Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Khi xây dựng các mô hình chống rủi ro, yếu tố con người đã bị bỏ quên pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.57 KB, 7 trang )

Khi xây dựng các mô hình chống rủi ro,
yếu tố con người đã bị bỏ quên –phần1
Dường như sự xáo trộn kinh tế ngày nay là một bản cáo
trạng ngầm trong các lĩnh vực bí ẩn của các mánh khóe tài
chính đó là một sự pha trộn của toán học, thống kê và và
thuật toán máy tính.

Các chuyên gia tài chính đã sáng chế không chỉ các loại chứng
khoán cầm cố mới mẽ lạ lẫm đã được chứng minh là rất phức tạp
phiền hà, mà còn là các mô hình toán học về rủi ro cho rằng các
loại chứng khoán này là an toàn.

Và điều gì đã xảy ra ?

Theo các chuyên gia và các nhà kinh tế học, các mô hình này đã
thất bại trong việc đuổi kịp với sự phát triển bùng nổ của các loại
hình chứng khoán phức tạp, mạng lưới các rủi ro rắc rối khó hiểu
và các khía cạnh của nguy cơ tiềm tàng của nó.

Họ cho rằng sự thất bại lớn hơn chính là nhân tố con người trong
cách những con người này hiểu, áp dụng cũng như quản lý các
mô hình rủi ro.

Một vài nhà phân tích tài chính định lượng uy tín, được biết đến
như các công trình sư tài chính, đã bắt đầu chỉ ra các dấu hiệu
cảnh báo từ nhiều năm trước. Nhưng trong khi các thị trường tài
chính đang tăng vọt, các động cơ thúc đẩy trên Wall Street là
chạy đua theo lợi nhuận bằng cách mua bán càng nhiều loại
chứng khoán tinh vi càng tốt, chồng chất thêm các món nợ và đặt
cược ngày càng lớn.


Andew W. Lo, một nhà kinh tế học và là giáo sư môn tài chính
của Trường quản trị Sloan trực thuộc học viện kỹ thuật
Massachusetts (MIT) cho biết: “Sự cải tiến có thể trở thành một
trò chơi mạo hiểm, công nghệ đã đi trước khả năng sữ dụng
chúng một cách có trách nhiệm của chúng ta.”

Sự cải tiến ngoài tầm kiểm soát đó được phản ánh vào các loại
chứng khoán được dự định để phân tán rủi ro ra rộng hơn bằng
cách sữ dụng các công cụ tài chính gọi là chứng khoán phái sinh.

Ví dụ như là nghiệp vụ trao đổi chống vỡ nợ tín dụng (credit-
default swaps) ban đầu được tạo ra để đảm bảo cho các nhà đầu
tư trái phiếu của các công ty blue-chip (các công ty uy tín, lâu
năm và có lợi nhuận ổn định) tránh khỏi rủi ro về mất khả năng
trả nợ của các công ty này. Trong vài năm gần đây, các hợp đồng
trao đổi đã được sữ dụng rất nhiều để đảm bảo cho mọi loại công
cụ tài chính, bao gồm vô số các chứng khoán thế chấp dưới
chuẩn.

Những việc trao đổi này là hợp đồng giữa hai nhà đầu tư- mà tiêu
biểu là các ngân hàng, các quỹ đầu cơ và các tổ chức khác và nó
không được mua bán trên các sở giao dịch. Giá trị thị trường của
thị trường trao đổi chống vỡ nợ tín dụng đã tăng nhanh chóng
mặt, đạt khoảng 55 ngàn tỷ USD.

Mặc dầu sự trao đổi chống vỡ nợ tín dụng ban đầu định phân tán
rủi ro, nhưng nó đã làm cuộc khủng hoảng tín dụng thêm trầm
trọng bởi vì thị trường không được điều hòa, bị che khuất và đầy
các rủi ro của các bên đối ứng (đó là các rủi ro này được tạo ra
do các ngân hàng hay các công ty không đủ khả năng thực hiện

các điều khoản thanh toán, và các giao dịch với các công ty này
sẽ phải gánh chịu nhiều thiệt hại)

Thị trường cho các các hợp đồng trao đổi chống vỡ nợ tín dụng
là trung tâm của sự đổ vỡ ngân hàng và giải cứu ở Wall Street,
và các công cụ tài chính này là hiện thân của mọi loại rủi ro mà
khó có thể tính toán bằng các công thức toán học.

Leslie Rahl, giám đốc công ty Capital Market Risk Advisor- một
công ty tư vấn quản lý rủi ro, tiết lộ rằng: “Sự phức tạp, sự minh
bạch, tính thanh khoản và đòn bẩy tài chính đã đóng một vài trò
cực kỳ lớn trong cuộc khủng hoảng này, và đó là những thứ nhìn
chung chưa được tính toán trong rủi ro định lượng”

Dường như toán học, thống kê và các mô hình thuật toán đã
thiếu sự lường trước về rủi ro cho vay của các khách hàng tín
dụng cá nhân. Trong vài năm gần đây, sự chứng khoán hóa thị
trường cầm cố, với các khoản vay được bán rẻ mạt và lẫn lộn
trong vô số các khoản chứng khoán cầm cố, đã thúc đẩy người
cho vay mượn đến các hệ thống bao tiêu mua cổ phiếu tự động
một cách nhanh chóng, mà hệ thống này nương tựa chủ yếu trên
các mô hình ghi nợ tín dụng được vi tính hóa thay cho sự quyết
định của nhân tố con người.

Do đó người cho vay mượn đã không có đủ động cơ dể dành
nhiều thời gian cho việc tìm hiểu cẩn thận khả năng hoàn trả của
những người vay mượn cá nhân. Raghuram G. Rajan, một giáo
sư tại Đại học Chicago cho rằng: “Nếu các động cơ và các hệ
thống thay đổi, những dữ liệu cứng có thể ít ý nghĩa hơn là nó đã
từng như vậy hay là những cái nào đó khác mà nó đã từng trước

kia. Nguy cơ ở đây là mô hình kiểu mẫu trở nên quá máy móc”

Mr. Rajan, nguyên là nhà kinh tế trưởng tại Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), đã chỉ ra trong một bài báo mà ông là đồng tác giả với Amit
Seru,một đồng nghiệp của ông tại đại học Chicago,có nhan đề
“Sự phá sản của các mô hình dự đoán thất bại”.

Bài báo này đã phân tích về các khoản cho vay dưới chuẩn được
phát hành từ 1997 đến 2006. Nghiên cứu của họ đã kết luận rằng
các phương pháp định lượng đã đánh giá thấp khả năng vỡ nợ
của những người vay dưới chuẩn mà được tờ báo gọi là “Sự phá
sản mang tính hệ thống của các mô hình vỡ nợ”

Một bài báo gần đây của 4 nhà kinh tế thuộc Cục dự trữ liên bang
Mỹ (Fed) - “Những ý nghĩa của cuộc khủng hoảng cho vay dưới
chuẩn”, đã tìm ra một nguyên nhân khác.


×