh doanh. Đây không chỉ là công cụ để Nhà nước quản lý nền kinh tế mà
mà còn thực sự cần thiết cho xã hội, cho mỗi người dân, mỗi tổ chức kinh tế
mong muốn gia nhập thị trường và tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Trong quá trình áp dụng Giấy phép và điều kiện kinh doanh, đã có nhiều
cuộc rà sốt, đánh giá, thậm chí “chẩn đốn” do các cơ quan, tổ chức chuyên
ngành tại Việt Nam thực hiện. Tuy nhiên, việc tìm hiểu Giấy phép và điều
kiện kinh doanh một cách toàn diện, khoa học hiện vẫn còn nhiều khoảng
trống. Với mục đích tìm hiểu một cách sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và
thực tiễn về pháp luật Giấy phép và điều kiện kinh doanh, đặt tác động của
pháp luật về Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong quá trình một chủ thể
kinh doanh thành lập Doanh nghiệp và có đầy đủ cơ sở pháp lý để thực hiện ý
tưởng kinh doanh đó tại Việt Nam, học viên đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về
Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường ở

1


Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn tốt nghiệp cao
học của mình.

2.

Tình hình nghiên cứu
Giấy phép và điều kiện kinh doanh được coi là một trong những chủ đề

cải cách pháp lý chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, do vậy, đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu tìm hiểu ở các cấp độ khác nhau về vấn đề này.
Năm 2006, tác giả Trần Phuơng Nam đã hoàn thành và bảo vệ Luận văn Thạc

sỹ Luật học với đề tài: “Pháp luật về Giấy phép kinh doanh tại Việt Nam thực trạng và giải pháp hồn thiện”. Hiện cũng đã có một số sách chuyên
khảo, các báo cáo và các cuộc rà soát, tổng kết về Giấy phép và điều kiện
kinh doanh như Báo cáo Rà soát hệ thống các quy định về Giấy phép kinh
doanh do Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ) – Viện Nghiên cứu Quản lý
Kinh tế Trung ương (CIEM) thực hiện tháng 04 năm 2007; Báo cáo nghiên
cứu chuyên đề kinh tế “Giấy phép và điều kiện kinh doanh ở Việt Nam, Thực
trạng và Con đường phía trường” năm 2006 của Nhóm các chun gia do
PGS, TS Phạm Duy Nghĩa làm Trưởng nhóm thực hiện trong khuôn khổ hợp
tác giữa Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ (PMRC) – GTZ và Ngân
hàng Phát triển Châu Á (ADB); các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành
như: “Một Đạo luật chung và giấc mơ nửa triệu doanh nghiệp”, Thời báo
Kinh tế Sài Gòn, số 26 - 2006, tháng 6/2006, tr. 18 – 19 do PGS, TS Phạm
Duy Nghĩa viết; bài báo “Giấy phép kinh doanh “đủ tốt” và “đủ xấu” để cải
cách” của tác giả Phạm Chi Lan, đăng trên Tạp chí Nhà Quản lý số 30, tháng
12/2005, tr. 14 – 15,...
Các tài liệu trên đã nghiên cứu, tìm hiểu Giấy phép và điều kiện kinh
doanh với tính chất là một trong những thành tố tạo nên môi trường pháp lý
cho hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Phần lớn các tài liệu

2


trên đều xem xét Giấy phép và điều kiện kinh doanh là rào cản cụ thể đối với
nhà kinh doanh trong quá trình họ thực hiện hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam. Khoảng trống của các nghiên cứu, các tài liệu đã có là chưa có được
những tìm hiểu, những phân tích làm cơ sở lý luận cho thấy sự cần thiết, vai
trò của Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong quản lý kinh tế của Việt
Nam. Các nghiên cứu trên cũng chưa đặt tác động của pháp luật về Giấy phép
và điều kiện kinh doanh trong các mối quan hệ với Doanh nghiệp, với Nhà
nước và với cộng đồng. Do vậy, tác giả sẽ tìm hiểu pháp luật về Giấy phép

trong mối quan hệ với điều kiện kinh doanh; tìm hiểu tác động của Giấy phép
và điều kiện kinh doanh đối với Doanh nghiệp, với Nhà nước và với môi
trường kinh doanh. Sau cùng, luận văn đưa ra những kiến nghị cụ thể cho việc
hoàn thiện pháp luật về Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia
nhập thị trường tại Việt Nam.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật về Doanh nghiệp,
về Giấy phép và điều kiện kinh doanh, về ngành nghề kinh doanh có điều
kiện; thực tế áp dụng các quy định pháp luật nói trên cũng như bài học, kinh
nghiệm của nước ngoài về Giấy phép và điều kiện kinh doanh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các vấn đề trong phạm vi sau:
- Những vấn đề lý luận về pháp luật Giấy phép và điều kiện kinh doanh;
- Những quy định pháp luật về ngành nghề kinh doanh có điều kiện; về
Giấy phép và điều kiện kinh doanh;
- Thực trạng Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập
thị trường ở Việt Nam;

3


- Kinh nghiệm của một số nước về việc ban hành và áp dụng Giấy
phép và điều kiện kinh doanh.
Nội dung của luận văn chỉ đề cập đến quá trình gia nhập thị trường đối với
Doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có điều kiện, khơng đề cập đến tất cả
các thủ tục pháp lý trong suốt vòng đời tồn tại của Doanh nghiệp.

4.

Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận

duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm
của Đảng về đổi mới. Bên cạnh đó, luận văn cịn vận dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng nội dung nghiên cứu của đề tài như:
Phương pháp tổng hợp số liệu, báo cáo; phương pháp so sánh các quy định
pháp luật về đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh của Việt Nam với
pháp luật một số nước trên thế giới; phương pháp hệ thống lịch sử hình thành
và phát triển của bản thân các quy định đó; phương pháp phân tích, xây dựng
mơ hình. Các Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách hành
chính, các quy định của Hiến pháp về quyền kinh doanh, các hình thức kinh tế
và các quy phạm pháp luật về Giấy phép và điều kiện kinh doanh được sử
dụng với tính chất là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu và đưa
ra nhận định của tác giả.
5.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5.1.

Mục đích:
Mục đích của Luận văn nhằm góp phần khẳng định vai trị của pháp luật

về Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường ở
Việt Nam. Đồng thời, luận văn đưa ra một số đề xuất, kiến nghị cụ thể góp
phần hạn chế, xố bỏ những rào cản tồn tại từ các quy định về Giấy phép và


4


điều kiện kinh doanh trong quá trình gia nhập thị trường, góp phần thúc đẩy
sự ra đời của Doanh nghiệp và sự phát triển của kinh tế đất nước.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý của Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong
giai đoạn gia nhập thị trường theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Tìm hiểu quy định của Luật thực định về Giấy phép và điều kiện kinh
doanh bao gồm Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, các văn bản dưới Luật
về Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường;
- Tìm hiểu, đánh giá những cải cách về Giấy phép và điều kiện kinh
doanh đã được thực hiện; tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về
Giấy phép và điều kiện kinh doanh nhằm khẳng định những tác động tích
cực và những tồn tại của pháp luật về Giấy phép và điều kiện kinh doanh
trong giai đoạn gia nhập thị trường tại Việt Nam;
- Tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về Giấy phép và
điều kiện kinh doanh để rút ra bài học với Việt Nam;
- Đưa ra phương hướng cho những bước cải cách tiếp theo của pháp luật
về Giấy phép và điều kiện kinh doanh ở Việt Nam.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
So với các nghiên cứu trước đây, Luận văn có các điểm mới sau:
- Xây dựng khái niệm về Giấy phép kinh doanh;
- Xác định các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Giấy phép và điều kiện
kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường;
- Đánh giá những tác động của Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong
quản lý vĩ mô của Nhà nước, trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng và bảo vệ quyền lợi của các Doanh nghiệp xét riêng giai đoạn gia
nhập thị trường.


5


Ngồi ra, với tính chất là một nghiên cứu khoa học, những tìm hiểu của
luận văn cùng với các nghiên cứu khác đã được thực hiện, luận văn có những
đóng góp nhất định vào nỗ lực cải thiện mơi trường kinh doanh từ phương
diện pháp lý, từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Mục
lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật Giấy phép và điều kiện kinh
doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong
giai đoạn gia nhập thị trường ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Giấy phép và điều
kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường ở Việt Nam.
Với hạn chế về kinh nghiệm và khả năng nghiên cứu nên việc giải quyết
các vấn đề nêu trên của tác giả chắc chắn khơng tránh khỏi thiếu sót. Tác giả
kính mong nhận được sự đóng góp, giúp đỡ của các thầy cơ và các bạn.
Hà Nội ngày____ tháng____ năm 2008.
Tác giả
Trần Thị Ngân

6


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIẤY PHÉP VÀ
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG GIAI ĐOẠN GIA NHẬP
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
1.1. Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong gia nhập thị trường tại
Việt Nam
1.1.1. Kinh doanh và gia nhập thị trường tại Việt Nam
Kinh doanh với hình thức ban đầu là hoạt động bn bán xuất hiện từ
hàng trăm năm trước đây (như việc buôn bán của người Do Thái ở Tây Nam
Á, người nhà Thương ở Đông Bắc Á) và thực sự nở rộ cùng sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản phương Tây.
Việt Nam với dấu ấn của một xã hội “trọng nông ức thương”, trước thế
kỷ XIX, thương nhân không phải là một tầng lớp riêng trong xã hội. Dù vậy,
hoạt động thương mại vẫn được diễn ra cùng với tên tuổi của các địa danh
như Vân Đồn, phố Hiến, Hội An. Đến thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945), với
mục tiêu cuối cùng của thực dân Pháp là mở ra thị trường tiêu thụ hàng hóa,
khai thác ngun liệu cho cơng nghiệp chính quốc để đạt siêu lợi nhuận tối
đa, năm 1864 người Pháp đem Bộ Luật thương mại của mình áp dụng vào
Nam kỳ và áp dụng vào Bắc kỳ năm 1988. Đây là Bộ luật thương mại thành
văn đầu tiên được áp dụng ở nước ta quy định các vấn đề về thương gia,
quyền và nghĩa vụ của thương gia, về các hội buôn, về thương phiếu, phá sản
và về tòa án thương mại.
Ngày nay, quyền tự do kinh doanh của người dân Việt Nam đã trở thành
quyền hiến định. Theo Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2001): “Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về

7


quy mơ hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.”

(Điều 21) [9]. Luật Doanh nghiệp năm 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 5 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 07 năm 2006 đã cụ thể hoá quyền tự do kinh doanh và coi
đây là một trong những nguyên tắc chủ đạo xuyên suốt các Điều luật. Khoản
1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005 khẳng định: “Doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật khơng
cấm”. Như một “dịng sơng lớn”, quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam được
minh chứng bằng con số 207.034 Doanh nghiệp dân doanh đăng ký thành lập
mới với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 466 nghìn tỷ đồng (tính đến hết năm
2006), trong 05 tháng đầu năm 2007 đã có 20.300 Doanh nghiệp được thành
lập trên cả nước với với số vốn đăng ký 135.000 tỷ đồng [13]. Cùng với con
số Doanh nghiệp mới được thành lập, tổng sản phẩm quốc nội 9 tháng đầu
năm 2007 đạt khoảng 8,3% cao hơn mức tăng cùng kỳ năm trước (8,13%)
[37], 1,2 triệu việc làm mới được tạo ra từ sự gia tăng của nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài và sự ra đời liên tiếp của các Doanh nghiệp trong nước.
Quyền tự do kinh doanh của người dân tiếp tục được khẳng định rõ trong Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (diễn ra từ 18/4/2006 đến ngày
25/4/2006 tại Hà Nội), theo đó chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam trong
giai đoạn 2006 -2010 sẽ là: “Thực hiện nhất qn các chính sách tạo mơi
trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các
loại hình doanh nghiệp. Mọi cơng dân có quyền tự do đầu tư, kinh doanh
trong những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có
quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp; có quyền bình
đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát
triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông tin. Việc hình thành và phát triển
một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, có sức cạnh tranh cao, có uy

8



tín lớn là một nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước và toàn xã hội”(mục 1 phần III - Các chính sách và giải pháp) [33].
“Gia nhập” là một thuật ngữ được hiểu là “gia”: thêm; “nhập”: vào
[32]. Dưới khía cạnh pháp lý, gia nhập thị trường được hiểu là quá trình một
chủ thể kinh doanh thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết để bắt đầu hoạt động
kinh doanh của mình bao gồm các thủ tục đăng ký kinh doanh, tiếp cận đất
đai và các thủ tục để được cấp các loại Giấy phép cũng như các điều kiện
pháp lý cần thiết khác cho việc bắt đầu hoạt động kinh doanh. Nói cách khác,
nếu giai đoạn hình thành ý tưởng kinh doanh, nhận diện thị trường là quá
trình “gieo hạt” thì giai đoạn “gia nhập thị trường” chính là q trình hạt được
gieo có đầy đủ điều kiện (bao gồm điều kiện tự thân và điều kiện môi trường
xung quanh) để nảy mầm thành cây và bắt đầu những giai đoạn phát triển cao
hơn (xem hình 1).
Xây dựng ý tưởng (Idea formulation)
Lập kế hoạch chuẩn bị và nhận diện thị trường
(Pre-start planning and screening)
Gia nhập thị trường (Entry and launch)
Phát triển (Post entry development)

Rút khỏi thị trường (Withdraw)
Hình 1: Quá trình hình thành và phát triển Doanh nghiệp
Một trong những yếu tố tác động đến quyết định gia nhập thị trường của
các chủ thể kinh doanh nói chung và với Doanh nghiệp nói riêng đó là chi phí

9


gia nhập thị trường. Có thể nói, chi phí gia nhập thị trường là một chỉ số được
đo lường bằng thời gian, chi phí chính thức, chi phí khơng chính thức mà một
Doanh nghiệp cần để đăng ký kinh doanh, xin cấp đất và nhận được mọi loại
Giấy phép, hoàn tất tất cả các thủ tục pháp lý cần thiết để bắt đầu tiến hành

hoạt động kinh doanh. [27,tr.11].
Thực hiện vai trò quản lý nền kinh tế, pháp luật các nước trên thế giới
đều có quy định riêng điều chỉnh quá trình gia nhập thị trường của các chủ thể
kinh doanh. Tổng thể các quy định này tạo nên thể chế (khung pháp luật) về
gia nhập thị trường đối với tổ chức, cá nhân dự định kinh doanh trên lãnh thổ
nước đó. Tại Việt Nam, nội dung này bao gồm các quy định về hình thức tổ
chức Doanh nghiệp (Doanh nghiệp Nhà nước; Công ty cổ phần, Công ty
trách nhiệm hữu hạn,Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân,…); các quy
định về đăng ký kinh doanh (hoặc đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước
ngoài) nhằm thừa nhận và bảo vệ địa vị pháp lý của Doanh nghiệp; các quy
định về Giấy phép và điều kiện kinh doanh nhằm công nhận việc gia nhập
thị trường của Doanh nghiệp kinh doanh nghành nghề có điều kiện một cách
hợp pháp và sau cùng là các quy định về bộ máy tổ chức thực hiện việc tiếp
nhận hồ sơ, đăng ký thành lập Doanh nghiệp (xem hình 2).

10


Các quy định về
loại hình Doanh
nghiệp

Các quy định
đăng ký kinh
doanh/đăng ký
đầu tư

THÀNH LẬP
DOANH
NGHIỆP


Các quy định về
Giấy phép và
điều kiện kinh
doanh

Các quy định về bộ
máy tổ chức thực hiện
việc tiếp nhận hồ sơ,
đăng ký thành lập
Doanh nghiệp

Hình 2: Khung pháp luật điều chỉnh quá trình thành lập Doanh nghiệp
1.1.2. Khái niệm Giấy phép và điều kiện kinh doanh
Không thể phủ nhận vai trị của hoạt động kinh doanh vì nó đã và đang
đóng góp to lớn vào q trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Những đóng góp tích cực đó có được khi quyền tự do kinh doanh được thừa
nhận. Tuy nhiên, mỗi nước đều có sự giới hạn bằng pháp luật để quyền tự do
kinh doanh không gây thiệt hại cho các chủ thể khác và không làm xấu đi trật
tự chung của cả nền kinh tế xã hội. Tại Việt Nam, một trong những giới hạn
này được thể hiện ở việc: Nhà nước sử dụng cơng cụ pháp luật xác định
“nhóm ngành nghề được tự do kinh doanh”; “nhóm ngành nghề cấm kinh

11


doanh” và “nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện”. Cùng với các quy
định về nhóm ngành nghề kinh doanh, pháp luật thương mại Việt Nam cịn
xác định nhóm hàng hố, dịch vụ cấm kinh doanh; nhóm hàng hố, dịch vụ
hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện [3]. Với nhóm ngành nghề

kinh doanh có điều kiện, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý bằng việc xác
định các điều kiện kinh doanh hay nói cách khác là định ra “những yêu cầu
mà Doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề
cụ thể được thể hiện bằng Giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh, chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề,
chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định
hoặc yêu cầu khác”. (Khoản 2 Điều 7) [5].

Hình 3: Nhóm các ngành nghề kinh doanh tại Việt Nam
a) Khái niệm Giấy phép kinh doanh
Theo Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học: “Giấy phép là Giấy do Cơ
quan có thẩm quyền cấp, cho phép làm một việc gì” [23, tr. 400].
Trong bản Dự thảo Luật Doanh nghiệp năm 2005 (bản ngày
07/07/2005), Giấy phép kinh doanh được định nghĩa như sau:

12


“Giấy phép trong Luật này là kết quả dưới mọi hình thức của các cơng
việc xét duyệt hành chính theo trình tự do pháp luật quy định về sự tuân thủ đầy
đủ và đúng các điều kiện kinh doanh”.
Tuy nhiên, định nghĩa này không được đưa vào Luật Doanh nghiệp
năm 2005.
Dự thảo lần 1 Nghị định về quản lý hệ thống Giấy phép năm 2006 đã
đưa ra định nghĩa về Giấy phép, theo đó:“Giấy phép kinh doanh là sự chấp
thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới mọi hình thức (đăng ký,
chấp thuận, đồng ý, phê duyệt, giấy phép, giấy chứng nhận đủ điều kiện và
các hình thức khác, thành văn hoặc bất thành văn mà cá nhân hoặc Doanh
nghiệp phải có để tiến hành một hoặc một số hoạt động kinh doanh nhất định
(sau đây gọi chung là giấy phép)” (khoản 1 - Điều 4) [28].

Định nghĩa này cho thấy: về hình thức Giấy phép kinh doanh có thể là
thành văn hoặc bất thành văn; về bản chất Giấy phép kinh doanh là sự chấp
thuận của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc cho phép tổ chức, các
nhân kinh doanh các nghành nghề có điều kiện nhất định và chỉ khi được sự
đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan, tổ chức cá nhân
mới được kinh doanh ngành nghề đó. Định nghĩa này trùng với định nghĩa về
Giấy phép của đạo luật về giấy phép hành chính năm 2004 của Trung Quốc,
theo đó giấy phép hành chính là một hành vi, căn cứ vào quy định pháp luật,
cơ quan hành chính cho phép cơng dân, pháp nhân hoặc tổ chức tiến hành
hoạt động cụ thể nhất định.
Sau nhiều lần tổ chức hội thảo và lấy ý kiến rộng rãi, Dự thảo lần 4 Nghị
định về quản lý hệ thống Giấy phép năm 2006 đã định nghĩa lại về Giấy
phép kinh doanh, theo đó:
“Giấy phép kinh doanh là sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền dưới mọi hình thức (đăng ký, chấp thuận, đồng ý, phê

13


duyệt, giấy chứng nhận đủ điều kiện và các hình thức khác) mà cá nhân, tổ
chức phải có để tiến hành một hoặc một số hoạt động kinh doanh nhất định
(sau đây gọi chung là giấy phép)” (khoản 1 Điều 4) [29].
Như vậy, bản Dự thảo lần 4 Nghị định về quản lý hệ thống Giấy phép
năm 2006 đã khẳng định Giấy phép kinh doanh ln có hình thức tồn tại là
văn bản. Đặc trưng này của Giấy phép kinh doanh cũng được thể hiện trong
Giáo trình Luật Thương mại năm 2007 của trường Đại học Luật Hà Nội khi
đưa ra định nghĩa sau đây về Giấy phép kinh doanh:
“Giấy phép kinh doanh là loại giấy tờ do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp, cho phép chủ thể kinh doanh tiến hành một hoặc nhiều hoạt động
kinh doanh nhất định” [18, tr.404].

Theo quan điểm này, khơng thể có Giấy phép kinh doanh tồn tại dưới
dạng bất thành văn bởi chính tên gọi của nó, những trường hợp bất thành văn
chỉ là những điều kiện cụ thể mà cá nhân, tổ chức phải có hoặc phải tuân theo
khi tiến hành một hoặc một số hoạt động kinh doanh nhất định (thuộc nhóm
điều kiện kinh doanh khơng cần Giấy phép). Cách hiểu này gần gũi với định
nghĩa được đưa ra trong Đạo luật cấp phép của Vương quốc Anh năm 2003:
“giấy phép là giấy tờ mà đồng ý cho phép”. Cũng theo Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD), Giấy phép kinh doanh được hiểu là sự chấp thuận
bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới mọi hình thức mà
một cá nhân, tổ chức phải có để tiến hành một hoặc một số hoạt động kinh
doanh nhất định.
Có thể nhận thấy khơng có một tên gọi chung cho các loại Giấy phép bởi
các ngành nghề kinh doanh có điều kiện rất khác nhau về bản chất, ngôn từ
biểu hiện. Trên thực tế, Giấy phép thường có tên gọi và dạng thể hiện phổ
biến sau [21. tr.23]:
 Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn;

14


 Giấy chứng nhận đăng ký;
 Giấy phép kinh doanh;
 Chứng chỉ hành nghề;
 Thẻ.
Có ý kiến cho rằng một số trong các văn bản nêu trên không phải là
Giấy phép kinh doanh vì khơng mang tên “Giấy phép”. Tuy nhiên, các loại
giấy tờ trên đều là kết quả của một quy trình hành chính với sự tham gia của
Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo một trình tự, thủ tục hành
chính nhất định. Đối với Doanh nghiệp, các loại giấy tờ trên đều là kết quả
của một thủ tục hành chính với sự tham gia của Cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền và Doanh nghiệp buộc phải thực hiện trước khi tiến hành hoạt động
kinh doanh có điều kiện.
Có thể đưa ra một định nghĩa như sau về Giấy phép kinh doanh:
“Giấy phép kinh doanh là sự chấp thuận bằng văn bản của Cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp cho một tổ chức hoặc một cá nhân, theo
đó tổ chức, cá nhân này được tiến hành một hoặc một số hoạt động kinh doanh
nhất định ”
Từ định nghĩa trên đây có thể nhận thấy các đặc điểm sau của Giấy
phép kinh doanh:
Về chủ thể ban hành: Giấy phép kinh doanh là văn bản do cơ quan
quản lý Nhà nước cấp theo từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể như Giấy phép
cung cấp các dịch vụ ứng dụng Internet do Bộ Thông tin truyền thơng cấp;
Giấy phép quảng cáo do Bộ Văn hóa – Du lịch - Thể thao cấp; Giấy phép hoạt
động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài do Bộ Lao động –
Thương binh – Xã hội cấp;…..
Về phạm vi áp dụng: Giấy phép kinh doanh không áp dụng phổ biến
với tất cả các ngành nghề trong hệ thống kinh tế quốc dân. Xuất phát từ mục

15


đích quản lý, Nhà nước quy định một số hoạt động kinh doanh cần thiết phải
được quản lý bằng công cụ pháp lý Giấy phép và/ hoặc các điều kiện kinh
doanh khác. Đó là những hoạt động kinh doanh có điều kiện và thường là
những lĩnh vực có tác động trực tiếp đến an ninh công cộng, quản lý kinh tế vĩ
mơ, bảo vệ mơi trường sinh thái, có tác động trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng
hoặc các lĩnh vực liên quan đến dịch vụ cơng ích;….
Về đối tượng áp dụng: Giấy phép kinh doanh được cấp cho các chủ thể
kinh doanh, bao gồm các cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng
ký kinh doanh. Trường hợp chủ thể kinh doanh là Doanh nghiệp, đối tượng

được cấp là Doanh nghiệp chứ không phải là các thành viên sáng lập hoặc
thành viên góp vốn thành lập Doanh nghiệp.
Về thời điểm cấp Giấy phép kinh doanh: Giấy phép kinh doanh được
cấp khi chủ thể kinh doanh đã đăng ký thành lập hợp pháp. Điều này thể hiện
rõ đối với nhóm chủ thể kinh doanh là Doanh nghiệp, dù được thành lập mới
để kinh doanh những ngành nghề kinh doanh có điều kiện hoặc đăng ký bổ
sung những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chủ thể xin cấp Giấy phép
(Doanh nghiệp) phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Về ý nghĩa pháp lý: Giấy phép kinh doanh thể hiện sự xác nhận của
Nhà nước về việc một chủ thể kinh doanh đáp ứng đầy đủ các điều kiện kinh
doanh mà pháp luật quy định và đây sẽ là giấy tờ pháp lý chứng minh việc tổ
chức, cá nhân được quyền kinh doanh hợp pháp một, một số hoạt động kinh
doanh có điều kiện.
b) Khái niệm về điều kiện kinh doanh không cần Giấy phép
Khác với Giấy phép, điều kiện kinh doanh không cần Giấy phép có
nghĩa rộng hơn, có thể được hiểu là những điều kiện mà chủ thể kinh doanh
phải đáp ứng khi kinh doanh một hoặc nhiều hơn một ngành nghề kinh doanh

16


nhất định và không thông qua cơ chế cấp Giấy phép kinh doanh. Từ phía
Doanh nghiệp, khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện kinh doanh do pháp luật quy
định, Doanh nghiệp chỉ cần đăng ký hoặc cam kết với cơ quan có thẩm quyền
trước khi đi vào tổ chức hoạt động kinh doanh. Với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, dựa trên kết quả kiểm tra, thẩm định, nhân viên, cán bộ cơng
chức hành chính Nhà nước có quyền chấp thuận, hạn chế hoặc khước từ việc
đăng ký hoặc tổ chức một hoạt động kinh doanh cụ thể.
Có thể có các điều kiện kinh doanh khơng cần Giấy phép sau:
-


Điều kiện về nhân sự (đối với người trực tiếp quản lý điều hành Doanh
nghiệp hoặc người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp);

-

Điều kiện về kỹ thuật là các quy định cụ thể các tiêu chí về an tồn cơ
học, an tồn lao động, an tồn hố học, …..;

-

Điều kiện về năng lực tài chính như quy định về mức vốn pháp định,
cách thức chứng minh năng lực tài chính và cơ quan có thẩm quyền xác
định, đánh giá năng lực tài chính;

-

Điều kiện về nguồn sở hữu vốn (sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, vốn
đầu tư trong nước, vốn đầu tư nước ngoài) nhằm xác định điều kiện về
chủ thể được xem xét chấp thuận đủ điều kiện kinh doanh;

-

Các điều kiện khác: điều kiện về an ninh trật tự, điều kiện về bảo vệ
mơi trường và phịng chống cháy nổ; sự phù hợp quy hoạch tổng thể,…
Như vậy, điều kiện kinh doanh là các điều kiện mà doanh nghiệp phải

đáp ứng khi kinh doanh một ngành nghề nhất định do pháp luật quy định.
Trong suốt q trình kinh doanh, Doanh nghiệp phải hồn toàn tự chịu trách
nhiệm tuân thủ các điều kiện kinh doanh mà họ đã tự cam kết. Với cơ chế

này, vai trị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là cấp đăng ký kinh doanh
cho doanh nghiệp, giám sát việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh của doanh
nghiệp trong suốt quá trình hoạt động và xử lý những trường hợp vi phạm.

17


c) Phân biệt Giấy phép kinh doanh và điều kiện kinh doanh
Về bản chất, việc phê duyệt Giấy phép kinh doanh hoặc phê duyệt đủ
điều kiện kinh doanh được xem là hành vi hành chính của cơ quan nhà nước
can thiệp vào quyền tự do kinh doanh của người dân nhằm đảm bảo những lợi
ích cơng cộng nhất định. Có thể phân biệt Giấy phép và điều kiện kinh doanh
ở những điểm sau:
Về hình thức thể hiện: Giấy phép như trên đã khẳng định là sự chấp
thuận bằng văn bản của Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong khi
đó điều kiện kinh doanh khơng cần Giấy phép thường dẫn đến một hành vi
hành chính cụ thể của cơ quan Nhà nước. Hành vi hành chính đó có thể là sự
chấp nhận, hạn chế hoặc khước từ việc đăng ký tổ chức một hoạt động kinh
doanh nhất định.
Về cơ chế kiểm soát: Giấy phép kinh doanh thường là văn bản hành
chính đơn lẻ, được cấp cho một Doanh nghiệp sau khi xem xét các điều kiện
kinh doanh tại Doanh nghiệp đó. Q trình xem xét và cấp phép này được
thực hiện trước khi Doanh nghiệp bắt đầu kinh doanh theo cơ chế tiền kiểm
(ex ante). Ngược lại, điều kiện kinh doanh là những tiêu chuẩn được duy trì
trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Cơ quan Nhà
nước giám sát việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh của Doanh nghiệp trong
suốt quá trình Doanh nghiệp tiến hành kinh doanh và đây là cơ chế hậu kiểm
(ex post monitoring).
Về hiệu lực: Giấy phép thường có hiệu lực được xác định cụ thể (6
tháng, 1 năm, 3 năm hoặc vô thời hạn) trong khi điều kiện kinh doanh được

áp dụng chung cho một ngành nghề kinh doanh cụ thể và sẽ được áp dụng
trong suốt quá trình Doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh đó.
Về tác động đối với Doanh nghiệp: Với các ngành nghề kinh doanh
không cần Giấy phép mà chỉ cần điều kiện kinh doanh, Doanh nghiệp được

18


thực hiện hoạt động kinh doanh khi có đủ các điều kiện theo quy định mà
khơng cần phải có Giấy phép đồng ý của cơ quan Nhà nước. Trường hợp này,
Doanh nghiệp được chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh khi so sánh với
việc phải xin Giấy phép từ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bởi khi xin Giấy
phép, Doanh nghiệp ở thế thụ động, phải chờ sự đồng ý của cơ quan Nhà
nước mới được thực hiện hoạt động kinh doanh.
1.1.3. Sự cần thiết, vai trò và tác động của Giấy phép và điều kiện kinh
doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường
a) Sự cần thiết của Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn
gia nhập thị trường
Giấy phép và điều kiện kinh doanh là công cụ pháp lý để nhà nước thực
hiện việc quản lý đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Trong giai
đoạn gia nhập thị trường, sự cần thiết của Giấy phép và điều kiện kinh doanh
được thể hiện ở những luận điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước là thiết chế được thiết lập nhằm thực hiện vai trò
quản lý nền kinh tế trong đó có vai trị đối với giai đoạn gia nhập thị trường của
Doanh nghiệp.
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất
đều không thể phát triển một cách tự phát mà tất cả đều cần sự can thiệp và hỗ
trợ của Nhà nước. Song hành với việc xóa bỏ các rào cản, tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển, Nhà nước thực hiện một vai trị khác khơng thể thiếu là
kiểm soát, hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền

kinh tế phát triển bền vững.
Trong giai đoạn gia nhập thị trường, Nhà nước quản lý, kiểm soát đối
với một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện thể hiện bằng việc cho phép
hay không cho phép các cá nhân, tổ chức được tiến hành kinh doanh nhằm

19


mục đích bảo vệ lợi ích và trật tự cơng cộng. Thông qua việc cấp phép và xác
định các điều kiện kinh doanh, Nhà nước có điều kiện và cơ sở để thẩm tra kỹ
lưỡng việc các cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh các ngành
nghề kinh doanh có điều kiện. Q trình thẩm tra này là cần thiết cho việc
thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước, bảo vệ lợi ích cộng đồng và lợi ích
Doanh nghiệp. Trường hợp có vi phạm, Nhà nước có thể không cấp phép, rút
Giấy phép hoặc yêu cầu tổ chức, cá nhân đưa ra các căn cứ chứng minh việc
đáp ứng đầy đủ các điều kiện kinh doanh.
Trong quá trình Doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh, bằng
Giấy phép kinh doanh, Nhà nước có thể quản lý và điều tiết hoạt động kinh
doanh đó tốt hơn thơng qua thời hạn cấp phép. Giấy phép và điều kiện kinh
doanh cũng là căn cứ cho công tác kiểm tra việc Doanh nghiệp thực hiện và
duy trì các điều kiện kinh doanh sau cấp phép hoặc sau đăng ký kinh doanh.
Sau cùng, Nhà nước có thể thu hồi Giấy phép hoặc Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh khi có biểu hiện cho thấy hoạt động kinh doanh của cá nhân, tổ
chức xâm hại lợi ích cộng đồng. Tất cả q trình thẩm tra, kiểm tra và cấp
phép trên cho thấy ranh giới của sự hạn chế quyền tự do kinh doanh với mục
đích cuối cùng là bảo vệ quyền lợi của người thứ ba, của cộng đồng.
Thứ hai, từ giác độ thực tiễn, việc xuất hiện các ngành nghề kinh doanh
có điều kiện như đã nói ở trên là hồn tồn cần thiết và càng cần thiết hơn khi
những ngành nghề đó cần sự quản lý nghiêm khắc hơn bởi các quy định của
pháp luật và bởi các cơ quan Nhà nước nhằm duy trì và bảo vệ lợi ích cơng

cộng. Bên cạnh đó, cũng có thể khẳng định hiện chưa có cơng cụ quản lý kinh
tế khác ưu việt hơn để thay thế toàn bộ hệ thống Giấy phép và điều kiện kinh
doanh ở Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới. Điều này được minh
chứng bởi con số hơn 2.000 Giấy phép hiện đang có hiệu lực ở nước Úc và
con số này ở nước Mỹ là 3.000, ở Hàn Quốc là 5.000.

20


b) Vai trò của Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn
Doanh nghiệp gia nhập thị trường ở Việt Nam
Tại Việt Nam, Giấy phép và điều kiện kinh doanh ln gắn liền với các
ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Theo tinh thần của Điều 6 Luật Doanh
nghiệp năm 2005, ngành nghề kinh doanh trong nền kinh tế đựơc chia thành:
ngành nghề cấm kinh doanh; ngành nghề kinh doanh có điều kiện và ngành
nghề tự do kinh doanh. Thực tế cho thấy ngành nghề kinh doanh có điều kiện
thường bao gồm những nhóm ngành sau:
-

Ngành nghề có tác động trực tiếp đến an ninh cơng cộng, kiểm sốt kinh
tế vĩ mô, và bảo vệ môi trường sinh thái; hoặc

-

Có quan hệ trực tiếp đến sức khỏe con người; hoặc

-

Khai thác tài nguyên thiên nhiên; hoặc


-

Cung cấp dịch vụ cơng ích; hoặc

-

Sản xuất, mua bán, vận chuyển hoặc sử dụng các thiết bị, phương tiện
hoặc sản phẩm có liên quan trực tiếp đến an ninh công cộng, sức khỏe của
con người.
Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia nhập thị trường

của Doanh nghiệp thực sự có ý nghĩa khi thực hiện các vai trò sau:
Đối với Nhà nước: Giấy phép và điều kiện kinh doanh là cơng cụ pháp
lý để điều tiết có hiệu quả hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong tính đa
dạng của nền kinh tế thị trường, trong quá trình đảm bảo quyền tự do kinh
doanh của công dân và trước yêu cầu hội nhập, mở cửa nền kinh tế.
Đối với các chủ thể kinh doanh: Giấy phép và điều kiện kinh doanh là
cơng cụ kiểm sốt và hạn chế độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh. Đây sẽ
là cơ sở để quyền tự do kinh doanh của các tổ chức, cá nhân được đảm bảo.
Đặc biệt, trong điều kiện lập pháp và ý thức pháp luật chưa cao, nếu không có
những giới hạn điều kiện hoặc những khống chế bằng việc quy định ngành

21


nghề kinh doanh có điều kiện thì rất dễ xảy ra việc lợi dụng, vi phạm pháp
luật và hậu quả là vượt ra khỏi sự an toàn, cân bằng và trật tự chung trong xã hội.
Đối với cộng đồng: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội sẽ có
rất nhiều lợi ích đại chúng cần được bảo vệ như vấn đề an ninh quốc phòng,
vệ sinh an toàn thực phẩm, quyền lợi của người tiêu dùng….Việc kinh doanh

thực phẩm nếu khơng được kiểm sốt có thể sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức khỏe của mọi người. Hoạt động quảng cáo, khuyến mại khơng có sự
kiểm sốt cũng sẽ có khả năng có gian lận, lừa gạt người tiêu dùng. Các hoạt
động đào tạo, xuất khẩu lao động, giới thiệu việc làm,… khơng có những điều
kiện nhất định về nhân sự, về vốn pháp định, về Giấy phép của Cơ quan quản
lý chuyên ngành sẽ gây ra những hậu quả to lớn về mặt xã hội.
Đối với môi trường kinh doanh: Giấy phép và điều kiện kinh doanh là
một trong các cơng cụ kiểm sốt và hạn chế độc quyền, góp phần đưa lại một
mơi trường kinh doanh bình ổn và phát triển bền vững. Một chủ thể dự định
kinh doanh ngành nghề có điều kiện khơng thể chỉ với sức mạnh về khả năng
tài chính có thể độc quyền kinh doanh hoặc khống chế thị trường. Bên cạnh
đó, bằng việc quy định Giấy phép và điều kiện kinh doanh, nhà nước xác định
rõ chủ thể, đối tượng được quyền kinh doanh một hoặc một số ngành nghề
nhất định, theo đó các chủ thể kinh doanh có điều kiện như nhau sẽ có cơ hội
kinh doanh ngang bằng. Nói cách khác, bên cạnh mục đích duy trì và bảo vệ
lợi ích cơng cộng, Giấy phép và điều kiện kinh doanh góp phần tạo lập mơi
trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh.
c) Tác động của Giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn
Doanh nghiệp gia nhập thị trường.

22


×