Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

bài thi môn kinh tế môi trường ĐỀ BÀI HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479 KB, 25 trang )

Mã sinh viên: dtgfnhbgctdtbhffffffffcnfvc
1973401010052
cc

Họ và tên: Phạm Thị Hồng Ngọc

cbvfcbbbbbbcvddgfrvddd

Khóa/Lớp: (tín chỉ): CQ57/31.02LT1

(niên chế): CQ57/31.02

STT: 15

ID phịng thi: 581 – 058 – 1301

Ngày thi: 09/06/2021

Giờ thi: 7h30

BÀI THI MÔN: KINH TẾ MƠI TRƯỜNG
Hình thức thi: Tiểu luận
Thời gian thi: 3 ngày

ĐỀ BÀI:
HỒN THIỆN CÁC CƠNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1



BÀI LÀM:
I, LỜI MỞ ĐẦU
Môi trường đang ngày càng là vấn đề quan tâm sâu sắc của toàn thế giới nói
chung cũng như Việt Nam nói riêng. Bởi lẽ, mơi trường là không gian, nơi ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống, là nơi chứa đựng và cung cấp tài nguyên thiên
nhiên phục vụ cuộc sống của con người. Tuy nhiên, cùng với q trình cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa, sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế tồn cầu,
bên cạnh những thành quả đạt được về kinh tế thì mơi trường đang bị ơ nhiễm,
xuống cấp trầm trọng, khó kiểm sốt. Q trình đơ thị hóa diễn ra ngày càng
mạnh dẫn đến các chất thải ra môi trường ngày càng tăng lên, ảnh hưởng nguy
hại đến con người. Do đó, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn về
bảo vệ và quản lý mơi trường.
Tình hình Việt Nam hiện nay để phát triển bền vững thì cần phải kết hợp hài
hòa cả hai yêu cầu: vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa bảo vệ môi trường.
Muốn thực hiện được điều đó, bên cạnh những nỗ lực, ý thức của các cá nhân, tổ
chức trong cộng đồng thì vai trị của nhà nước là rất quan trọng. Để hoạt động
bảo vệ môi trường đi vào nề nếp, bài bản thì cần phải quản lý mơi trường. Bằng
những biện pháp và chính sách khác nhau, Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ
vào hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo vệ các yếu tố của môi
trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thối và sự cố mơi trường.
Nhà nước phải kết hợp chặt chẽ và đồng bộ các công cụ quản lý để đảm bảo
việc quản lý môi trường. Trong các công cụ quản lý của nhà nước về môi trường
chủ yếu bao gồm công cụ pháp lý, công cụ kinh tế, cơng cụ khoa – giáo; thì việc
áp dụng cơng cụ kinh tế đóng vai trị rất quan trọng. Khơng giống như các cơng
cụ khác mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc, cơng cụ kinh tế mang tính mềm
dẻo, linh hoạt, khiến cho người gây ô nhiễm và người hưởng thụ mơi trường có
các hành vi xử sự có lợi cho môi trường. Việc sử dụng các công cụ kinh tế còn

2



khuyến khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật cơng nghệ có lợi cho mơi
trường, duy trì tốt giá trị môi trường của quốc gia. Do vậy, áp dụng công cụ kinh
tế trong quản lý môi trường là cách tiếp cận đúng đắn nhằm hạn chế ơ nhiễm và
suy thối môi trường tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, việc áp dụng cơng cụ kinh tế đã và đang được Chính phủ quan
tâm. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng chưa được như mong đợi, việc triển khai cịn
gặp nhiều khó khăn do chưa có nghiên cứu đầy đủ về các cơng cụ kinh tế trước
khi ban hành. Không chỉ vậy, năng lực nghiên cứu và thực thi các cơng cụ kinh
tế cịn nhiều hạn chế, một số cơng cụ kinh tế cịn chưa áp dụng.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là phải hồn thiện các cơng cụ kinh tế trong quản lý
mơi trường. Để phát huy vai trị của các cơng cụ kinh tế thì phải làm rõ thực
trạng, việc áp dụng các công cụ kinh tế trong thời gian qua ở Việt Nam, chỉ ra
nguyên nhân, hạn chế của các cơng cụ kinh tế từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
hồn thiện hơn các cơng cụ kinh tế, đem lại hiệu quả cao trong việc quản lý môi
trường.
II, LÝ LUẬN VỀ CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MƠI
TRƯỜNG
1. Cơng cụ kinh tế
Cơng cụ kinh tế là những cơng cụ nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong
hoạt động của cá nhân và tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động ảnh hưởng đến
hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường.
Các công cụ kinh tế được sử dụng là nhằm tác động tới các chi phí và lợi ích
trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức, cá nhân nhằm điều chỉnh
lợi ích kinh tế của các đối tượng có liên quan, đảm bảo giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Việc sử dụng rộng rãi các công cụ kinh tế không chỉ hạn chế tối đa các hoạt
động gây bất lợi cho môi trường sống, mà cịn khuyến khích q trình đổi mới
3



trang thiết bị kỹ thuật, đưa các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đưa công nghệ
sạch vào sản xuất. Từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư, tăng
hiệu quả các hoạt động khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ mơi trường; đồng thời khích lệ ý thức tiết kiệm trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh.
2. Một số công cụ kinh tế được sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ và quản
lý môi trường
2.1 Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là loại thuế đánh vào các hoạt động sản xuất kinh doanh
trong lĩnh vực khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Mục đích chủ yếu của thuế tài nguyên là:
- Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong việc sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
- Hạn chế tổn thất, sự lãng phí các nguồn tài nguyên trong quá trình khai
thác và sử dụng chúng.
- Tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thực hiện việc điều hịa lợi ích
giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân; giữa các tổ chức và bộ phận dân
cư trong lĩnh vực khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và
các thành phần khác của môi trường.
Ý nghĩa của thuế tài nguyên:
- Là khoản chi phí thể hiện trách nhiệm tài chính của các đối tượng khai
thác, sử dụng tài nguyên đối với chủ sở hữu.
- Khuyến khích và buộc các đối tượng khai thác, sử dụng tài nguyên phải
trân trọng vai trò và giá trị của tài nguyên đối với quá trình phát triển.
- Là khoản thu quan trọng của ngân sách nhà nước.

4



Thuế tài nguyên bao gồm một số sắc thuế chủ yếu như: Thuế sử dụng đất, thuế
sử dụng nước, thuế khai thác rừng, thuế tiêu thụ năng lượng. thuế khai thác tài
ngun khống sản…
Thuế tài ngun có nhiều loại khác nhau, đối tượng để tính thuế cũng rất đa
dạng, phức tạo do sự phân bố của các tài nguyên thiên nhiên trên các địa bàn có
đặc điểm rất khác nhau. Vì vậy, phải căn cứ vào từng loại tài nguyên cụ thể,
từng địa bàn cụ thể, từng thời kì cụ thể để xác định mức thuế thích hợp. Việc xác
định thuế tài nguyên phải tuân thủ theo nguyên tắc:
- Hoạt động càng gây nhiều tổn thất về tài nguyên, gây ơ nhiễm và suy
thối mơi trường càng nghiêm trọng thì càng phải chịu thuế cao.
- Thuế tài nguyên phải khuyến khích được các doanh nghiệp đầu tư trang
thiết bị kỹ thuật hiện đại, đổi mới công nghệ sản xuất và nâng cao năng
lực quản lý nhằm giảm tổn thất tài nguyên.
2.2 Thuế ô nhiễm môi trường
Thuế ô nhiễm môi trường là cơng cụ kinh tế có tác dụng hạn chế tối đa các
tác động gây ô nhiễm môi trường, nhằm đưa chi phí mơi trường vào giá thành
sản phẩm theo nguyên tắc: “người gây ô nhiễm phải trả tiền”
Thuế ô nhiễm mơi trường nhằm hai mục đích chủ yếu: Khuyến khích người
gây ơ nhiễm phải tích cực tìm kiếm các giải pháp nhằm giảm thiểu lượng các
chất thải gây ô nhiễm môi trường, đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước. Sử dụng cơng cụ thuế này có rất nhiều ưu việt trong lĩnh vực bảo vệ và
quản lý môi trường như: Tăng hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất thơng
qua tiết kiệm các chi phí; Khuyến khích q trình đổi mới tổ chức và quản lý
doanh nghiệp.
Các nguyên tắc đánh thuế ô nhiễm môi trường:
- Hướng vào mục tiêu phát triển bền vững và chính sách, kế hoạch môi
trường cụ thể của quốc gia.
5



- Người gây ô nhiễm phải trả tiền.
- Mức thuế và biểu thuế phải căn cứ vào các tiêu chuẩn mơi trường của
quốc gia và các thơng lệ quốc tế.
Hình thức đánh thuế ô nhiễm môi trường:
- Thuế đánh vào nguồn gây ô nhiễm: Đánh vào các chất thải gây ô nhiễm
môi trường; được xác định dựa trên chi phí ngoại ứng.
- Thuế đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm: được áp dụng với các sản phẩm
gây tác hại tới môi trường khi chúng được sử dụng trong sản xuất, tiêu
dùng hay loại bỏ chúng. Tính thuế căn cứ vào khối lượng sản phẩm từng
loại được tiêu thụ; đôi khi tính dưới dạng phí.
2.3 Giấy phép (quota) phát thải
Giấy phép (quota) chất thải là loại giấy phép do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp, cho phép doanh nghiệp được thải một lượng chất thải nhất định
trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là công cụ quan trọng để các cơ
quan quản lý môi trường khống chế lượng chất thải vào môi trường; đồng thời
huy động nguồn lực tài chính để thực hiện các kế hoạch mơi trường.
Thường được áp dụng cho nguồn tài ngun mơi trường khó quy định quyền
sở hữu dẫn đến việc bị sử dụng bừa bãi (khơng khí, đại dương,…). Trong quản
lý mơi trường Nhà nước sử dụng công cụ cấp giấy phép xả thải thích hợp với
một số điều kiện nhất định sau:
- Chất ô nhiễm cần kiểm soát được thải ra từ nhiều nguồn khác nhau nhưng
gây tác động tới môi trường tương tự nhau.
- Có sự chênh lệch lớn trong chi phí giảm thải của các doanh nghiệp do
nhiều yếu tố (công nghệ, tuổi thọ máy móc thiết bị, quản lý..)
- Số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường với tư cách là người mua và
người bán giấy phép phải tương đối lớn để tạo được một thị trường hoạt
động riêng.
6



2.4 Đặt cọc và hoàn trả.
Đặt cọc và hoàn trả là một hình thức đặc biệt của thỏa thuận về ô nhiễm môi
trường. Nguyên tắc áp dụng: Quy định các đối tượng tiêu dùng các sản phẩm có
khả năng gây ô nhiễm môi trường phải trả thêm một khoản tiền đặt cọc khi mua
hàng nhằm cam kết sau khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm hoặc phần còn lại của
sản phẩm trả lại cho đơn vị thu gom phế thải hoặc địa điểm tái chế đã quy định.
Nếu thực hiện đúng sẽ được hồn lại tiền. Nếu vi phạm thì số tiền đặt cọc được
xung vào quỹ bảo vệ môi trường.
Mục đích của hệ thống đặt cọc và hồn trả thu gom những thứ mà người tiêu
thụ đã dùng vào một trung tâm để tái chế hoặc tái sử dụng một cách an tồn đối
với mơi trường.
Phạm vi Nhà nước sử dụng các hệ thống đặt cọc – hoàn trả bao gồm:
- Các loại hình doanh nghiệp có các sản phẩm có thể gây ơ nhiễm mơi
trường khi sử dụng, song có thể xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng.
- Các loại hình doanh nghiệp có các sản phẩm làm tăng lượng chất thải, cần
các bãi thải quy mô lớn và tốn nhiều chi phí tiêu hủy.
- Các loại hình doanh nghiệp có các sản phẩm chứa chất độc, gây khó khăn
đặc biệt cho việc xử lý; nếu tiêu hủy không đúng cách sẽ gây nguy cơ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe của người dân trong khu
vực.
2.5 Ký quỹ môi trường
Ký quỹ môi trường là công cụ cần được sử dụng trong quản lý môi trường
đối với các hoạt động kinh tế có tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm hay gây tổn thất
cho môi trường.
Nguyên tắc áp dụng:
- Yêu cầu doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trước khi thực hiện 1
hoạt động kinh tế phải ký gửi 1 khoản tiền (hoặc kim loại quý, đá quý,…)

7



tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng nhằm cam kết sẽ thực hiện các biện
pháp để hạn chế ô nhiễm, suy thối mơi trường.
- Số tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc bằng kinh phí cần thiết để khắc phục ô
nhiễm môi trường nếu doanh nghiệp gây ô nhiễm hoặc suy thối mơi
trường.
Mục đích chính của ký quỹ là làm cho người có khả năng gây ơ nhiễm, suy
thối môi trường luôn nhận thức được trách nhiệm của họ. Từ đó tìm ra các biện
pháp thích hợp ngăn ngừa ơ nhiễm, suy thối mơi trường.
2.6 Trợ cấp tài chính cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
bảo vệ mơi trường.
Mục tiêu của trợ cấp tài chính cho các hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường là duy trì và từng bước mở rộng quy mơ các doanh nghiệp này. Trợ cấp
tài chính cho các hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải tương
xứng với các lợi ích tăng thêm về mơi trường do tác động ngoại ứng tích cực tới
mơi trường mà doanh nghiệp đó tạo ra.
Hỗ trợ tài chính dưới hình thức các điều khoản ưu đãi từ quỹ mơi trường.
Thơng thường, đó là các khoản trợ cấp khơng hồn lại; các khoản vay vốn dài
hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất hiện hành trên thị trường để khuyến khích các
dự án đầu tư bảo vệ môi trường; hỗ trợ các dự án nghiên cứu triển khai các cơng
nghệ sản xuất có lợi cho môi trường hoặc các công nghệ xử lý ô nhiễm; đào tạo
và truyền thông môi trường; các dự án kiểm sốt và xử lý ơ nhiễm của các doanh
nghiệp.
2.7 Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái là một danh hiệu của Nhà nước cấp cho các sản phẩm không
gây ra ô nhiễm mơi trường trong q trình sản xuất ra sản phẩm hoặc q trình
sử dụng các sản phẩm đó.
Sản phẩm được dán nhãn sinh thái có uy tín cao, có sức cạnh tranh cao.
Nhãn sinh thái thường được xem xét và dán cho:


8


- Các sản phẩm tái chế từ phế thải.
- Các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm có tác động xấu đến mơi trường.
- Các sản phẩm có tác động tích cực tới mơi trường.
2.8 Quỹ mơi trường
Quỹ mơi trường là một loại quỹ được hình thành để nhận tài trợ vốn từ các
nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá trình thực
hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường.
Đây là một công cụ quản lý mơi trường có tính mở cao, nhằm huy động và tận
dụng mọi nguồn lực của mọi đối tượng muốn tham gia, đóng góp nhân tài, vật
lực cho sự nghiệp quản lý môi trường. Các nguồn thu chủ yếu của quỹ mơi
trường bao gồm:
- Phí, lệ phí mơi trường
- Đóng góp tự nguyện của cá nhân, doanh nghiệp.
- Tài trợ bằng tiền, hiện vật của chính quyền địa phương, ngành, tổ chức xã
hội trong nước và Chính phủ.
- Đóng góp của các tổ chức, các nhà tài trợ quốc tế.
- Tiền lãi và các khoản lợi thu được từ hoạt động của quỹ
- Tiền xử phạt hành chính do vi phạm quy định bảo vệ môi trường
- Tiền thu được từ các hoạt động văn hóa, thể thao, từ thiện, xố số, phát
hành trái phiếu…cho sự nghiệp bảo vệ môi trường.
III, THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN
LÝ MƠI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Tình hình của Việt Nam hiện nay
Sau 35 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu hết sức to lớn trên mọi lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; trong đó kinh tế
tăng trưởng liên tục, trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh;
đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao; y tế

9


và chất lượng chăm sóc sức khỏe được tăng cường; quốc phòng, an ninh được
củng cố và ổn định; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và
hiệu quả,... Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã bộc lộ nhiều bất
cập và tạo ra nhiều áp lực lớn đối với môi trường sinh thái. Trong những năm
qua, Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thông qua việc ký kết
và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do. Vì vậy, việc sử dụng ở mức độ
tối đa các nguồn tài ngun là khó tránh khỏi; ngồi ra, trình độ cơng nghệ trong
nước mặc dù có tiến bộ nhưng nhìn chung cịn khá lạc hậu, khơng thể ngay lập
tức hiện đại hóa hồn tồn bằng những cơng nghệ tiên tiến và ít ảnh hưởng đến
mơi trường. Tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp, ngày
càng nghiêm trọng với nhiều điểm nóng, chất lượng mơi trường nhiều nơi suy
giảm mạnh. Chính vì vậy, trong q trình thực hiện cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, hướng tới mục tiêu chung là phát triển bền vững, phải thực hiện
mục tiêu về môi trường, Việt Nam phải tìm kiếm các biện pháp cũng như áp
dụng các công cụ kinh tế là rất quan trong. Trong thời gian qua, việc áp dụng
các công cụ kinh tế đã đạt được những thành quả nhất định nhằm kiểm soát ơ
nhiễm mơi trường tuy nhiên bên cạnh đó cịn một số hạn chế còn tồn đọng mang
lại hiệu quả chưa cao.
2. Đánh giá kết quả đạt được
Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm từ nhiều quốc gia, Việt Nam đã và đang áp
dụng cơng cụ kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau. Việc thực hiện các công
cụ kinh tế đã góp phần đa dạng hóa các biện pháp bảo vệ môi trường của Việt
Nam, giúp Việt Nam thực hiện tốt hơn các cam kết quốc tế về bảo vệ môi
trường, đồng thời mang lại những giá trị nhất định. Trong đó, thuế bảo vệ mơi
trường góp phần định hướng hành vi tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với mơi
trường và tăng thu cho ngân sách nhà nước; phí bảo vệ môi trường giúp bổ sung


10


nguồn tài chính để chi trả cho các hoạt động bảo vệ môi trường; quỹ môi trường
đã hỗ trợ tài chính cho nhiều chủ thể thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường.
Về thuế tài nguyên, hiện nay, thực hiện theo Luật Thuế tài nguyên có hiệu lực
từ ngày 01/7/2010 do Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 6 thơng qua. Chính sách
thuế tài ngun nói chung và việc quy định mức thuế suất thuế tài nguyên nói
riêng là một trong những công cụ cho thấy được tầm quan trọng của tài nguyên
thiên nhiên đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và phát triển bền vững nói
chung. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, về cơ bản các quy định về mức thuế
suất thuế tài nguyên đã đạt được mục tiêu đề ra. Đó là: khắc phục những tồn tại,
hạn chế về mức thuế suất thuế tài ngun trong q trình thực hiện biểu thuế
trước đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với tài nguyên nói
chung và bảo vệ nguồn tài nguyên quốc gia nói riêng; đảm bảo hài hịa lợi ích
của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân nơi có khống sản được khai thác;
đảm bảo đơn giản, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan
Thuế. Hiện nay, Việt Nam đang sử dụng phương pháp thu thuế tài nguyên dựa
trên giá trị tài nguyên, là phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ ở các nước
đang phát triển. Các chính sách thuế tài nguyên đã tạo nguồn thu góp phần đáng
kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước.

Bảng 1: Mức thuế áp dụng đối với từng loại tài nguyên thiên nhiên
11


Luật thuế bảo vệ mơi trường được Quốc hội khóa XII thơng qua và ban hành
ngày 15/11/2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012. Thuế bảo vệ môi
trường góp phần nâng cao trách nhiệm và nhận thức của xã hội đối với mơi
trường; góp phần khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với mơi

trường; qua đó, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát
triển kinh tế đi liền giảm ơ nhiễm mơi trường. Việt Nam đã và đang tích cực hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực môi trường bằng việc tham gia vào nhiều cam kết
quốc tế về bảo vệ mơi trường. Chính sách thuế bảo vệ mơi trường được ban
hành đã thể hiện nỗ lực mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện
cam kết quốc tế trong vấn đề bảo vệ mơi trường. Chính sách thuế cịn góp phần
tăng thu ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất
nước, trong đó có nhiệm vụ chi cho bảo vệ môi trường.

Bảng 2: Mức thuế áp dụng đối với từng nhóm hàng
Thống kê cho thấy, số thu thuế bảo vệ môi trường năm 2015 là khoảng 27.020
tỷ đồng; năm 2016 là khoảng 44.323 tỷ đồng; năm 2017 là khoảng 44.825 tỷ
đồng; năm 2018 là 48.650 tỷ đồng và năm 2019 là 68.926 tỷ đồng. Tỷ lệ thu
12


thuế bảo vệ môi trường so với tổng thu ngân sách nhà nước tăng ổn định (năm
2019 là 4,07%) (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Số thu thuế bảo vệ môi trường qua các năm
Theo tổng hợp của Viện Chiến lược, Chính sách Tài ngun và mơi trường,
cơng cụ kinh tế cho bảo vệ môi trường đã được áp dụng trong một số lĩnh vực ở
Việt Nam như trong chi trả dịch vụ môi trường. Đến ngày 31/12/2018, cả nước
đã thu được 2937,9 tỷ đồng tiền dịch vụ môi trường rừng. Ở nước ta, việc áp
dụng phí bảo vệ mơi trường còn hết sức mới mẻ, tuy nhiên chúng ta đã có cơ sở
pháp lý để thực hiện phí bảo vệ mơi trường. Theo thống kê, số phí thu từ nước
thải năm 2017 là hơn 2100 tỷ đồng, thu phí bảo vệ mơi trường đối với khai thác
khống sản năm 2017 là hơn 2452 tỷ đồng.
Về ký quỹ môi trường, tại Điều 137 Luật bảo vệ môi trường 2020 quy định ký
quỹ bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm

phục hồi môi trường, xử lý rủi ro, nguy cơ ô nhiễm môi trường phát sinh từ các
hoạt động: khai thác khống sản, chơn lấp chất thải, nhập khẩu phế liệu từ nước
ngoài làm nguyên liệu sản xuất. Những quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật đã chỉ rõ những nội dung chủ yếu của pháp luật về ký quỹ cải tạo,
phục hồi môi trường, bao gồm: đối tượng phải ký quỹ cải tạo, phục hồi mơi
trường; trình tự, thủ tục ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường; số tiền phải ký quỹ
13


cải tạo, phục hồi môi trường; cơ quan quản lý nhà nước về ký quỹ cải tạo, phục
hồi môi trường. Đây là cơ sở quan trọng để các chủ thể thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình trong ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường.
Về Quỹ bảo vệ mơi trường, đến nay, nước ta có 41 tổ chức Quỹ bảo vệ mơi
trường, trong đó, có 1 Quỹ bảo vệ môi trường Trung ương (Quỹ bảo vệ môi
trường Việt Nam), 39 Quỹ bảo vệ môi trường địa phương và 1 Quỹ bảo vệ môi
trường ngành Than. Thực hiện theo tiêu chí "hoạt động khơng vì mục đích lợi
nhuận", các nguồn lực của Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam đều hướng tới mục
tiêu cải thiện môi trường, nhằm góp phần tạo nên một mơi trường xanh - sạch đẹp và phát triển bền vững đất nước. Các hoạt động nghiệp vụ chính như cho
vay, xử lý nợ, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, tài trợ, ký quỹ phục hồi môi trường, hỗ
trợ hoạt động theo Cơ chế phát triển sạch, hợp tác quốc tế và một số nhiệm vụ
do Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường giao đã được tập trung thực hiện đảm
bảo hoàn thành theo kế hoạch. Cơng tác cho vay đóng vai trò hết sức quan trọng
và xuyên suốt trong hoạt động nghiệp vụ của Quỹ. Năm 2020, Quỹ đã thực hiện
cho vay 338.519 triệu đồng, đạt 98% chỉ tiêu kế hoạch; thu hồi vốn cho vay đạt
224.946 triệu đồng, đạt 104% chỉ tiêu kế hoạch; thu lãi cho vay đạt 101% chỉ
tiêu kế hoạch, tạo tiền đề để Quỹ thực hiện tốt các nhiệm vụ trong năm 2021 và
các năm tiếp theo. Trong đó, nợ xấu của Quỹ được kiểm sốt, an toàn. Tại thời
điểm 31/12/2020, tỷ lệ nợ xấu là 2,49% , thấp hơn cùng kỳ năm trước (2,92%).
đảm bảo mức dưới 3,0% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Công tác ký quỹ phục hồi trong khai thác khoáng sản đạt 24.785 triệu đồng, đạt

124% kế hoạch năm. Quỹ bảo vệ mơi trường đã góp phần tích cực vào q trình
đồng bộ hóa các cơng cụ tài chính, chính sách của Nhà nước, hiện thực hóa các
cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường.

14


Về nhãn sinh thái, ngày 05 tháng 3 năm 2009 Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường đã ra Quyết định số 253/QĐ-BTNMT phê duyệt Chương trình cấp
nhãn sinh thái. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, sản phẩm được cấp nhãn
sinh thái của tổ chức được Nhà nước công nhận là sản phẩm thân thiện với môi
trường. Cơ sở sản xuất - kinh doanh sản phẩm thân thiện với môi trường sẽ được
hưởng những ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, vốn; miễn, giảm thuế, phí về bảo vệ mơi
trường. Vì vậy, khi sản phẩm của cơ sở được gắn Nhãn xanh Việt Nam cũng có
nghĩa là cơ sở sẽ được hưởng những ưu đãi theo quy định của pháp luật. Ở nước
ta, cơ hội phát triển cho các hàng hóa được dán nhãn sinh thái là rất lớn tuy
nhiên đang còn mới mẻ. Thực hiện Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 18/1/2021 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường khơng khí,
Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng sẽ xây dựng, ban hành tiêu chí và chứng
nhận nhãn sinh thái đối với các sản phẩm, phương tiện và dịch vụ giao thông
vận tải thân thiện mơi trường; rà sốt quy định pháp luật về bảo vệ mơi trường
khơng khí, hồn thiện theo thẩm quyền hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hồn thiện các quy định, chính sách pháp luật về kiểm sốt ơ
nhiễm khơng khí; phối hợp với Bộ Tài chính rà sốt, hướng dẫn thực hiện chính
sách ưu đãi, hỗ trợ về bảo vệ môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi
trường năm 2020.

3. Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc sử dụng các công cụ kinh tế trong

quản lý mơi trường ở Việt Nam hiện nay cịn nhiều hạn chế. Cụ thể:
15


+ Một số quy định của Luật thuế bảo vệ mơi trường đối với các hàng hóa
thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường chưa đảm bảo phù hợp với mức độ
gây ô nhiễm môi trường tương ứng với các loại hàng hóa đó; một số sản phẩm
như thuốc lá, chất rửa trong công nghiệp chưa được đưa vào diện điều chỉnh của
Luật bảo vệ mơi trường. Vì thế, thuế bảo vệ môi trường tuy là thuế gián thu,
người nộp thuế là chính người tiêu dùng nhưng họ lại ít quan tâm đến. Việc áp
dụng thuế bảo vệ môi trường ở nước ta chưa được mạnh mẽ, quyết liệt, chưa hạn
chế được ý thức của người tiêu dùng về việc sử dụng các sản phẩm gây ô nhiễm
môi trường. Không chỉ thế, quy định về mức thuế bảo vệ môi trường là chưa
hợp lý. Mức áp dụng mức thuế cho một loại hàng hóa chênh lệch nhiều giữa
mức tối thiểu và mức tối đa dẫn đến việc các doanh nghiệp cùng sản xuất một
loại hàng hóa tại các địa phương khác nhau áp dụng mức thuế khơng đồng nhất.
Ví dụ, đối với sản phẩm là túi ni lông, mức thuế được tính theo điều 8 Luật thuế
bảo vệ mơi trường là từ 30000đ/kg đến 50000đ/kg; nếu như không xác định rõ
được loại túi ni lông nào nên đánh mức thuế phù hợp thì dẫn đến khả năng áp
dụng một cách tùy tiện gây ra tiêu cực trong việc tính thuế. Vì vậy, vấn đề cịn
bất cập là hạn chế trong việc thi hành đánh thuế do đội ngũ giám định thiếu
chuyên môn, xác định đối tượng chịu thuế chưa được thực hiện tốt.
+ Về thuế tài nguyên, việc quy định thuế tài nguyên tính trên sản lượng thực tế
khai thác do doanh nghiệp tự báo chưa khuyến khích tận dụng hết tài nguyên;
nhiều doanh nghiệp khi khai thác chỉ sử dụng những tài nguyên có giá trị cao dễ
khai thác mang lại lợi nhuận cao, những tài nguyên có giá trị thấp hơn không
được khai thác triệt để dẫn tới tình trạng lãng phí nguồn tài ngun. Việc quy
định về giá tính tài nguyên hiện hành chưa khuyến khích chế biến sâu tài nguyên
trước khi tiêu thụ hoặc xuất khẩu tài nguyên. Thuế suất cũng chưa được cân đối
khi nhóm tài ngun khơng có khả năng tái tạo có mức trần thuế suất thấp hơn

nhóm tài nguyên có khả năng tái tạo. Các chính sách thuế tài nguyên hiện nay

16


đang gây ra áp lực lớn đối với các doanh nghiệp muốn hoạt động ổn định, tạo ra
gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực này.
+ Vẫn cịn tình trạng nhiều cá nhân, doanh nghiệp, cơ quan tổ chức cố tinh
trốn thuế, khai sai thuế, tỉ lệ đóng góp phí mơi trường cịn thấp. Ví dụ gần đây,
tỉnh Quảng Nam đã có quyết định về việc xử lý kết luận thanh tra tại một số nhà
máy thủy điện trên địa bàn tỉnh do chưa kê khai nộp thuế tài ngun và phí bảo
vệ mơi trường, số tiền sai phạm hơn 4,1 tỷ đồng. Ở Đắk Nông, công ty TNHH
Thạch Lợi khai thác, chế biến đá xây dựng đã bị thu hồi giấy phép khai thác
khoáng sản, trốn thuế gây thiệt hai cho Ngân sách nhà nước gần 475 triệu đồng
bao gồm thuế tài nguyên, phí bảo vệ mơi trường, thuế giá trị gia tăng.
+ Trong Luật bảo vệ mơi trường có quy định: “Tổ chức, cá nhân xả thải ra mơi
trường, hoặc có hoạt động làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường phải
nộp phí bảo vệ mơi trường”. Nhưng trên thực tế, việc áp dụng phí bảo vệ mơi
trường lại khơng diễn ra như vậy. Đơn cử như là tại xã Văn Mơn, huyện n
Phong, tỉnh Bắc Ninh, khói thải từ các lị nấu nhơm phủ kín gây ra tình trạng ô
nhiễm, cuộc sống của người dân lân cận trong tình trạng ngột ngạt; vậy mà rất
nhiều năm qua các hộ làm nghề này lại khơng phải đóng bất kì phí bảo vệ môi
trường mà đáng lẽ ở đây phải thu phí bảo vệ mơi trường đối với nước thải, đối
với chất thải rắn. Ở tỉnh Khánh Hịa, cơng tác thu phí bảo vệ mơi trường cịn gặp
nhiều khó khăn; số phí lĩnh vực tài ngun và mơi trường thu được năm 2019
giảm so với năm trước 8,6%. Hơn nữa, việc quy định mức phí thu là chưa hợp
lý: phí bảo vệ mơi trường được tính là theo người/tháng. Từ quy định đó có thể
thấy, các hộ dân chỉ cần đóng đủ phí theo một định mức nhất định, khơng phụ
thuộc vào việc hộ gia đình đó xả thải nhiều hay ít, thành phần, chủng loại.
+ Hiện nay, nhiều chủ dự án khai thác khống sản khơng nộp tiền ký quỹ bảo

vệ mơi trường nhưng cơ quan nhà nước có thẩm quyền lại khơng xử lý. Ví dụ ở
tỉnh Bắc Kạn các dự án khai thác khoảng sản lớn do có nhiều mỏ khoáng sản,

17


các dự án này phải thuộc trường hợp ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường nhưng
theo kiểm tra của ngành Tài nguyên và môi trường Bắc Kạn cho thấy đa số các
cơ sở khai thác khoáng sản chưa nộp tiền ký quỹ theo đúng thời hạn như quy
định. Không chỉ vậy, theo quy định của pháp luật, đối với những trường hợp chủ
dự án khai thác khống sản khơng thực hiện đủ nghĩa vụ cải tạo, phục hồi môi
trường sau khi khai thác thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể dùng số tiền
mà chủ dự án ký quỹ để thực hiện việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nếu một
dự án tồn tại lâu có thể lên đến 10 năm, 20 năm, số tiền ký quỹ trước đây thường
là ít, khi cơ quan nhà nước sử dụng số tiền đó để cải tạo phục hồi mơi trường thì
khơng đủ.
+ Chương trình nhãn sinh thái ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi triển khai.
Tỉ lệ chi cho môi trường trong các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam
đang còn thấp, chủ yếu các doanh nghiệp ở Việt Nam là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, họ phải bỏ ra tương ứng 20% tổng chi phí sản phẩm dành cho hàng hóa
để được dán nhãn sinh thái nên gặp nhiều khó khăn về tài chính, gây cản trở cho
chương trình nhãn sinh thái. Nhiều doanh nghiệp cịn chưa chú trọng đầu tư áp
dụng công nghệ khoa học để sản xuất các sản phẩm đạt yêu cầu nhãn sinh thái.
Không chỉ riêng đối với doanh nghiệp, người tiêu dùng còn chưa mấy quan tâm
đến nhãn sinh thái, nhận thức của người tiêu dùng cịn hạn chế; khơng hiểu hết
về lợi ích của nhãn sinh thái đối với sản phẩm.
+ Hiện nay ở Việt Nam, cịn 1 số cơng cụ kinh tế còn chưa được áp dụng hoặc
áp dụng ít như: giấy phép (quota) phát thải, đặt cọc – hồn trả,… Các quy định
cũng như sử dụng các cơng cụ này còn thiếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam
do vậy chưa thể khai thác được những ưu điểm mà các công cụ kinh tế này

mang lại cho đất nước.
4. Nguyên nhân của các hạn chế

18


Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế trong việc sử dụng các công cụ kinh tế là do
các quy định pháp luật về cơng cụ kinh tế cịn nhiều thiếu sót, thiếu rõ ràng, các
quy định về phí khó triển khai, mức phí thu khơng hợp lệ; thuế mơi trường hay
các hình thức ký quỹ phục hồi mơi trường chưa được thể hiện đầy đủ, chưa sát
với thực tiễn để huy động đủ nguồn lực để đầu tư bảo vệ môi trường. Không chỉ
thế, trong quy định phân bổ và sử dụng nguồn thu từ thuế, phí và các nguồn tài
chính khác cho bảo vệ mơi trường vẫn cịn nhiều hạn chế.
Ý thức của các cá nhân, hộ gia đình đang còn kém, chưa nhận thức được sự
quan trọng của việc bảo vệ và giữ gìn mơi trường. Các doanh nghiệp, tổ chức
chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật về bảo vệ mơi trường, vẫn cịn xả
thải gây ô nhiễm môi trường, có các hành vi trốn thuế, khai sai thuế,… Công tác
kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng còn yếu kém, gây thất thu cho ngân
sách nhà nước.
IV, GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CÁC CƠNG CỤ KINH TẾ TRONG
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Bối cảnh, xu hướng
Dựa vào tình hình hiện nay của Việt Nam, để phát triển kinh tế - xã hội việc áp
dụng và hồn thiện các cơng cụ kinh tế là rất cần thiết. Trong bối cảnh để phát
triển bền vững thì phải đảm bảo cả về tăng trưởng kinh tế lẫn bảo vệ môi trường;
theo nguyên tắc thị trường cho bảo vệ mơi trường, Việt Nam cần có các biện
pháp hướng đến việc hồn thiện hơn các cơng cụ kinh tế, đề xuất các giải pháp
để phát huy hết vai trị của các cơng cụ kinh tế. Nhà nước phải định hướng xây
dựng và phát triển các công cụ kinh tế về bảo vệ môi trường, phải căn cứ vào
thứ tự ưu tiên các vấn đề môi trường cần giải quyết và chiến lược bảo vệ môi

trường Việt Nam; cần phải xây dựng một hệ thống các công cụ kinh tế ngày
càng hoàn chỉnh cho việc bảo vệ mơi trường phù hợp với những đặc điểm và
tính chất của cơ chế thị trường.
19


2. Giải pháp
Muốn áp dụng các công cụ kinh tế một cách hiệu quả để đáp ứng xu hướng
của thị trường thì phải địi hỏi cần có một hệ thống pháp luật đồng bộ đặc biệt là
pháp luật về môi trường, quy định cụ thể các trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa
vụ của các cá nhân, tổ chức có những hành vi tác động tiêu cực tới môi trường
nhằm nâng cao ý thức của các nhân, tổ chức về vấn đề bảo vệ mơi trường. Các
cơ quan có thẩm quyền về quản lý môi trường phải quản lý chặt chẽ các số liệu,
kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường một cách triệt để. Đồng thời cần có những chính
sách cụ thể trong việc thưởng, phạt về môi trường, đặc biệt là các vấn đề về bồi
thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, vấn đề về quỹ môi trường cần phải đầu
tư thích đáng, quản lý thu chi đúng quy định và phù hợp sao cho có hiệu quả,
Nhà nước phải chi ngân sách nhiều hơn nữa cho công tác quản lý và bảo vệ mơi
trường. Cụ thể như sau:
+ Trong chính sách thuế bảo vệ môi trường, phải đảm bảo nguyên tắc “người
gây ô nhiễm phải trả” và nguyên tắc “người được hưởng lợi phải trả”. Nhà nước
phải quy định mức thuế sao cho chủ thể nộp thuế thấy có lợi hơn khi thực hiện
các biện pháp bảo vệ môi trường. Do vậy, các nội dung hồn thiện chính sách
thuế bảo vệ mơi trường phải đảm bảo tính khả thi, rõ ràng, cân đối hợp lý, đơn
giản, dễ hiểu, dễ thực hiện để các chủ thể nộp thuế nhận thức và lựa chọn được
ưu đãi thuế khi sử dụng công nghệ sạch, sản phẩm thân thiện hơn với mơi
trường.
+ Theo đó, các luật thuế khi được ban hàng nên tạo ra một môi trường thuận
lợi cho quản lý thuế, như vậy thì nhiệm vụ quản lý hành chính để chống lại hành
vi gian lận, trốn thuế sẽ trở nên dễ dàng thuận lợi hơn. Phải nâng cao được ý

thức trách nhiệm của người cán bộ, để họ không thông đồng với người nộp thuế
nhằm gian lận, trốn lậu thuế, nâng cao khả năng điều tra, khám phá và xử lý
nghiêm các vi phạm pháp luật về thuế, vừa nhằm trừng trị mà còn để răn đe các
hành vi vi phạm.
20


+ Pháp luật về thuế cần phải được xem xét, điều chỉnh một cách định kỳ để
phản ánh kịp thời sự thay đổi của môi trường kinh tế theo từng giai đoạn khác
nhau. Như gần đây, dưới tác động của đại dịch COVID-19, Nghị định số
114/2020/NĐ-CP ngày 25/09/2020 của Chính phủ Việt Nam về việc giảm 30%
số thuế phải nộp của kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020 đối với
trường hợp doanh nghiệp có tổng doanh thu khơng quá 200 tỷ đồng là một sự
điều chỉnh nhanh chóng, kịp thời, phù hợp với thực hiện, nhằm góp phần khuyến
khích các doanh nghiệp thực hiện nộp thuế đúng quy định pháp luật.
+ Tăng cường giáo dục ý thức chấp hành pháp luật thuế cho người dân, cần
phải tăng cường thực hiện các chương trình giáo dục pháp luật, tuyên truyền
pháp luật về thuế cho người dân. Chương trình giáo dục, tuyên truyền cần phải
được thiết kế để tiếp cận với những người nộp thuế hiện tại và cả những người
sẽ đóng thuế trong tương lai: giáo dục cho những người nộp thuế hiện tại biết
được thủ tục tiến hành các hoạt động thuế như đăng ký mã số thuế, nộp hồ sơ
báo cáo thuế... để cả họ và cơ quan nhà nước thuận lợi hơn trong việc thực hiện
công việc; cũng như xây dựng một nền văn hóa thuế lành mạnh trong tương lai,
nâng cao ý thức của công dân trong việc thực hiện trách nhiệm của mình đối với
Nhà nước và cộng đồng. Việc giáo dục ý thức pháp luật về thuế cũng nên chú
trọng đến việc công khai bản án và hình phạt của những đối tượng vi phạm
nghiêm trọng thông qua các phương tiện truyền thông để tránh việc xây dựng
hình ảnh tiêu cực về các vấn đề trốn thuế, trái pháp luật.
+ Ban hành hệ thống văn bản pháp lý nhằm thống nhất mơ hình, tổ chức hoạt
động, cơ chế tài chính của Quỹ bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa

phương. Cần bổ sung thêm các quy định hướng dẫn về thời điểm và cách xác
định, tính tốn tiền lãi ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động
khai thác khoáng sản để các quỹ áp dụng được thuận tiện và chính xác. Thêm
nữa, cần ban hành cơ chế về tài chính thống nhất cho Quỹ bảo vệ mơi trường
các địa phương, thống nhất các khoản nghĩa vụ phải nộp và không phải nộp
21


ngân sách nhà nước, tránh tình trạng thực hiện khơng thống nhất giữa các địa
phương như hiện nay. Quỹ sẽ phải tiếp tục cải cách, đổi mới về phương thức
quản lý, điều hành để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, đáp ứng và đóng góp
nhiều hơn cho sự nghiệp bảo vệ môi trường; tăng cường hoạt động nghiệp vụ tài
trợ cho dự án đầu tư bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường các khu vực
trọng điểm. Bên cạnh đó, tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức trong và
ngoài nước nhằm vận động, thu hút nguồn vốn dành cho hoạt động bảo vệ môi
trường Việt Nam. Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức của Quỹ theo hướng
chuyên nghiệp, đa dạng hoạt động, chú trọng nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho
cán bộ, nhân viên nhằm phục vụ công tác quản lý điều hành hoạt động của Quỹ
ngày một hoàn thiện hơn.
+ Pháp luật cần có quy định về nộp bổ sung số tiền để đảm bảo nghĩa vụ cải
tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khống sản. Việc tính tốn số tiền phải
nộp bổ sung được tính theo sự trượt giá của đồng tiền VNĐ (đồng tiền ký quỹ).
Đồng thời, thời gian nộp bổ sung phải được tính trong một khoảng nhất định.
Thời gian đó có thể là 5 năm vì với khoảng thời gian này, người ta có thể đánh
giá được mức trượt giá của đồng tiền và chủ dự án không thấy phiền phức khi cứ
hàng năm phải thực hiện nghĩa vụ đóng bổ sung tiền ký quỹ bảo vệ môi trường.
Pháp luật cần quy định cụ thể cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trách nhiệm
thực hiện việc cải tạo, phục hồi môi trường nếu chủ dự án khai thác khống sản
khơng thực hiện. Theo đó, cơ quan phù hợp nhất là Sở Tài ngun và Mơi
trường. Bởi vì đây là cơ quan quản lý chuyên môn môi trường ở địa phương. Cơ

quan này sẽ hiểu rõ nhất về tình trạng mơi trường tại các khu vực khai thác
khống sản địa phương. Khơng chỉ vậy, cịn phải tăng cường đội ngũ cán bộ có
chun mơn nhằm quản lý nghĩa vụ bảo vệ mơi trường nói chung, ký quỹ bảo vệ
mơi trường nói riêng của những chủ dự án khai thác khống sản. Theo đó,
những cán bộ này phải có chun mơn trong lĩnh vực mơi trường, khống sản.
Để đảm bảo được điều đó phải thực hiện từ khâu tuyển dụng, tức là tuyển những

22


người được đào tạo các ngành về mơi trường, khống sản. Đội ngũ cán bộ này
làm việc trong các cơ quan chuyên môn về môi trường tại địa phương. Bên cạnh
đó, việc giao quyền, trách nhiệm cho họ về quản lý bảo vệ mơi trường trong hoạt
động khai thác khống sản cũng rất cần thiết giúp phát huy được năng lực, sở
trường bản thân. Ngoài ra, phải nâng cao hiệu quả thực thi của công cụ thường
xuyên thanh tra, kiểm tra hoạt động cải tạo, phục hồi môi trường của các dự án
khai thác khoáng sản. Việc thanh tra, kiểm tra sẽ giúp cơ quan nhà nước xác
định được chủ dự án đã thực hiện hay chưa và nếu thực hiện rồi thì thực hiện có
đúng nghĩa vụ cải tạo, phục hồi mơi trường sau khai thác khống sản của mình
khơng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra có thể được tiến hành đột xuất hoặc cũng
có thể được tiến hành theo kế hoạch đã báo trước. Nâng cao vai trò giám sát của
cộng đồng dân cư đối với thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường của các chủ dự
án khai thác khống sản. Theo đó, người dân cần được tuyên truyền để hiểu về
quyền và nghĩa vụ của mình trong giám sát, phát hiện, khởi kiện, tố cáo những
hành vi vi phạm pháp luật về ký quỹ bảo vệ mơi trường trong hoạt động khống
sản. Hoạt động tun tuyền, giáo dục đó giúp cho người dân hiểu và hành xử
tuân thủ các quy định của pháp luật.
+ Nhãn sinh thái đem lại nhiều lợi ích cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu
dùng nên trong thời gian tới để đẩy mạnh việc áp dụng, xây dựng các tiêu chí
cho các sản phẩm dán nhãn sinh thái cần có nguồn kinh phí ổn định để duy trì.

Đặc biệt, cần cung cấp đầy đủ thông tin, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khi
thực hiện thủ tục đăng ký dán nhãn sinh thái. Mặt khác, trong xu hướng tồn cầu
hóa, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh và mất thị
phần không chỉ trên thị trường quốc tế, mà sẽ phải cạnh tranh cả trên thị trường
trong nước, không bắt kịp sự thay đổi để đáp ứng các yêu cầu về luật định và
yêu cầu của thị trường về sản phẩm xanh, sạch. Do đó, Việt Nam cần có các
hoạt động thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp nhanh chóng hội nhập và nâng

23


cao ý thức của người tiêu dùng khi lựa chọn mua sản phẩm. Đồng thời các chính
sách và quy định của nhà nước rõ ràng và cụ thể hơn, nhằm tạo điều kiện để các
sản phẩm có dán nhãn sinh thái có chỗ đứng và phát triển.
+ Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp Bộ tài ngun và mơi trường tiến hành nghiên
cứu, đề xuất chính sách tài chính nhằm thúc đẩy, khuyến khích các hoạt động tái
chế chất thải và tái chế chất thải nhựa; ưu đãi, hỗ trợ đối với túi ni-lông thân
thiện môi trường, các sản phẩm nhựa tái chế và các vật liệu thân thiện với mơi
trường; nghiên cứu xây dựng tiêu chí ưu tiên đối với các sản phẩm tái chế, thân
thiện môi trường.
+ Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế để thực hiện những dự án có
liên quan đến cơng tác xây dựng và bảo vệ môi trường.
+ Bên cạnh đó, ngồi các cơng cụ kinh tế đã và đang được áp dụng, trong
tương lai Việt Nam có thể xây dựng và triển khai các công cụ kinh tế mới như
đặt cọc hồn trả, giấy phép phát thải có thể chuyển nhượng, tín dụng xanh, trái
phiếu xanh, thị trường các - bon trong nước,... Đối với giá dịch vụ thu gom, vận
chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt từ hộ gia đình, cá nhân theo nguyên tắc
dựa trên lượng chất thải đã được phân loại sẽ được Chính phủ thực hiện trong
luật chậm nhất trước ngày 31/12/2024 theo dự thảo đề ra. Để bảo đảm tính khái
quát, ổn định của Luật, ngoài quy định riêng về mỗi loại cơng cụ kinh tế cịn

phải có quy định chung, mang tính nguyên tắc, định hướng cho việc xây dựng,
thực hiện các cơng cụ kinh tế hiện có, cũng là cơ sở cho việc xây dựng các công
cụ kinh tế mới trong tương lai.
Kết luận:
Áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường là cách tiếp cận đúng đắn
nhằm hạn chế ơ nhiễm và suy thối mơi trường tại Việt Nam. Việc áp dụng các
24


công cụ kinh tế trong quản lý môi trường đã được Chính phủ quan tâm. Một số
cơng cụ kinh tế đã được triển khai áp dụng ở các quy mô khác nhau. Bước đầu,
các cơng cụ kinh tế đã có tác dụng tích cực giúp hạn chế ơ nhiễm, suy thối mơi
trường. Tuy nhiên, do chưa có nghiên cứu đầy đủ về các công cụ kinh tế trước
khi ban hành nên q trình triển khai các cơng cụ này cịn gặp nhiều khó khăn
và hiệu quả thực thi chưa cao. Ngồi ra, năng lực nghiên cứu và thực thi các
cơng cụ kinh tế cịn hạn chế, cịn một vài cơng cụ kinh tế chưa được áp dụng.
Một điểm cần lưu ý là để công cụ kinh tế phát huy tác dụng thì cần thực hiện tốt
cơng tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cũng như tuyên tuyền giáo dục nhằm
tạo động lực tuân thủ các qui định về mơi trường, trong đó có các quy định về
cơng cụ kinh tế. Để hoàn thiện hơn việc áp dụng các cơng cụ kinh tế trong quản
lý mơi trường, có một vài giải pháp và đề xuất được đưa ra, phù hợp với thực
tiễn và tình hình của Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chủ biên: TS. Nguyễn Đức Lợi, TS. Phạm Văn Nhật, 2013, Giáo trình
Kinh tế mơi trường, Nhà xuất bản Tài chính.
2. Quốc hội, Luật Bảo vệ môi trường 2020.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo kết quả hoạt động Quỹ Bảo vệ môi
trường Việt Nam năm 2020.
4. Bộ Tài chính, Luật Thuế tài nguyên 2010.
5. Quốc hội, Luật Thuế bảo vệ môi trường 2010.

6. Bộ Tài nguyên và Môi trường, ngày 05/03/2009, Quyết định về việc phê
duyệt chương trình cấp nhãn sinh thái.
7. Viện Chiến lược, Chính sách Tài ngun và Mơi trường.
8. Chỉ thị số 03/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 18/01/2021, về tăng
cường kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường khơng khí.

25


×