Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Xác định thời hiệu khởi kiện và thủ thục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với vụ việc tranh chấp về quyền thừa kế tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.46 KB, 5 trang )

Xác định thời hiệu khởi kiện và thủ tục áp dụng biên pháp khẩn cấp
tạm thời đối với vụ việc tranh chấp về quyền thừa kế tài sản
Ông A chết ngày 6/7/1993. Vợ ông A là bà B chết ngày
10/10/1994. Ông bà A, B có các con là M, N, P và để lại tài sản là
căn nhà trên diện tích đất 200m2. Hiện tại, toàn bộ tài sản trên
của ông bà A, B là do M quản lý, sử dụng. Vì được biết anh M đang
rao bán nhà đất trên cho X với giá 1.5 tỷ đồng nên ngày 12/3/2007
N, P đã khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản là nhà đất mà ông bà
A, B để lại. Hỏi:
1. Hãy xác định thời hiệu khởi kiện đối với vụ việc trên
2. N, P đã nộp đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đối với căn nhà trên. Hãy xác định biện pháp khẩn cấp
tạm thời mà Tòa án có thể áp dụng và thủ tục áp dụng biện pháp
đó?
Thuật ngữ viết tắt:
Bộ luật tố tụng dân sự :BLTTDS
Bộ luật dân sự

:BLDS

1. Thời hiệu khởi kiện đối với vụ việc trên
Vụ việc trên nếu thuộc tranh chấp về quyền thừa kế tài sản thì thời
hiệu khởi kiện là 10 năm kể từ ngày mở thừa kế, và trong tình
huống này được xác định là đã hết thời hiêu khởi kiện. Tuy nhiên,
nếu đây được xác định là tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài
sản chung thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn vì thuộc trường hợp
không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế.


Căn cứ vào Điểm a Khỏan 3 Điều 159 BLTTDS và Tiểu mục 2.1 mục
2 phần IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành


một số quy định chung trong phần thứ nhất “ Những quy định
chung” của BLTTDS thì thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về
thừa kế tài sản được xác định theo văn bản quy phạm pháp luật có
quy định về thời hiệu khởi kiện, và cụ thể ở đây là theo quy định
của BLDS năm 2005 và các văn bản khác có liên quan.
Điều 645 BLDS năm 2005 có quy định: “ Thời hiệu khởi kiện để
người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của
mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể
từ thời điểm mở thừa kế” . Trong đó thời điểm mở thừa kế ở đây là
thời điểm người có tài sản chết (Điều 633 BLDS năm 2005). Như
vậy, tính đến thời điểm ngày 12/3/2007 thì đã quá thời hiệu 10
năm kể từ thời điểm ông A hoặc bà B chết.
Về nguyên tắc, khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì các bên không
còn quyền khởi kiện đối với các tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên
trên thực tế giải quyết các tranh chấp về thừa kế tài sản thì pháp
luật vẫn cho phép áp dụng trường hợp không xác định thời hiệu
khởi kiện về thừa kế quy định tại Tiểu mục 2.4 mục 1 phần I Nghị
quyết số 02/2004/NĐ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó tại
Điểm a có quy định: “…khi kết thúc thời hạn mười năm mà các
đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa
nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển
thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu
Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế,
mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để


giải quyết…”. Như vậy, điểu kiện để không áp dụng thời hiệu về
chia thừa kế là giữa các đồng thừa kế không có tranh chấp về
hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa

chia.
Trong tình huống bài ra, M, N, P là những người thuộc cùng hàng
thừa kế thứ nhất nên không có tranh chấp về hàng thừa kế. Trong
trường hợp này, nếu M xác nhận tài sản mà ông bà A, B để lại là
tài sản chưa chia thì sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện về
quyền thừa kế và N, P vẫn có thể khởi kiện ra tòa về chia tài sản
chung.
2. Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà tòa án có thể áp dụng và thủ
tục áp dụng biện pháp đó.
Căn cứ vào Điều 102 BLTTDS thì tòa án có thể áp dụng biện pháp
“cấm dịch chuyển quyền tài sản” đối với căn nhà.
Điều 109 BLTTDS năm 2004 có quy định cụ thể về biện pháp “Cấm
chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp”
được áp dụng trong trường hợp có căn cứ cho thấy người đang
chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển
dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người
khác. Do đó trong trường hợp M có hành vi rao bán căn nhà đang
tranh chấp cho X thì N, P có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện
pháp “cấm dịch chuyển quyền tài sản” đối với căn nhà.
*Thủ tục áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 117, Điều
120 BLTTDS. Theo đó gồm các bước sau:


- Người yêu cầu (N,P) làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền yêu
cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong đơn yêu
cầu phải nêu rõ ngày, tháng, năm viết đơn; Tên, địa chỉ của người
có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tên, địa chỉ của
người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tóm tắt nội
dung tranh chấp hoặc hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp
của mình; Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ
thể.
Bên cạnh đó, cùng với đơn, người yêu cầu cần cung cấp cho Tòa án
chứng cứ để chứng minh sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời này.
- Thông thường, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ
xem xét, giải quyết đơn của người yêu cầu trong thời hạn 3 ngày
kể từ ngày nhận đơn nếu người đưa ra yêu cầu không phải thực
hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện
pháp bảo đảm.
+ Đối với biện pháp khẩn cấp cấm chuyển dịch quyền về tài sản
đối với tài sản đang có tranh chấp thì theo luật định người yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này phải thực hiện biện
pháp bảo đảm, nghĩa là đương sự phải xuất trình chứng cứ chứng
minh đã nộp một khoản tài sản bảo đảm (do thẩm phán ấn định)
tại ngân hàng khi đó thẩm phán mới ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Khoản tài sản này (tiền, kim khí quý, đá
quý hoặc giấy tờ có giá) phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà
người có nghĩa vụ phải thực hiện theo hướng dẫn tại Mục 8 Nghị


quyết số 02/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định
tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS.
Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông
báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.Trường
hợp Hội đồng xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời tại phiên toà thì Hội đồng xét xử xem xét ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay hoặc sau khi
người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm.
Đối với những tình thế khẩn cấp cần phải bảo vệ ngay bằng chứng,

ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì chánh án phải
chỉ định ngay một thẩm phán giải quyết và thời hạn để ra quyết
định là 48 giờ kể từ khi nhận đơn yêu cầu và các chứng cứ kèm
theo. Nếu không chấp nhận yêu cầu thì thẩm phán đó cũng phải
thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
+ Đối với biện pháp khẩn cấp cấm chuyển dịch quyền về tài sản
đối với tài sản đang có tranh chấp thì thời hạn thực hiện biện pháp
bảo đảm này không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu
cầu.



×