Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tư tưởng đức trị của khổng tử và việc kết hợp pháp trị với đức trị trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 16 trang )

BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
-------------------------------------------

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ THẠC SĨ
Chính trị trong Quản lý công

Đề tài:
TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ VÀ
VIỆC KẾT HỢP PHÁP TRỊ VỚI ĐỨC TRỊ
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

Họ và tên học viên:

Phạm Ngọc Đạt

Lớp: HC25B6

Khóa: 2020 – 2022

Ngành: Quản lý cơng
Giảng viên giảng dạy: PGS.TS. Bùi Huy Khiên

Hà Nội, 10 - 2021


BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
-------------------------------------------



BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ THẠC SĨ
Chính trị trong Quản lý công

Đề tài:
TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ VÀ
VIỆC KẾT HỢP PHÁP TRỊ VỚI ĐỨC TRỊ
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

Điểm bằng
số

Điểm bằng chữ

Hà Nội, 10 - 2021


MỤC LỤC
Phần mở đầu ................................................................................................... 1
Phần nội dung ................................................................................................. 2
Chương 1: Lý luận chung về tư tưởn Đức trị của Khổng Tử. .................... 2
1.1. Nguồn gốc về sự ra đời của tư tưởng Đức trị của Khổng Tử .......... 2
1.2. Khái niệm về tư tưởng Đức trị của Khổng Tử. ............................... 4
1.3. Nội dung của tư tưởng Đức trị. .................................................... 5
Chương 2: Vận dụng và kết hợp tư tưởng pháp trị và đức trị trong Quản lý
Nhà nước ở nước ta. .......................................................................................... 7
2.1. Mối quan hệ giữa Đức trị và Pháp trị trong quản lý nhà nước........ 7
2.2. Kết hợp tư tưởng pháp trị và đức trị vào quản lý nhà nước ở nước

ta hiện nay. .................................................................................................... 8
Phần kết luận................................................................................................. 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 13


Phần mở đầu

Nho giáo là một hệ thống tư tưởng đề cập đến nhiều lĩnh vực, nhiều mặt
hiện thực của đời sống xã hội và con người. Trong hệ thống Nho giáo bao gồm
nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng, nhiều nội dung: triết học, chính trị - xã hội,
đạo đức, giáo dục…Những tư tưởng, những nội dung này đan xen, xâm nhập
vào nhau trong một hệ thống tương đối hoàn chỉnh. Trong đó, hai học thuyết
tiêu biểu được nổi bật lên trong thời kỳ đó, đầu tiên là tư tưởng Đức trị được coi
là hạt nhân của Nho giáo cũng như là tư tưởng của chính của Nho giáo Khổng
Tử bên cạnh đó là tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử
Tư tưởng Đức trị của Khổng Tử là một trong những thành tựu lớn trong kho
tàng tư tưởng của Trung quốc cổ đại nói riêng, nhân loại nói chung. Hơn 2000
năm qua, tư tưởng đức trị không những chỉ chi phối đời sống chính trị, đạo đức,
văn hóa của đất nước Trung Hoa mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều quốc gia
trong khu vực. Nhiều quan điểm của tư tưởng Đức trị đã dần trở thành tập quán,
phong tục truyền thống và có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã
hội, từ kinh tế, chính trị đến tư tưởng, văn hóa. Do vậy, nó góp phần tạo nên
truyền thống văn hóa Á Đơng, trong đó có Việt Nam.
Trong quản lý nhà nước ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đầu trong
việc việc kết hợp tư tưởng quản lý Đức trị và Pháp trị, tư tưởng của Người là tư
tưởng của sự kết hợp thống nhất, biện chứng giữa “đức trị” và “pháp trị”, luôn
chú trọng giáo dục đạo đức, nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức
mạnh của luật pháp từ đó làm cho quản lý nhà nước mới đạt được hiệu quả. Vì
vậy để làm rõ hơn về vấn đề trên, em xin chọn đề tài: “ Tư tưởng Đức trị của
Khổng Tử và việc kết hợp Pháp trị với Đức trị trong quản lý Nhà nước ở nước

ta hiện nay” .

1


Phần nội dung
Chương 1: Lý luận chung về tư tưởn Đức trị của Khổng Tử.
1.1. Nguồn gốc về sự ra đời của tư tưởng Đức trị của Khổng Tử
Khổng Tử tên là Trọng Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ xuất thân
trong một gia đình quý tộc.Năm lên ba, Khổng Tử mồ côi cha, lớn lên phải làm
lụng rất vất vả để nuôi mẹ, nhưng ông rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và
làm một chức quan nhỏ coi kho. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trị gọi
ơng là Khổng Phu Tử, hay gọi tắt là Khổng Tử. Ông đã từng giữ chức Tổng
trưởng Bộ Hình. Sau đó, Khổng Tử từ quan về nhà dạy học và xây dựng nên hệ
tư tưởng của mình.
Khổng Tử là một nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà giáo dục và nhà chính trị nổi
tiếng Trung Hoa. Các bài giảng và triết lý của ơng có sức ảnh hưởng sâu rộng
đến đời sống và tư tưởng của các dân tộc Đông Á. Tiền đề xuất phát trong quan
niệm của các nhà đức trị là họ đều thống nhất ở quan niệm con người là thiện, có
lịng nhân, từ đó cho rằng đức la cơng cụ quản lý cùng với phương pháp quản lý
cơ bản là nêu gương và giáo hóa.
1.1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội.
 Lĩnh vực kinh tế:
Xã hội Trung Quốc đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, công cụ lao động
chuyển từ thời đồ đồng sang công cụ bằng sắt đã xuất hiện, đưa lực lượng sản
xuất lên trình độ cao hơn. Việc thay thế công cụ bằng đồng sang sử dụng công
cụ bằng sắt lúc này ngày càng trở nên phổ biến và sự mở rộng quan hệ trao đổi
sản phẩm lao động trong nền sản xuất thủ công nghiệp ngày càng trở nên chuyên
nghiệp hơn, rất nhiều ngành nghề đã được mở ra như nghề rèn, nghề mộc, nghề
đúc…Điều này đã tạo nên sự cách biệt giữa những người làm nông nghiệp ở

vùng nông thôn với những người làm nghề buôn bán ở khu vực thành thị, bắt
đầu có sự phân hóa giữa tầng lớp quý tộc với những người làm nghề bn bán ở
khu vực thành thị, bắt đầu có sự phân hóa giữa tầng lớp quý tộc với những
người được coi là hèn mọn, tiểu nhân trong xã hội.
Trên cơ sở phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng
phát triển hơn trước, tiền tệ đã xuất hiện. Đây là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế
thương nghiệp. Trong thời kỳ này, ở Trung Quốc xuất hiện nhiều thành thị
thương nghiệp buôn bán, xuất nhập nhộn nhịp ở các nước Hán, Tề, Tần, Sở.
2


Thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi
thành thị, thị tộc của quý tộc và dần trở thành những đơn vị, khu vực kinh tế của
tầng lớp địa chủ mới lên.


Lĩnh vực chính trị - xã hội:

Sự biến động trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh hưởng, tác động to lớn đến các mặt
của lĩnh vực chính trị - xã hội. Nó làm xuất hiện một cục diện mới trong xã hội
Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc, đó là tình trạng các nước chư hầu nổi
lên lấn át địa vị và quyền lực của nhà Chu. Sự phát triển của sức sản xuất, kinh
tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai
tầng của xã hội. Nhiều tầng lớp mới xuất hiện và ngày càng khẳng định vị trí của
mình. Mới, cũ cùng đan xen tồn tại. Mỗi tầng lớp ln đại diện cho những lợi
ích riêng của mình. Do đó, những mâu thuẫn giữa các giai tầng được hình thành
và ngày càng phát triển, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp
nông dân và các tầng lớp bị thống trị khác.
Trong bối cảnh đó, ln lý, đạo đức xã hội rơi vào tình trạng băng hoại, khủng
hoảng sâu sắc. Mọi giá trị, chuẩn mực, đạo đức bị đảo lộn, trật tự, kỷ cương xã

hội ngày thêm rối loạn, thiết chế chính trị, lễ nghĩa nhà Chu bị vi phạm và phá
hoại nghiêm trọng. Đây được coi là thời kỳ “Lễ hoại nhạc tan”, cảnh bề tôi giết
vua, con hại cha, anh em, vợ chồng bất hịa, chia lìa thường xun xảy ra, Thiên
hạ trở nên “vô đạo”, trật tự, lễ nghĩa, cương thường của xã hội bị đảo lộn, các
mối quan hệ giữa con người với con người bị biến dạng.
Xã hội Trung Quốc vào thời kỳ này trở nên hết sức rối ren, chiến tranh, thiên tai,
lũ lụt… thường xuyên xảy ra, một bên là sự khốn cùng của tầng lớp lao động
nghèo với một bên là sự giàu có của tầng lớp phong hầu kiến địa. Nhân dân
thường xuyên phải sống trong cảnh đói rét, khổ đau. Trong khi đó, thế lực cầm
quyền ln tìm cách để gây thanh thế, cho nên thường xuyên diễn ra các cuộc
chiến tranh
Trước thực trạng xã hội như vậy, đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cấp
bách là phải thiết lập một hệ thống tư tưởng cũng như những nguyên tắc đạo
đức, luân lý mới phù hợp với yêu cầu của thời đại để đưa xã hội tiến lên.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng

3


Tư tưởng Đức trị của nho giáo Khổng Tử là sự kế thừa và tiếp thu những yếu tố,
tính chất trong tư tưởng chính trị, đạo đức, tơn giáo của Trung Quốc từ trước
đến bấy giờ, nhất là dưới thời nhà Chu.

Về tôn giáo: Nhà Chu cho rằng, trời là lực lượng có uy quyền tối cao,
tuyệt đối và do vậy, vì nhà Ân khơng những khơng biết vâng “mệnh trời” mà
còn hành động trái với “mệnh trời” nên bị trời trừng phạt và để cho nhà Chu
thay thế nhà Ân cai trị dân. Khổng Tử nói riêng và Nho giáo nói chung tiếp nhận
yếu tố duy tâm thần bí và phản động trong tư tưởng tôn giáo trên đây làm một
trong những nội dung của tư tưởng trị nước, để ràng buộc con người, nhằm tạo
ra những con người luôn suy nghĩ, hành động theo ý trời, mệnh trời.


Về chính trị: Tư tưởng chính trị chủ yếu của giai cấp quý tộc Chu là
“Nhân dân”, “Hưởng dân” và “Trị dân”.

Về đạo đức: Tư tưởng đạo đức của nhà Chu lấy hai chữ Đức và Hiếu làm
nòng cốt. Xuất phát từ quan niệm tôn giáo về trời – người hợp nhất, nhà Chu
cho rằng, tổ tiên của mình là bậc Tiên vương do ln có đức mà được sánh cùng
thượng đế, nhận được “mệnh trời” mà “hưởng nước”, “hưởng dân”. Do vậy, các
vua sau phải thành kính cái đức đó, mà giữ gìn và bồi đắp nó để con cháu được
thừa hưởng lâu dài. Hiếu là nhớ ơn tổ tiên, là phải ln giữ gìn và làm sáng tỏ
khn phép của tổ tiên để lại, có như vậy, mới nhận được mệnh trời mà được
hưởng nước, hưởng dân mãi mãi. Chính điều này, một phần giúp chúng ta cắt
nghĩa vì sao, ở Nho giáo, đạo đức và chính trị gắn chặt với nhau, coi đạo đức
còn là một trong những cơng cụ, phương tiện chính trị chủ yếu nhất của nhà vua,
của người cầm quyền trong việc trị dân, trị nước, bình thiên hạ
1.2. Khái niệm về tư tưởng Đức trị của Khổng Tử.
Đường lối Đức trị là một trong những nội dung cơ bản nhất trong học thuyết
chính trị - xã hội của Nho giáo. Trong Nho giáo, học thuyết chính trị và học
thuyết đạo đức quan hệ chặt chẽ với nhau, chính trị và đạo đức gắn chặt với
nhau. Khổng Tử đặc biệt đề cao đạo đức trong trị nước, coi đó là cơng cụ và
phương tiện hữu hiệu nhất để hoàn thiện con người và ổn định, hồn thiện xã
hội, đưa xã hội từ “vơ đạo” thành “hữu đạo”.
Tư tưởng Đức trị là những quan điểm về đường lối trị nước, quản lý xã hội dựa
trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức. Đó là hệ thống những chuẩn mực, những
nguyên tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi của con người trong, các
mối quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
4


cộng đồng. Đức trị phản ánh nhu cầu và lợi ích xã hội của giai cấp thống trị,

được biểu hiện dưới hình thức những quy định và những đánh giá trên cơ sở xác
lập những giá trị luân lý, được mọi người thừa nhận và chấp hành một cách tự
giác. Trên cơ sở đó, Nho giáo cũng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm
chính danh định phận trong xã hội, đề ra những nguyên tắc, tiêu chí làm chuẩn
mực để người cầm quyền nhận thức đạo lý, giáo hóa hành vi, điều chỉnh hoạt
động của mọi người.
1.3. Nội dung của tư tưởng Đức trị.
1.3.1. Vai trò của đạo đức theo quan niệm của Khổng Tử.
Thứ nhất, đạo đức và thi hành đạo đức là tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để
hình thành và hồn thiện đạo đức của con người, góp phần to lớn vào việc củng
cố, duy trì trật tự, kỷ cương và sự ổn định của xã hội.
Thứ hai, đạo đức là công cụ, phương tiện chủ yếu nhất, hữu hiệu nhất của giai
cấp thống trị trong việc cai trị và quản lý xã hội.
Thứ ba, cũng cần phải nhấn mạnh một vấn đề chủ yếu trong học thuyết đạo đức
Nho giáo nói chung, quan niệm của Nho giáo về vai trò của đạo đức, của đường
lối Đức trị nói riêng là, những vai trị trên của đạo đức đối với xã hội và con
người chỉ trở thành thực tế là chủ yếu phụ thuộc vào nhà vua, người cầm quyền
có đạo đức và ln tu dưỡng, thi hành đạo đức.
Trong học thuyết đạo đức của Nho giáo Khổng Tử, đạo đức và tu dưỡng đạo
đức gắn liền với nhau. Muốn có đạo đức và ln có đạo đức phải thường xuyên
tu dưỡng đạo đức.
1.3.2. Cai trị theo “Nhân, Lễ, Chính danh”.
Nhân và Lễ là hai phạm trù trung tâm và cơ bản nhất trong tư tưởng đức trị nói
riêng và của học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo nói chung, đó cịn là biện
pháp để thi hành đường lối đức trị. Trong Nho giáo Khổng Tử, Nhân, Lễ, Chính
danh là thống nhất với nhau trong tư tưởng đức trị, trong việc thực thi đường lối
đức trị. Trong đó Nhân là nội dung, là hạt nhân của Lễ, cịn Lễ là hình thức thể
hiện của Nhân và trên bình diện chính trị, sự thống nhất của Nhân và Lễ là
Chính danh.


5


Nhân là một phạm trù trung tâm của tư tưởng đạo đức, tư tưởng đức trị. Nhân
bao gồm hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp, Nhân là một phẩm
chất đạo đức cụ thể, cơ bản, nền tảng của con người, nó là chuẩn mực đạo đức
để con người tự tu dưỡng và hoàn thiện nhân cách của mình. Theo nghĩa rộng,
Nhân bao gồm mọi đức cần có khác của con người. Nói một cách khác, mọi đức
khác của con người như Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hiếu, Trung v.v., đều biểu hiện cụ
thể của đức Nhân.
Lễ cũng là một phạm trù đạo đức, một chuẩn mực đạo đức. Lễ được nhìn nhận
chủ yếu từ phương diện chính trị, Ở phương diện này, Lễ lại bao gồm nhiều nội
dung cơ bản khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Trước hết, Lễ là phạm trù
chỉ tôn ti, trật tự, kỷ cương của xã hội mà mọi người, mọi giai cấp trong xã hội
phải học, phải tuân theo. Thứ hai, Lễ là những chuẩn mực, những quy tắc,
những yêu cầu có tính bắt buộc, ràng buộc đối với mọi hành vi, ứng xử của con
người trong các mối quan hệ xã hội cũng như trong các hoạt động khác của con
người. Dù Lễ được nhìn nhận với nhiều nội dung như thế nào đi chăng nữa,
song điều cơ bản mà Nho giáo quan tâm là mọi người, mọi giai cấp phải tơn
trọng, giữ gìn, học tập và hành động đúng lễ.
Chính danh là một phạm trù, một nội dung cơ bản của tư tưởng đức trị, là một
trong những biện pháp chính trị để thi hành đường lối đức trị, lễ trị. Chính danh
lần đầu tiên được Khổng Tử đặt ra. Ông yêu cầu là phải đặt đúng tên sự vật và
gọi sự vật bằng đúng tên của nó sao cho “danh” đúng với thực chất của sự vật.
Trong tư tưởng đức trị, Chính danh là yêu cầu mỗi người cần phải có một phẩm
chất tương xứng với địa vị xã hội của mình và phải suy nghĩ, hành động đúng
với ấy, không được tranh giành địa vị và bổn phận của người khác, giai cấp
khác, nếu không xã hội sẽ loạn. Xuất phát từ việc cho rằng, trong xã hội, mỗi
người, mỗi đẳng cấp đều có vị trí và bổn phận riêng của mình, các nhà Nho đều
khẳng định rằng, để loại bỏ tình trạng rối loạn, để duy trì trật tự, kỷ cương và sự

ổn định của xã hội thì điều có ý nghĩa tiên quyết là phải thực hành biện pháp
Chính danh.
Như vậy, Nhân, Lễ, Chính danh trong tư tưởng đức trị của Khổng TỬ không chỉ
là những nội dung mà cịn là những biện pháp chính trị để thực hiện đường lối
đức trị, nhằm mục đích duy trì, bảo vệ trật tự, kỷ cương của chế độ phong kiến
và phục vụ những yêu cầu, lợi ích của giai cấp thống trị xã hội mà thôi.
6


Chương 2: Vận dụng và kết hợp tư tưởng pháp trị và đức trị trong Quản lý
Nhà nước ở nước ta.
2.1. Mối quan hệ giữa Đức trị và Pháp trị trong quản lý nhà nước.
Về mặt bản chất, “đức trị” và “pháp trị” đều là hai mặt của một thể thống
nhất, một bản thể duy nhất không tách rời. Việc đề cao đức trị hay pháp trị trong
trị quốc an dân cũng đều mang tính phiến diện, khơng đầy đủ. Đạo đức và pháp
luật phản ánh bản chất nhà nước và nhu cầu xã hội. Pháp luật là công cụ của giai
cấp thống trị sử dụng để quản lý xã hội thơng qua bộ máy nhà nước. Vì thế,
pháp luật và nhà nước luôn mang bản chất của giai cấp thống trị. Chế độ xã hội
khác nhau sẽ quy định bản chất của hệ thống luật pháp khác nhau, qua đó trực
tiếp hoặc gián tiếp phản ánh các chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, chỉ những nhà lãnh đạo nào thực sự phối hợp
một cách nhuần nhuyễn được cả hai trường phái tư tưởng “đức trị” và “pháp trị”
thì mới có thể đưa đất nước dưới sự quản lý của họ trở nên ổn định và mạnh mẽ.
Các vị vua hiền, chúa thánh minh ở Phương Đông, Trung Quốc và Việt Nam,
những người được coi là rất thành công trong sự nghiệp trị nước đều đã kết hợp
được cả đức trị lẫn pháp trị, vừa biết tôn Nho, vừa biết trọng Pháp. Điều này
cũng khơng ngoại lệ ở phương Tây. Điển hình như, Platon luôn chủ trương phải
thống nhất đạo đức với một nền chính trị trong sạch, lấy quan niệm về một
người cầm quyền có đức tạo cơ sở cho một nhà nước lành mạnh. Ông đặc biệt
quan tâm đến vấn đề về con người, về đạo đức của con người, nhưng ông cũng

nhấn mạnh vai trò của luật pháp và coi đó là thứ có vai trị quan trọng thứ hai
sau đạo đức (Les lois - Những đạo luật - Platon).
Khổng Tử lấy đạo nhân làm gốc, lấy hiếu, lễ nhạc làm nội dung cơ bản cho sự
giáo hóa; tin tưởng vào sự giáo dục sẽ làm cho cái nhân tăng lên và các hình
phạt sẽ giảm nhẹ đến mức có thể. Ai cho rằng Khổng Tử là người bác bỏ hình
luật thì người đó chưa hiểu đúng đắn về ơng. Ơng khơng chủ trương loại bỏ nó
mà chỉ coi đó là một biện pháp cần thiết để ngăn ngừa, cần thiết phải có, nếu
khơng bất đắc dĩ thì khơng nên dùng đến.
Có thể thấy những bậc lãnh đạo kiệt xuất đều là những người nắm vững, vận
dụng thành công trong sự kết hợp giữa luật pháp với đạo đức, giữa pháp trị và
đức trị.
7


2.2. Kết hợp tư tưởng pháp trị và đức trị vào quản lý nhà nước ở nước ta
hiện nay.
Trong thực tiễn quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay, thì Nhà nước ln đề cao
việc vận dụng cả 2 tư tưởng pháp trị và đức trị một cách linh hoạt vào các hoạt
động quản lý của mình, nhưng vấn đề vận dụng như thế nào sao cho phù hợp với
hồn cảnh, văn hóa, điều kiện thì lại là một điều ln ln cần được nghiên cứu,
tìm tịi. Việc vận dụng không phải là sao chép y nguyên học thuyết mà phải cần
có sự chọn lọc, kế thừa và phát huy.


Với tư tưởng Đức trị:

Đảng và Nhà nước cần không ngừng xây dựng, chăm lo, đảm bảo cho sự
phồn vinh của đất nước, ấm no cho nhân dân. Việc đề ra các đường lối, chủ
trương, chính sách phải phù hợp với hoàn cảnh của đất nước, nguyện vọng của
nhân dân. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ Đảng viên luôn phải được chú

trọng, lựa chọn được những con người có đủ sức, đủ tài vào trong bộ máy lãnh
đao, quản lý đất nước. Các chính sách nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân được đề ra và không ngừng phát triển,
cải cách sao cho phù hợp như đường lối đổi mới đất nước, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách giáo dục, chính sách đầu tư, các
chính sách hỗ trợ người nghèo, ban hành hệ thống văn bản Pháp luật phù hợp,
sửa đổi, bổ sung luật vì lợi ích chung của tồn bộ quốc gia… Các công việc của
Nhà nước đã thể hiện tư tưởng lấy dân làm trọng, tất cả vì lợi ích của quốc gia,
thể hiện đạo đức của những người lãnh đạo Nhà nước ta, tinh thần nhân văn,
nhân đạo sâu sắc, rõ nét. Vai trò, địa vị của người phụ nữ ngày càng được cơng
nhận. Bình đẳng xã hội đang dần được hình thành và trở nên la một cơ sở cho
sự phá triển xã hội cũng như con người tồn diên. Như Bác Hồ đã từng dạy bảo
việc gì có lợi cho dân thi phải cố gắng làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết
sức tránh. Niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước đang ngày càng được
củng cố.
Các nhà lãnh đạo của đất nước nỗ lực hết mình để đam bảo cho đất nước phát
triển bằng những hướng dẫn, chỉ đạo. Nhân dân ta cũng không ngừng phát huy
những nét đạo đức tốt đẹp, để cùng Nhà nước xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Nhân dân ta có một tinh thần u nước vơ cùng lớn lao. Điều này không chỉ
được biểu hiện trong chiến tranh, khi nước nhà bị lâm nguy, mà ngay cả trong
8


thời bình, nó vẫn phát huy cao giá trị của mình. Người dân khơng ngừng phát
triển kinh tế, lao động sản xuất, vươn lên xóa đói giảm nghèo, làm cho đất nước
phồn vinh. Tinh thần thi đua, hăng hái sản xuất dâng cao ở khắp mọi nơi, với
khẩu hiệu thi đua là yêu nước. Người dân thực hiện nếp sống văn minh hiện đại,
yêu thương, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau, nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm lá
rách, một nắm khi đói bằng một gói khi no, vì người nghèo. Con người phát
huy tinh thần hiếu học, không ngừng học tập, nghiên cứu rèn luyện để tiếp thu

tinh hoa của tri thức nhân loại, giúp ích cho cộng đồng, xã hội, Nhà nước. Các
hủ tục lạc hậu dần bị loại bỏ. Các tư tưởng tiến bộ đã đi vào cuộc sống người
dân. Sống trong thời kì hội nhập, giao lưu, hợp tác với bạn bè quốc tế, tiếp thu
những tinh hoa của văn minh nhân loại nhưng người dân vẫn ln kiên định
một nục tiêu hịa nhập nhưng khơng hòa tan, biết chọn lọc, kế thừa và phát huy
những điều tốt, tuy nhiên cố gắng hết mình tránh các thói hư, tật xấu, gìn giữ và
phát huy những nét đẹp truyền thống, bản sắc dân tộc, tạo nên một nền văn hóa
phong phú, đa dạng, mang đậm dấu ấn Việt Nam. Có thể nói, nhân dân ta và
Nhà nước đang cố gắng hết sức mình để xây dựng một xã hội tốt đẹp, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, phát triển phồn vinh, thịnh vượng.


Với tư tưởng pháp trị:

Hiện nay, ở nước ta, hoạt động xây dựng pháp luật cịn chưa kịp thời, tính
thống nhất và đồng bộ chưa cao. Pháp luật của chúng ta còn thiêu ổn định và sự
cụ thể cần thiết; nhiều chổng chéo, lỗ hổng; mục tiêu chiến lược xây dựng hệ
thống pháp luật khoa học và cụ thể còn đang thực hiện. Trước sự phát triển đa
dạng của kinh tế – xã hội, với nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp, chúng ta
thiếu hụt và còn khoảng trống pháp luật ở một số lĩnh vực. Nhiều lĩnh vực bức
xúc của đời sống xã hội vẫn chưa có luật mà điều chỉnh chủ yếu bằng văn bản
dưới luật, thậm chí chưa có văn bản dưới luật điều chỉnh. Một số lĩnh vực đã có
luật lại chưa phù hợp và chưa sát với thực tiễn hoặc chỉ dừng lại ở những quy
định mang tính chất khung. Do bất cập trong văn bản hướng dẫn nên quy định
của luật chậm đi vào cuộc sống và không tránh khỏi cách hiểu, cách làm khác
nhau dẫn đến sơ hở hoặc sự lợi dụng pháp luật trong quá trình thực hiện.
Tính tồn diện, đồng bộ, tính khả thi của hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế
chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật. Nội dung của
pháp luật trong một số lĩnh vực còn chậm sửa đổi, vẫn còn ảnh hưởng của tư
9



duy bao cấp, chưa thực sự chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Phạm vi và đối tượng điều chỉnh trong một số đạo luật chưa được xác định rõ,
chưa xuất phát từ tính chất, đặc thù của quan hệ xã hội trong mỗi lĩnh vực để lựa
chọn phương pháp điều chỉnh hợp lý.
– Về hoạt động lập pháp
Một là, những đạo luật mà Quốc hội ban hành phải rõ ràng, minh bạch và dễ
hiểu. Khi pháp luật rõ ràng, dễ hiểu, việc thực thi pháp luật sẽ thuận lợi, và
người dân cũng dễ tiếp cận với luật pháp.
Hai là, những đạo luật mà Quốc hội ban hành phải phù hợp với hoàn cảnh xã
hội, thống nhất và ổn định, ít biến đổi. Đây cũng là một giá trị của tư tưởng Pháp
trị. Khi hoàn cảnh xã hội thay đổi, đất nước đổi mới thì những điều luật cũng
phải thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, pháp luật phải thông nhất mới không tạo
ra sự chồng chéo giữa các điều luật, giữa các hoạt động thực thi pháp luật.
– Về hoạt động hành pháp.
Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong lĩnh vực hành pháp có
nghĩa là thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước. Quá trình này phải được
tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và
xây dựng, kiện tồn đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính. Những nội dung cơ
bản cần thự hiện là:
– Tăng cường vai trị của Chính phủ – cơ quan đứng đẩu nên hành chính quốc
gia trong bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN.
– Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước thống nhất quản lý nhà nước bằng
nháp luât.
– Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thể chế tăng cường thẩm quyền
cho các cơ quan thanh tra trong việc xử lý các vi phạm pháp luật.
Những tư tưởng pháp trị về việc tuyển chọn, đánh giá năng lực quan lại, bổ
nhiệm, kiểm tra, giám sát đội ngũ quan lại, thuật dùng người, thuật thưởng
phạt… vẫn có ý nghĩa sâu sắc trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

ở nước ta hiện nay.
– Về hoạt động tư pháp
10


Hoạt động tư pháp là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng. Việc thực thi quyền lực
tư pháp có ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu và những giá trị của công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ nhất, cơng tác tố tụng, xét xử phải tn thủ trình tự pháp luật, tơn trọng
pháp luật. Bởi vì, trong một xã hội pháp quyển thì pháp luật giữ vị trí tối thượng
và là chuẩn mực cho mọi hành động trong xã hội. Các tổ chức, cá nhân thực thi
pháp luật càng phải gương mẫu thực hành pháp luật trước dân, tránh tình trạng
dựa vào mối quan hệ quen, thân mà bỏ qua hoặc xử lý nhẹ.
Thứ hai, đảm bảo tính cơng khai, minh bạch trong q trình xử án, xử lý những
vi phạm pháp luật. Chỉ khi công khai, minh bạch, pháp luật mới thể hiện được
sức mạnh cưỡng chế, giáo dục của nó. Chính Hàn Phi cũng đã khẳng định, pháp
luật không nghiêm minh, công bằng; vua thực thi pháp luật khơng nghiêm… thì
bề tơi sẽ gian dối

11


Phần kết luận
Đường lối đức trị của Nho giáo từ Khổng Tử lấy nhân nghĩa làm gốc, coi
trọng vai trò của dân tuy đã thể hiện được những quan điểm nhân bản khá sâu sắc.
Đường lối đó nặng "đức" "nhẹ hình", khuyến khích người đời từ thường dân đến
bậc vua chúa đều phải tu thân rèn đức theo mẫu người quân tử. Học thuyết “Đức
trị” của Nho giáo chứa đựng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho giáo tiên Tần và
ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu sâu thêm nữa và chắc chắn
sẽ cịn tìm được trong đó nhiều bài học bổ ích.

Bài làm ở trên đã đưa đến với mọi người những hiểu biết khái quát của em
về tư tưởng Đức trị của Khổng Tử và việc kết hợp Pháp trị với Đức trị trong quản
lý nhà nước ở nước ta hiện nay. Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng do vốn hiểu biết
và kiến thức còn hạn hẹp nên bài viết của em khơng thể tránh khỏi những thiếu
xót, rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cơ./.
Em xin chân thành cảm ơn.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
- Nguyễn Thị Doan, Đỗ Minh Cương (1996): Các học thuyết quản lý, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội

- Mối quan hệ giữa “đức trị” và “pháp trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam (tcnn.vn)
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về việc kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
trong quản lý xã hội Việt Nam hiện nay - Tạp chí Cộng sản
(tapchicongsan.org.vn)

13



×