Đề bài: “Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của toà án liên quan
đến tranh chấp về hợp đồng thuê tài sản mà theo quan điểm
của nhóm các phán quyết đưa ra trong bản án là chưa phù
hợp và giải quyết yêu cầu”.
1
Mục Lục
2
Mở đầu:
Trong thực tiễn cuộc sống, giao dịch dân sự là điều khơng thể thiếu để duy trì sự
trao đổi buôn bán cũng như thực hiện các hoạt động sống của con người. Trong các
quan hệ dân sự, giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên sự tự do ý chí, tự
nguyện thoả thuận giữa các bên và chịu sự quản lí bắt buộc thực hiện theo những
quy định của pháp luật. Pháp luật dân sự quy định các loại hợp đồng nhằm đáp ứng
nhu cầu thực tiễn của con người, nhưng thực tế luôn sảy ra sự mâu thuẫn và các
vấn đề phát sinh trong các giao kết hợp đồng. Các chủ thể khi thực hiện hợp đồng
luôn phải thực hiện đúng, đủ những cam kết của mình và thực hiện đúng pháp luật.
Chính vì thế nhóm chúng em lựa chọn đề tài: “Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm
của toà án liên quan đến tranh chấp về hợp đồng thuê tài sản mà theo quan điểm
của nhóm các phán quyết đưa ra trong bản án là chưa phù hợp” và giải quyết các
yêu cầu:
1. Từ bản án đã sưu tập được, hãy tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng tình huống
dài tối đa 1 trang A4.
2. Hãy chỉ ra phán quyết mà Toà án đưa ra chưa phù hợp ở những nội dung nào và
giải thích tại sao.
3. Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết tranh chấp phù hợp với yêu
cầu của pháp luật hiện hành.
4. Từ việc phân tích vụ án hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp
luật hiện hành.
Nội dung:
Câu 1. Từ bản án đã sưu tập được, hãy tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng
tình huống dài tối đa 1 trang A4: Theo Bản án 97/2021/DS-ST của Tòa án nhân
dân Thành phố Cà Mau ngày 14/05/2021 về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản các
đương sự bao gồm:
3
Ngun đơn: Ơng Phạm Thành T– Chủ DNTN A (có mặt). Địa chỉ: tỉnh Cà Mau.
Bị đơn: Ơng Nguyễn Chí L (có mặt) Địa chỉ: tỉnh Cà Mau.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn H (xin vắng mặt) Ông
Phạm Thành C ; Người đại diện hợp pháp của ơng C: Ơng Phạm Thành T.
Ngun đơn trình bày, ngày 13/4/2018, ông Phạm Thành T ủy quyền cho anh
Phạm Thành C ký hợp đồng quy ước máy móc thiết bị với ơng Nguyễn Chí L gồm:
cần cuốc bánh xích, búa hơi, giàn cần chế + tháp với tổng giá trị là 600 triệu đồng
mục đích là để góp vốn kinh doanh. Ơng L có nghĩa vụ góp 300 triệu đồng . Nhưng
do ơng L khơng đủ tiền góp vốn nên đến ngày 03/5/2018 chấm dứt hợp đồng góp
vốn này mà chuyển sang hợp đồng cho ông L thuê các tài sản trên. Thời gian thuê
từ ngày 13/4/2018 đến ngày 03/6/2018, giá thuê là 40 triệu đồng. Hết hạn thuê, ông
L phải chuyển trả thiết bị về địa điểm đã thoả thuận.
Q trình thực hiện hợp đồng th, ơng L đã trả được 10.000.000đ, cịn thiếu
30.000.000đ. Hết hạn, ơng L không trả tiền thuê cũng như không chuyển tài sản trả
cho như đã thỏa thuận. Tại Đơn khởi kiện ông yêu cầu ông L trả số tiền thuê xe còn
thiếu là 40.000.000đ, bồi thường thiệt hại do chậm trả xe cần cuốc là
130.000.000đ, trả xe và chuyển toàn bộ tài sản thuê về vị trí ban đầu trả cho ông,
yêu cầu trả tiền thuê đến ngày giao trả đầy đủ tài sản và tiền sửa chữa máy mọc
thiết bị hoạt động như ban đầu.
Theo lời khai bị đơn ông L trình bày: ơng có ký hợp đồng quy ước máy
nhưng do tình trạng máy móc khơng tốt nên ơng khơng thực hiện việc góp vốn.
Khi nhận tài sản th, ông không kiểm tra tình trạng tài sản và không xác nhận do
ai sửa chữa. Do sau khi nhận chiếc xe về thì xe bị hư hỏng, phải sửa chữa, cho đến
nay không hoạt động, khai thác được nên ông không đồng ý các khoản yêu cầu mà
ông T đã khởi kiện. Tại phiên tịa, Ơng T u cầu ơng L phải thanh toán các
khoản: Tiền thuê xe cần cuốc còn thiếu là 30.000.000đ; Đồng ý giảm số tiền bồi
thường từ 130.000.000đ xuống là 50.000.000đ; Bổ sung yêu cầu khởi kiện về việc
ông L phải trả tiền vận chuyển búa hơi là 6.000.000đ và tiền cho ơng L mượn có
biên nhận là 5.000.000đ. Ông T rút một phần yêu cầu khởi kiện: yêu cầu ông L trả
xe cần và chuyển toàn bộ tài sản thuê về cảng Năm, yêu cầu trả tiền thuê đến ngày
giao trả đầy đủ tài sản và tiền sửa chữa máy móc .
4
Nhận định của tồ: Tại phiên tồ, ơng T và ông L đều tự nguyện thừa nhận vụ
việc hợp đồng thuê nên việc ông T yêu cầu ông L trả 30.000.000đ tiền thuê tài sản
là có cơ sở chấp nhận. Ông T không cung cấp được chứng cứ chứng minh những
thiệt hại thưc tế nên khơng có cơ sở chấp nhận yêu cầu bồi thường. Đối với việc
kiện bổ sung yêu cầu ông L trả tiền vận chuyển và tiền cho mượn thiết bị, xét thấy
nội dung này vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu nên HĐXX không chấp nhận.
HĐXX chấp nhận việc ông T rút một phần yêu cầu khởi kiện với ơng L.
Quyết định của tồ án: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm
Thành T yêu cầu ông L trả 30.000.000đ tiền thuê cịn thiếu. Khơng chấp nhận việc
ơng T u cầu ơng L bồi thường thiệt hại 50.000.000đ. Đình chỉ xét xử với phần
yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Thành T về việc: u cầu ơng Nguyễn Chí L trả
xe cần cuốc, chuyển tồn bộ tài sản th trả cho ơng, trả tiền thuê đầy đủ và sửa
chữa máy móc về tình trạng ban đầu.
Câu 2: Quan điểm của nhóm về phán quyết mà Toà án đưa ra chưa phù hợp ở
những nội dung sau:
Hợp đồng thuê tài sản của ông Phạm Thành T và ơng Nguyễn Chí L được kí là
hợp pháp nhưng khi xảy ra mâu thuẫn thì tồ án nhân dân thành phố Cà Mau xét
xử một số điểm nhóm cho rằng chưa phù hợp:
Đối với số tiền thuê tài sản trong hợp đồng.
Thứ nhất, Toà án cần xem xét lời khai của nguyên đơn và bị đơn khi hai người
cho rằng lí do để huỷ bỏ hợp đồng quy ước từ đó dẫn đến giao kết hợp đồng thuê
tài sản là khác nhau:
Nguyên đơn ông Phạm Thành T trình bày: “…Ơng Nguyễn Chí L có nghĩa vụ
góp ½ giá trị tài sản là 300 triệu đồng. Nhưng do ơng L khơng đủ tiền góp vốn
theo thỏa thuận nên đến ngày 03/5/2018, đôi bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng
góp vốn này mà chuyển sang việc ơng cho ông L thuê các tài sản kê trong Hợp
đồng quy ước...”.
Nhưng bị đơn ơng Nguyễn Chí L cho rằng: “…Ngày 13/4/2018, ơng có ký hợp
đồng quy ước máy móc thiết bị với DNTN A để góp vốn kinh doanh nhưng do tình
5
trạng máy móc khơng tốt nên ơng khơng thực hiện việc góp vốn, đơi bên thỏa
thuận chấm dứt Hợp đồng này và chuyển sang việc ông thuê các tài sản của ông T,
chủ DNTN A, với những tài sản thuê và nội dung thỏa thuận đúng như ơng T trình
bày…”.
Do đó nguyên nhân dẫn đến huỷ bỏ hợp đồng quy ước cần phải làm rõ và xác
định bởi đây có thể xem là căn cứ chứng minh tài sản của ông T bị hư hỏng từ
trước khi giao kết hợp đồng và chuyển giao tài sản. Nếu lời khai của ông L là đúng
sự thật thì bên nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ “giao tài sản thuê và nghĩa vụ bảo
đảm giá trị sử dụng của tài sản thuê”. Máy móc hư hỏng làm ảnh hưởng chất lượng
qua đó chi phối đến giá trị sử dụng của tài sản thuê. Chất lượng tài sản thuê phải
phù hợp với mục đích sử dụng của bên thuê, khi bàn giao tài sản phải đảm bảo chất
lượng như thỏa thuận, để việc sử dụng, khai thác công dụng tài sản của bên thuê
được hiệu quả trong suốt thời gian cho thuê. Trong khi nhận định của toà án chỉ
xác định rằng hai ông T và L xác lập hợp đồng thuê tài sản với nhau và từ đó xác
định trách nhiệm trả tiền cịn thiếu trong hợp đồng th “là có cơ sở” điều này chưa
thực sự hợp lí.
Thứ hai, tồ án cần xác minh lời khai bị đơn để xác định trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ của bên cho thuê tài sản. Ơng Nguyễn Chí L cho rằng: “ Q trình thực
hiện hợp đồng, ơng đã thanh tốn cho ơng T được 10.000.000đ tiền th, cịn xe
cần cuốc thì bị hư hỏng nhiều, phải sửa chữa luôn nên ông không khai thác được.”
Đây được xem là nguyên nhân không thực hiện nghĩa vụ trả đủ tiền th khi
ơng L có quyền u cầu ơng T sửa chữa tài sản và có thể giảm giá thuê.
Đối với trường hợp xảy ra hư hỏng trước khi bàn giao tài sản:
Căn cứ “Điều 476. Giao tài sản thuê:
6
1. Bên cho thuê phải giao tài sản cho bên thuê đúng số lượng, chất lượng, chủng
loại, tình trạng, thời điểm, địa điểm đã thỏa thuận và cung cấp thông tin cần thiết
về việc sử dụng tài sản đó.
2. Trường hợp bên cho thuê chậm giao tài sản thì bên thuê có thể gia hạn giao tài
sản hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại; nếu tài sản th khơng
đúng chất lượng như thỏa thuận thì bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê sửa
chữa, giảm giá thuê hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”
Do đó ơng L có quyền yêu cầu ông T giảm giá thuê và khắc phục tài sản để
đảm bảo quyền sử dụng của mình. Ngồi ra căn cứ theo điều Điều 279. Thực hiện
nghĩa vụ giao vật
“1. Bên có nghĩa vụ giao vật phải bảo quản, giữ gìn vật cho đến khi giao.
2. Khi vật phải giao là vật đặc định thì bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó và
đúng tình trạng như đã cam kết; nếu là vật cùng loại thì phải giao đúng số lượng
và chất lượng như đã thỏa thuận, nếu khơng có thỏa thuận về chất lượng thì phải
giao vật đó với chất lượng trung bình; nếu là vật đồng bộ thì phải giao đồng
bộ…” Vì vậy tài sản thuê khi được chuyển giao phải đảm bảo chất lượng nhất
định, khi tài sản hư hỏng không sử dụng được bên cho thuê sẽ vi phạm quy định
của nghĩa vụ giao vật.
Đối với trường hợp tài sản hư hỏng trong q trình sử dụng Bị đơn ơng Nguyễn
Chí L có quyền yêu cầu ông Phạm Thành T đảm bảo giá trị sử dụng ổn định, lâu
dài của tài sản thuê:
Căn cứ theo Điều 477. Nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng của tài sản thuê
“1. Bên cho thuê phải bảo đảm tài sản thuê trong tình trạng như đã thỏa thuận,
phù hợp với mục đích thuê trong suốt thời gian cho thuê; phải sửa chữa những hư
7
hỏng, khuyết tật của tài sản thuê, trừ hư hỏng nhỏ mà theo tập quán bên thuê phải
tự sửa chữa.
2. Trường hợp tài sản thuê bị giảm sút giá trị sử dụng mà khơng do lỗi của bên
th thì bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê thực hiện một hoặc một số biện
pháp sau đây:
a) Sửa chữa tài sản;
b) Giảm giá thuê;
c) Đổi tài sản khác hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại, nếu tài sản thuê có khuyết tật mà bên thuê không biết hoặc tài
sản thuê không thể sửa chữa được mà do đó mục đích th khơng đạt được.
3. Trường hợp bên cho thuê đã được thông báo mà không sửa chữa hoặc sửa chữa
không kịp thời thì bên th có quyền tự sửa chữa tài sản thuê với chi phí hợp lý,
nhưng phải báo cho bên cho thuê và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh tốn chi
phí sửa chữa.”
Như vậy, bên cho th máy móc và thiết bị là ơng Phạm Thành T phải có trách
nhiệm sửa chữa để những hư hỏng lớn của tài sản thuê này đảm bảo chất lượng
phù hợp với mục đích thuê để sử dụng trong khoảng thời gian hợp đồng quy định.
Do đó, ơng Nguyễn Chí L có quyền yêu cầu bên cho thuê giảm giá thuê tài sản
hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng. Khi chất lượng tài sản thấp hơn chất lượng
đã thỏa thuận trong hợp đồng mà bên thuê vẫn có thể sử dụng được nhưng lợi ích
bị giảm sút thì bên th có quyền yêu cầu bên cho thuê giảm giá thuê. Giá giảm do
các bên thỏa thuận phải phù hợp với phần lợi ích mà bên thuê bị giảm sút và chất
lượng của tài sản.
Tài sản bị hư hỏng có thể chứng minh dựa căn cứ vào lời khai của bị đơn về
nguyên nhân huỷ bỏ hợp đồng quy ước là do hư hỏng nhiều, do đó bị đơn muốn
8
chuyển sang thuê tài sản có thể để bên cho thuê đảm bảo giá trị sử dụng của tài sản
thuê, khi đó thực hiện bỏ vốn ra đầu tư để khai thác cơng dụng. Ngồi ra Bị đơn L
có trình bày việc sửa chữa tài sản thuê, toà án cần yêu cầu ông chứng minh việc
sửa chữa và xem xét việc thanh tốn tiền sửa chữa với chi phí hợp lí này để đảm
bảo quyền lợi đối với bị đơn.
Vì vậy toà án cần xem xét nghĩa vụ của các bên và xác định các khoản tiền về
giá thuê và sửa chữa các bên phải trả cho nhau để hai bên có được lợi ích chính
đáng. Do đó với u cầu trả khoản tiền 30 triệu là chưa thực sự hợp lí.
Câu 3: Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết tranh chấp phù
hợp với yêu cầu của pháp luật hiện hành
Thứ nhất, Căn cứ Điều 476 BLDS về Giao tài sản thuê, theo quan điểm của
nhóm thì trường hợp với hợp đồng thuê tài sản của hai ông T và L cần áp dụng
Khoản 1 Điều 476: “Bên cho thuê phải giao tài sản cho bên thuê đúng số lượng,
chất lượng, chủng loại, tình trạng, thời điểm, địa điểm đã thỏa thuận và cung cấp
thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản đó.” Việc cung cấp thông tin cần thiết về
việc sử dụng tài sản là điều cần thiết được quy định bởi luật do đó trước khi giao
kết hợp đồng cho dù bên th khơng có đề cập đến vấn đề trên thì bên cho th vẫn
phải có nghĩa vụ thơng báo tình trạng tài sản. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 387 Thông
tin trong giao kết hợp đồng “Trường hợp một bên có thơng tin ảnh hưởng đến việc
chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thơng báo cho bên kia biết.” Vì
vậy ta thấy rằng việc ơng T không cung cấp thông tin cần thiết về tài sản thuê cho
bên thuê để ông L biết đã gây ra nhiều ảnh hưởng thiệt hại tới quyền lợi của ông L
và Theo Khoản 3 của Điều 387 “Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều
này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.” do đó ơng T có thể phải bồi thường một
khoản tiền hợp lý cho ông L.
9
Theo nhóm thì đây là điểm đầu tiên tồ cần phải xem xét tới để đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của ông L trong vụ việc này khi có căn cứ cho rằng tài sản của
ơng T bị hư hỏng và chưa rõ ràng trong việc thông báo tài sản thuê.
Thứ hai, đối với việc bảo đảm giá trị sử dụng của tài sản thuê và xác định tiền
sửa chữa tài sản. Trong bộ luật dân sự nước ta cũng đã quy định tại khoản 2 Điều
477 các trường hợp mà nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng thuê sẽ phát sinh. Theo
như lời khai của ông L thì quá trình bắt đầu khi chuẩn bị khai thác thì máy móc của
ơng T gặp rất nhiều trục trặc kĩ thuật nên bản thân ông L phải tự mình bỏ ra một
khoản chi phí để cho việc sửa chữa máy móc mà trong thời gian đó lại khơng thể
sử dụng máy móc để khai thác dẫn đến tổn hại về kinh tế. Nếu như đúng lời khai
của ông L thì ơng T phải chịu số tiền chi phí cho sửa chữa máy móc mà ơng L đã
phải bỏ ra, nếu đó là khoản tiền lớn thì hai bên có thể thỏa thuận chi phí hợp lý cho
khoản tiền mà ông L đã phải bỏ ra để sửa chữa máy móc.
Thứ ba, như lời khai trước tịa của ơng L thì qua q trình thực hiện hợp đồng,
ơng đã thanh tốn cho ơng T số tiền là 10 triệu tiền thuê, còn xe cần cuốc hư hỏng
nhiều, phải sửa chữa nhiều mà không khai thác được. Qua việc đối chiếu lời khai
của ông L và căn cứ Điều 477 BLDS 2015 thì việc ơng T địi số tiền th là 30
triệu cộng thêm khoản 10 triệu đã nhận trước giống trong hợp đồng là không hợp
lý. Cho dù hai bên khơng có thỏa thuận về ai sửa hỏng hóc máy móc nhưng căn cứ
Khoản 2 Điều 477 khi tài sản của người cho thuê bị giảm sút giá trị sử dụng mà
ơng L khơng biết về tình trạng hỏng hóc nói trên và ơng cũng đã phải tự sửa chữa
những hỏng hóc gây đến việc khơng thể khai thác cơng dụng máy trong một thời
gian dài vì vậy trong trường hợp này thì ơng L có thể u cầu ông T giảm giá thuê
và việc giảm giá thuê các bên có thể tự thỏa thuận sao cho phù hợp với tình trạng
và cơng năng của máy móc khi đưa vào sử dụng. Hoặc có thể nhờ tịa án căn cứ
theo Khoản 3 Điều 419 thiệt hại bồi thường do vi phạm hợp đồng “ Theo yêu cầu
10
của người có quyền, Tịa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về
tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tịa án quyết định căn cứ vào
nội dung vụ việc.”
Căn cứ vào những điều trên, nhóm cho rằng yêu cầu “trả đủ khoản tiền 30
triệu cịn thiếu, khơng u cầu ngun đơn giảm giá th và trả tiền chi phí sửa
chữa nếu ơng L chứng minh được việc sửa chữa này” của toà án là chưa hợp lí và
cần xem xét giảm giá thuê và bên nguyên đơn phải trả cho bị đơn một khoản chi
phí phù hợp khi sửa chữa máy móc để đảm bảo quyền lợi của bên thuê tài sản
trong trường hợp này.
Câu 4: Từ việc phân tích vụ án hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện các quy
định của pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, qua tình huống của bản án, theo quy định của pháp luật hiện hành
điều 477 thì “bên cho thuê tài sản phải đảm bảo tài sản thuê trong tình trạng như
đã thoả thuận, phù hợp với mục đích thuê trong suốt thời gian cho thuê;”
Đối với trường hợp hai bên không thoả hoặc thoả thuận khơng rõ ràng thì pháp
luật hiện tại quy định bên cho thuê chưa quy định bắt buộc phải thông báo tình
trạng trước khi bàn giao tài sản cho bên thuê nên khó thực hiện việc xác định trách
nhiệm phát sinh do tài sản hư hỏng. Do đó nhóm kiến nghị bổ sung: “Bên cho th
phải có nghĩa vụ thơng báo về tình trạng trước khi chuyển giao thực tế tài sản.”
Đây là cơ sở cơ bản để xác thực, thực hiện hợp đồng và là căn cứ xác định tài sản
hư hỏng trong quá trình sử dụng do lỗi của bên nào và phát sinh trách nhiệm sửa
chữa. Nếu bên th khơng trả lời về thơng báo tình trạng tài sản trong thời hạn nhất
định thì chất lượng tài sản được xác định như trong thông báo.
Thứ hai, hiện tại điều 477 quy định việc giảm giá thuê theo quan điểm của
nhóm thì u cầu giảm giá th có thể thực hiện trước khi thanh toán hợp đồng và
bàn giao trả tài sản thực tế, như vậy sẽ đảm bảo được lợi ích của bên thuê khi chất
11
lượng tài sản thuê bị giảm sút trong khi gần hết hợp đồng. Việc đảm bảo giá trị sử
dụng từ thời điểm đầu đến thời điểm kết thúc để bên thuê có đủ điều kiện xem xét
và đưa ra yêu cầu sửa chữa hay giảm giá th thì cần có thêm một khoảng thời gian
hợp lí kể từ khi ngày kết thúc hợp đồng đến trước khi thực tế trao trả tài sản.
Thứ ba, Căn cứ vào Điều 477 về Nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng tài sản thuê.
Cụ thể trong Điểm b Khoản 2 Điều 477
“ 2. Trường hợp tài sản thuê bị giảm sút giá trị sử dụng mà khơng do lỗi của bên
th thì bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê thực hiện một hoặc một số biện
pháp sau đây:..
b) Giảm giá thuê;…”
Pháp luật về hợp đồng mới chỉ quy định về các trường hợp mà tài sản thuê bị
giảm sút giá trị sử dụng mà khơng có lỗi của bên th thì có quyền yêu cầu giảm
giá thuê. Chúng ta cần có quy định rõ ràng hơn khi bên thuê phát hiện ra tài sản
th của mình hỏng hóc trong q trình thuê mà không khai thác được hoặc kém
hơn so với tình trạng bình thường thì việc giảm giá thuê sẽ được tính cụ thể tương
ứng với phần thiệt hại mà bên thuê không khai thác được và số ngày không khai
thác này phải trừ đi trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng.
Kết luận:
Quan hệ giao dịch dân sự thơng qua hợp đồng là cơ sở pháp lí quan trọng để xác
định quyền và nghĩa vụ trước các bên. Nhưng thực tiễn ln phát sinh những tình
huống mà pháp luật chưa quy định; vì thế cần có những quy định cụ thể để đảm
bảo hài hồ lợi ích của các bên. Chế định hợp đồng thuê tài sản là cơ sở pháp lí
giúp đảm bảo quyền và lợi ích của bên thuê và bên cho thuê, qua đó giúp các bên
12
tự có ý thức thực hiện nghĩa vụ đúng với quy định của pháp luật. Những điểm lưu
ý đối với chủ thể khi áp dụng chế định hợp đồng này là việc tài sản khi giao cần có
sự thoả thuận về chất lượng và bàn giao tình trạng thực tế trước khi bên thuê nhận
tài sản, từ đó việc xác định nghĩa vụ sửa chữa hay quyền yêu cầu giảm giá thuê sẽ
được áp dụng có hiệu quả.
Tài liệu tham khảo:
1, Bộ luật dân sự 2015.
2, Giáo trình luật dân sự Việt Nam tâp 2 của Đại học Luật Hà Nội.
3, Bản án 97/2021/DS-ST của Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau ngày
14/05/2021 về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản.
4, Bình luận khoa học bộ luật dân sự của nước CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM NĂM 2015 của TS. Nguyễn Minh Tuấn.
Phụ Lục bản án:
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU
BẢN ÁN 97/2021/DS-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
THUÊ TÀI SẢN
Trong ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau
xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 480/2020/TLST-DS ngày 12 tháng
11 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng thuê tài sản theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số 258/2021/QĐXXST-DS ngày 02/4/2021, giữa các đương sự:
13
- Nguyên đơn: Ông Phạm Thành T– Chủ DNTN A (có mặt). Địa chỉ: Ấp 1, xã H,
huyện N, tỉnh Cà Mau - Bị đơn: Ơng Nguyễn Chí L (có mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã H,
thành phố C, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Phạm Văn H (xin vắng mặt) Địa chỉ: Khóm 3, thị trấn U, huyện M, tỉnh Cà
Mau.
2/ Ông Phạm Thành C Địa chỉ: Ấp 1, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp của ông C: Ông Phạm Thành T; Địa chỉ: Ấp 1, xã H,
huyện N, tỉnh Cà Mau (theo văn bản ủy quyền ngày 07/12/2020). (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trình bày của Nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án,
được bổ sung tại phiên tòa thể hiện:
Ngày 13/4/2018, ông ủy quyền cho anh Phạm Thành C ký hợp đồng quy ước máy
móc thiết bị với ơng Nguyễn Chí L, mục đích là để góp vốn kinh doanh. Theo hợp
đồng, DNTN A đưa ra các tài sản: cần cuốc bánh xích COELCO, biển số 69X0164,
búa hơi hiệu Mitsubitsi HM25M số seri 220, giàn cần chế + tháp với tổng giá trị là
600 triệu đồng. Ơng Nguyễn Chí L có nghĩa vụ góp ½ giá trị tài sản là 300 triệu
đồng. Nhưng do ơng L khơng đủ tiền góp vốn theo thỏa thuận nên đến ngày
03/5/2018, đôi bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng góp vốn này mà chuyển sang
việc ông cho ông L thuê các tài sản kê trong Hợp đồng quy ước. Tài sản cho thuê
gồm: cần cuốc bánh xích COELCO, biển số 69X0164, búa hơi hiệu Mitsubitsi
HM25M số seri 220, giàn cần chế + tháp, một số dây cáp để đóng cọc cầu, khơng
có kết nước, kết nhớt, khơng dynamo sạc, thiếu bình đề máy. Thời gian thuê từ
ngày 13/4/2018 đến ngày 03/6/2018, giá thuê là 40 triệu đồng. Hết hạn thuê tài sản
trên, ông L phải chuyển trả thiết bị về bến cảng huyện Năm Căn cho DNTN A.
Việc thỏa thuận cho thuê này thể hiện tại Phụ lục hợp đồng ngày 03/5/2018.
Việc giao nhận tài sản thuê giữa đôi bên không được lập văn bản.
14
Q trình thực hiện hợp đồng th, ơng L đã trả được 10.000.000đ, còn thiếu
30.000.000đ. Hết hạn hợp đồng thuê, ông L không trả tiền thuê cũng như không
chuyển tài sản trả cho DNTN A như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đến ngày
10/11/2020, ông phải tự thuê phương tiện để chở búa hơi từ U Minh về Cà Mau hết
6.000.000đ. Hiện tại ơng đã sang nhượng tồn bộ số tài sản cho thuê cho người
khác với giá thỏa thuận là 150.000.000đ.
Tại Đơn khởi kiện ngày 12/11/2020, ông yêu cầu ông L trả số tiền thuê xe cần cuốc
còn thiếu là 40.000.000đ, bồi thường thiệt hại do chậm trả xe cần cuốc là
5.000.000đ/tháng, tính từ ngày 03/6/2018 cho đến ngày 03/8/2020 là 26 tháng bằng
130.000.000đ, trả xe COELCO biển số 69X0164 và chuyển toàn bộ tài sản thuê về
cảng Năm Căn trả cho ông, yêu cầu trả tiền thuê đến ngày giao trả đầy đủ tài sản và
tiền sửa chữa máy mọc thiết bị hoạt động như ban đầu.
Tại phiên tịa, Ơng u cầu ơng Nguyễn Chí L phải thanh tốn cho ơng các khoản
như sau:
Tiền th xe cần cuốc còn thiếu là 30.000.000đ; Đồng ý giảm số tiền bồi thường
thiệt hại do chậm trả xe cần cuốc cho ông L, yêu cầu ông L trả tiền bồi thường thiệt
hại là 50.000.000đ;
Bổ sung yêu cầu khởi kiện về việc ông L phải trả tiền vận chuyển búa hơi từ U
Minh về Cà Mau số tiền 6.000.000đ và tiền cho ông L mượn có biên nhận là
5.000.000đ.
Ơng rút một phần u cầu khởi kiện đối với ông L về việc: yêu cầu ông L trả xe
cần cuốc COELCO biển số 69X0164 và chuyển toàn bộ tài sản thuê về cảng Năm
Căn trả cho ông, yêu cầu trả tiền thuê đến ngày giao trả đầy đủ tài sản và tiền sửa
chữa máy móc thiết bị hoạt động như ban đầu.
Theo bản tự khai và trình bày của Bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án, được bổ
sung tại phiên tòa thể hiện:
Ngày 13/4/2018, ơng có ký hợp đồng quy ước máy móc thiết bị với DNTN A để
góp vốn kinh doanh nhưng do tình trạng máy móc khơng tốt nên ơng khơng thực
hiện việc góp vốn, đơi bên thỏa thuận chấm dứt Hợp đồng này và chuyển sang việc
15
ông thuê các tài sản của ông T, chủ DNTN A, với những tài sản thuê và nội dung
thỏa thuận đúng như ơng T trình bày. Khi giao nhận tài sản th, ơng khơng kiểm
tra tình trạng tài sản, khơng lập văn bản việc giao nhận tài sản, không đề cập khi tài
sản th bị hư thì ai có trách nhiệm sửa chữa.
Q trình thực hiện hợp đồng, ơng đã thanh tốn cho ơng T được 10.000.000đ tiền
th, cịn xe cần cuốc thì bị hư hỏng nhiều, phải sửa chữa luôn nên ông không khai
thác được. Hiện tại ông T đã nhận búa hơi, còn xe cần cuốc và các bộ phận kèm
theo đã được ông T sang nhượng cho người khác.
Do ngay sau khi nhận chiếc xe về thì xe bị hư hỏng, phải sửa chữa, cho đến nay
không hoạt động, khai thác được nên ông không đồng ý các khoản yêu cầu mà ông
T đã khởi kiện.
Tại bản tự khai đề ngày 27/01/2021 của ông Phạm Văn H trong q trình giải
quyết vụ án thể hiện:
Trước đây ơng Nguyễn Chí L có mượn chiếc phà của ơng để vận chuyển cần cuốc
đến cầu Hai Chu thực hiện công trình. Sau đó ơng u cầu ơng L trả chiếc phà
nhưng ông L không trả nên ông kéo chiếc phà về bỏ cần cuốc lên bãi vật liệu nhà
ông. Đối với số tiền thuê vận chuyển tài sản từ cầu Hai Chu về nhà ông là
9.800.000đ là khoản nợ riêng của ông L, không liên quan đến ông T, ông không
yêu cầu giải quyết trong vụ án này. Việc thuê mướn tài sản giữa ông T và ông L
không liên quan đến ông nên ông khước từ tham gia tố tụng, yêu cầu được hòa giải
và xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TỊA ÁN
[1] Do ơng Phạm Văn H có yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự
[2] Tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp hợp đồng thuê tài
sản nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[3] Đối với yêu cầu khởi kiện đòi tiền th tài sản của ơng T: Tại phiên tịa, ông T
và ông L đều thừa nhận, ông L có thuê của ông T, là chủ DNTN A, xe cần cuốc
bách xích COELCO biển số 69X0164, búa hơi, giàn cần chế và tháp với thời hạn
16
thuê từ ngày 13/4/2018 đến ngày 03/6/2018 với tổng số tiền th là 40.000.000đ,
q trình thực hiện hợp đồng, ơng L đã trả được 10.000.000đ, còn thiếu
30.000.000đ. Xét thấy, việc thừa nhận này của ông T và ông L là tự nguyện, phù
hợp với thỏa thuận tại Phụ lục hợp đồng ngày 03/5/2018 (bút lục số 39, 40) nên
việc ông T khởi kiện yêu cầu ông L trả 30.000.000đ tiền th tài sản cịn thiếu là có
cơ sở chấp nhận.
[4] Đối với yêu cầu khởi kiện bồi thường thiệt hại do chậm trả tài sản thuê số tiền
50.000.000đ của ông T, xét thấy, thời hạn thuê tài sản giữa ông T và ông L kết thúc
vào ngày 03/6/2018, nhưng quá thời hạn này, ông L không giao trả tài sản thuê cho
ông T theo như thỏa thuận nên ông T có quyền u cầu ơng L bồi thường thiệt hại
do chậm giao trả tài sản thuê. Tuy nhiên, ông T không cung cấp được chứng cứ
chứng minh những thiệt hại thực tế đã xảy ra nên khơng có đủ cơ sở chấp nhận.
[5] Đối với khởi kiện bổ sung yêu cầu ông L trả tiền vận chuyển búa hơi từ U Minh
về Cà Mau là 6.000.000đ và tiền cho mượn là 5.000.000đ, xét thấy, những nội
dung ông T khởi kiện bổ sung này vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu nên căn cứ
vào khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận
việc khởi kiện bổ sung. Ơng T có quyền khởi kiện những yêu cầu này trong một vụ
án khác.
[6] Ông T rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với ông L về việc: yêu cầu ông L trả
xe cần cuốc COELCO biển số 69X0164, chuyển toàn bộ tài sản thuê về cảng Năm
Căn trả cho ông; yêu cầu trả tiền thuê đến ngày giao trả đấy đủ tài sản và tiền sửa
chữa máy móc thiết bị hoạt động như ban đầu, căn cứ vào khoản 2 Điều 244 Bộ
luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần u
cầu ơng T đã rút.
[7] Ông Phạm Văn H xác định khoản tiền vận chuyển tài sản thuê từ cầu Hai Chu
về nhà ông là 9.800.000đ, là khoản nợ riêng giữa ông với ơng L, khơng u cầu
Tịa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét đến.
[8] Ơng L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với khoản tiền phải trả cho ông T
theo quy định.
17
Ông T là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên được miễn nộp tiền án phí dân
sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 26, 147, 228, 244 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 12, 14
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tịa án;
các Điều 472, 481 và khoản 4 Điều 482 Bộ luật dân sự;
1/ Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Thành T về việc:
yêu cầu ông Nguyễn Chí L trả xe cần cuốc hiệu COELCO biển số 69X0164,
chuyển toàn bộ tài sản thuê về cảng Năm Căn trả cho ông; yêu cầu trả tiền thuê đến
ngày giao trả đầy đủ tài sản và tiền sửa chữa máy móc thiết bị hoạt động như ban
đầu.
2/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Thành T.
Buộc ơng Nguyễn Chí L thanh tốn tiền th tài sản còn thiếu là 30.000.000đ (Ba
mươi triệu đồng chẵn).
Kể từ ngày ơng T có đơn u cầu thi hành án, ông L không tự nguyện thi hành
xong khoản tiền nêu trên thì cịn phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất
quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm
thi hành.
3/ Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Thành T về việc
yêu cầu ông Nguyễn Chí L bồi thường thiệt hại số tiền 50.000.000đ.
4/ Án phí dân sự sơ thẩm:
Ơng Nguyễn Chí L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 1.500.000đ (chưa nộp).
Ông Phạm Thành T được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ơng T đã được
miễn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm.
18
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Ơng T, ơng L và anh C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Ơng H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết.
19