Sưu tầm bản án sơ thẩm liên quan đến tranh chấp về bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng mà theo quan điểm của nhóm các phán quyết đưa ra
trong bản án là chưa phù hợp và giải quyết các yêu cầu.
MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống ngày nay, hợp đồng dân sự là giao kết được thực hiện với số
lượng rất lớn, thông dụng và phổ biến. Hơn thế nữa, trong thực tiễn giao lưu dân sự, nhu
cầu về giao kết hợp đồng dân sự đang trở thành vấn đề cấp thiết, phong phú về nội dung,
đa dạng về đối tượng. Hàng ngày có vơ số các hợp đồng dân sự được thỏa thuận kí kết,
từ những hợp đồng sinh hoạt đơn giản thường như: gửi giữ chiếc xe đạp, mua bán tivi, tủ
lạnh, vay mượn hay những hợp đồng phức tạp: hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng
đất, mua bán nhà ở, hàng hóa với số lượng lớn.... Nhưng đi cùng với đó là rất nhiều
những bất cập, tranh chấp vì vơ vàn những lí do nhưng đặc biệt nhất là do vi phạm hợp
đồng dẫn đến tranh chấp giữa đôi bên. Chính vì lẽ đó nhóm chúng em xin chọn đề bài
số 7: “ Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm liên quan đến tranh chấp về bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng mà theo quan điểm của nhóm các phán quyết đưa ra trong vụ
án là chưa phù hợp” và giải quyết các yêu cầu:
1. Từ bản án đã sưu tập được, hãy tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng tình huống dài tối
đa 1 trang A4.
2. Hãy chỉ ra phán quyết mà Toà án đưa ra chưa phù hợp ở những nội dung nào và giải
thích tại sao.
3. Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết tranh chấp phù hợp với yêu cầu
của pháp luật hiện hành.
4. Từ việc phân tích vụ án hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật
hiện hành.
NỘI DUNG
I.
TÓM TẮT NỘI DUNG BẢN ÁN
Theo bản án sơ thẩm số 03/2018/KDTM - ST ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Tòa án
nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, nội dung bản án như sau: Ngày 02/01/2017,
công ty B (bên mua) ký hợp đồng số 006 với công ty SN (bên bán) về việc thu mua tinh
bột khoai mì với giá 7.000 đồng/kg. Ngồi ra 02 bên cịn thỏa thuận bên vi phạm hợp
đồng sẽ phải chịu phạt 8% phần giá trị nghĩa vụ bị vi phạm. Thời hạn có hiệu lực của
hợp đồng từ ngày 02/01/2017 đến hết ngày 31/12/2017. Ngày 21/08/2021, công ty B đặt
mua 500 tấn tinh bột khoai mì, đơn giá 7.000/kg, trị giá lô hàng là 3,5 tỉ đồng và bên SN
đã ký xác nhận. Cùng ngày, hai bên đã ký phụ lục hợp đồng số 02 thống nhất về số
lượng, đơn giá và thời gian giao hàng. Theo đó, cơng ty SN có nghĩa vụ giao hàng từ
01/10/2017 đến 31/12/2017, số lượng và ngày hàng được thực hiện theo thông báo giao
hàng của công ty B. Khi ký hợp đồng, công ty B đã đưa ra thỏa thuận: “ Nếu tình hình
dịch khảm lá khoai mì một lần nữa diễn ra thì giá mua vẫn giữ nguyên theo thỏa thuận
7.000đ/kg và công ty SN phải có mọi biện pháp để cung cấp đủ nguồn hàng như đã thỏa
thuận trong hợp đồng”. Sau đó, hai bên đã đồng ý và ký vào hợp đồng. Ngày
14/10/2017, công ty B thông báo yêu cầu công ty SN giao 150 tấn tinh bột khoai mì vào
các ngày 17,21,25,26,30 tháng 10/2017, mỗi ngày giao 30 tấn. Tuy nhiên, công ty SN
xác nhận tại thông báo trên của công ty B về việc không đáp ứng được đơn hàng do
nguồn nguyên liệu đầu vào khan hiếm. Ngày 17/10/2017, công ty SN gửi thông báo cho
công ty B về việc khơng cung cấp tinh bột khoai mì. Do đó,ngày 01/11/2017, cơng ty B
có văn bản gửi cơng ty SN yêu cầu thực hiện hợp đồng, trường hợp không thực hiện
nghĩa vụ thì cơng ty SN phải bồi thường thiệt hại, chịu phạt vi phạm nhưng công ty SN
vẫn không thực hiện. Để kịp sản xuất, ngày 20/11/2017, công ty B đã kí hợp đồng mua
500 tấn tinh bột khoai mì của cơng ty HD với đơn giá 10.500 đồng/kg, giá trị đơn hàng
là 5,2 tỉ đồng. Vì vậy, cơng ty B yêu cầu công ty SN phải chịu phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, cụ thể: - Tiền phạt vi phạm hợp đồng theo thỏa
1
thuận: 500.000kg x 7.000 đồng/kg x 8% = 280.000.000 đồng; - Tiền bồi thường thiệt hại
về chênh lệch giá: (10.500 đồng - 7.000 đồng) x 500.000kg = 1.750.000.000 đồng. Tổng
cộng: 2.030.000.000 đồng và cơng ty B khơng u cầu tính tiền lãi. Về phía bị đơn trình
bày: Về u cầu bồi thường: công ty SN không đồng ý với yêu cầu phạt vi phạm hợp
đồng số tiền 280 triệu. Ngày 21/08/2017, công ty SN nhận được đơn đặt hàng của cơng
ty B nhưng sau đó khơng đáp ứng được. Lý do phía cơng ty SN đưa ra là: do dịch bệnh
khảm lá cây khoai mì là sự kiện bất khả kháng gây khó khăn trong việc thu mua nguyên
liệu với giá cao (sau khi ký phụ lục HĐ ngày 21/8/2017 Tỉnh Tây Ninh có xảy ra dịch
bệnh khảm lá khoai mì). Ngày 26/09/2017, cơng ty có nguồn hàng và muốn tăng giá lên
9.500 đồng/kg nhưng công ty B không đồng ý. Đến 14/10/2017, công ty B yêu cầu công
ty SN thực hiện giao hàng cho nhu cầu tháng 10/2017 việc này đã gây áp lực cho công
ty SN. Do thời hạn hợp đồng giao hàng chưa hết hạn (ngày 31/12/2017) nên thông báo
ngày 01/11/2017 của Công ty B yêu cầu giao hàng hoặc bồi thường thiệt hại, công ty SN
không phản hồi bằng văn bản. Về yêu cầu bồi thường: công ty SN không đồng ý với yêu
cầu phạt vi phạm hợp đồng số tiền 280 triệu. Lý do được đưa ra: thứ nhất, các bên thỏa
thuận chỉ thỏa thuận phạt vi phạm do chậm giao hàng (HĐ nguyên tắc 006) nhưng
không thỏa thuận vừa phạt vi phạm vừa BTTH. Thứ hai, do chưa hết hạn hợp đồng mà
công ty B đơn phương chấm dứt hợp đồng và ký hợp đồng với công ty HD. Công ty SN
không đồng ý yêu cầu BTTH 1,75 tỉ đồng của công ty B: thứ nhất, các bên không thỏa
thuận BTTH) và thứ hai, cơng ty SN cho rằng dịch khảm lá khoai mì là sự kiện bất khả
kháng nên theo tinh thần của Bộ luật dân sự 2015 thì khơng phải BTTH. Quyết định của
Tòa: Tuyên bố chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của công ty B đối với công ty SN
về việc yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, buộc công ty SN trả cho công ty B số tiền 280
triệu đồng; Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty B yêu cầu công ty SN bồi
thường thiệt hại số tiền 1,75 tỉ đồng.
2
II.
Những điểm chưa phù hợp trong quyết định hoặc bản án sơ thẩm và cách
lýgiải
1. Nhận định vấn đề
Giao dịch giữa Công ty Cổ phần B và Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN trong
bản án trên liên quan đến hợp đồng về mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ
chuyển giao hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền bán hàng
hóa, cịn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa mua và trả tiền cho bên bán theo thời hạn,
số lượng và phương thức các bên đã thoả thuận.
2. Những điểm chưa phù hợp trong quyết định của Tòa án và cách lý giải
Thứ nhất , tại Khoản 2 Điều 351 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ Trường hợp
bên có nghĩa vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải
chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác”.Theo nội dung của bản án sau khi ký phụ lục hợp đồng số 2 ngày 21-8-2017, trên
địa bàn tỉnh Tây Ninh đã có dịch bệnh khảm lá cây khoai mì. Cơng ty SN cho rằng đó là
một sự kiện bất khả kháng ảnh hưởng đến giá của nguyên liệu đầu vào tăng cao vì vậy
khơng phải bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên trong hợp đồng hai bên đã thỏa thuận về sự kiện bất khả kháng do đó cơ quan
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp viện dẫn định nghĩa sự kiện bất khả kháng quy định
tại Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xem xét 03 yếu tố: khách quan,
không thể lường trước và không thể khắc phục. Do dịch bệnh, nơi có ngun liệu đầu
vào khơng thể cung ứng cho Cơng ty B theo kế hoạch thì Cơng ty SN phải tìm kiếm
nguồn ngun liệu khác thay thế để bảo đảm thực hiện đúng theo hợp đồng cho Cơng ty
B, dù chi phí cao hơn dự kiến ban đầu. Vì vậy, trường hợp này khơng được xem là ‘sự
kiện bất khả kháng’ vì “có thể khắc phục được”
3
Thứ hai, theo Điều 360 BLDS 2015về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ quy định : “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có
nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật
có quy định khác”.Trong trường hợp này các bên khơng có thỏa thuận gì về bồi thường
thiệt hại, nhưng vì hành vi vi phạm của cơng ty SN mà bên công ty B đã phải chịu tổn
thất là 1,75 tỷ đồng do chênh lệch giá khi phải kí kết hợp đồng với công ty HD để kịp
tiến độ sản xuất của cơng ty.
Do đó tại bản án Sơ Thẩm tịa án khơng chấp nhận u cầu khởi kiện của Công ty Cổ
phần B yêu cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN bồi thường thiệt hại số tiền
1.750.000.000 (một tỷ bảy trăm năm mươi triệu) là chưa thỏa đáng và trái với quy định
của luật
III.
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Quan điểm của nhóm về giải quyết vụ việc này phù hợp với quy định của pháp luật như
sau:
Theo Công ty SN không đồng ý yêu cầu BTTH 1,75 tỉ đồng của công ty B:
+ Thứ nhất, các bên không thỏa thuận BTTH.
+ Thứ hai, công ty SN cho rằng dịch khảm lá khoai mì là sự kiện bất khả kháng nên
theo tinh thần của Bộ luật dân sự 2015 thì sẽ được miễn trừ trách nhiệm BTTH.
Đối với lý do thứ nhất của cơng ty SN, theo nhóm trong vụ việc này công ty SN đã vi
phạm nghĩa vụ được giao kết trong hợp đồng với bên công ty B. Nghĩa vụ của công ty
SN là phải giao hàng đúng thời hạn, giao 150 tấn tinh bột khoai mì vào các ngày
17,21,25,26,30 tháng 10/2017 cho công ty B. Tuy nhiên công ty SN đã không thực hiện
nghĩa vụ này với công ty B. Theo Điều 360 BLDS 2015 về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm nghĩa vụ đã quy định : ‘Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây
ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận
4
khác hoặc luật có quy định khác”. TheoKhoản 2 Điều 361 BLDS 2015về thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ quy định: 'Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định
được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt
hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”. Do đó trong trường hợp này các bên
khơng có thỏa thuận gì về bồi thường thiệt hại, nhưng vì hành vi vi phạm của cơng ty
SN mà bên công ty B đã phải chịu tổn thất là 1,75 tỷ đồng để kịp tiến độ sản xuất của
công ty. Thêm nữa theo quy định tại Điều 418 BLDS năm 2015, thì các bên có thể thoả
thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải BTTH
hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải BTTH. Các bên có thể thỏa thuận trước về
việc BTTH cũng như xác định trước trong hợp đồng một mức bồi thường cụ thể bằng
tiền. Tuy nhiên, khác với phạt vi phạm là chỉ được áp dụng nếu như các bên có thỏa
thuận trước về phạt vi phạm, đối với BTTH, cho dù các bên có thỏa thuận về vấn đề
BTTH do vi phạm hợp đồng hay khơng, thì khi xảy ra thiệt hại, bên gây thiệt hại vẫn
phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm BTTH nhắm tới mục đích
quan trọng nhất là bồi hồn, bù đắp, khơi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên bị vi
phạm. Như vậy, BTTH là chế tài quan trọng và cơ bản nhất nhằm bảo đảm lợi ích của
các bên khi hợp đồng bị vi phạm, tạo ra khả năng đảm bảo lợi ích một cách tối đa cho
mọi bên có liên quan trong quan hệ hợp đồng.Vì vậy cơng ty SN phải bồi thường cho
công ty 1,75 tỷ đồng là hợp lý
Đối với lý do thứ hai của công ty SN, theo khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định “Sự
kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được
và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng
cho phép”. Theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015:“Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng
thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân
sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Tuy nhiên
trong trường hợp của công ty SN, dịch bệnh khảm lá khảm lý khoai mì đúng là xảy ra
một cách khách quan không thể lường trước được, nhưng công ty SN lại không áp dụng
5
mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép để khắc phục hậu quả. Bằng chứng cho
việc này là theo hợp đồng công ty SN phải giao bột khoai mì cho cơng ty vào các ngày
17,21,25,26,30 tháng 10/2017. Ngày 26/09/2017, cơng ty có nguồn hàng và muốn tăng
giá lên 9.500 đồng/kg nhưng công ty B không đồng ý. Vậy có nghĩa là cơng ty SN có
nguồn hàng để cung cấp cho công ty B nhưng họ đã không làm vậy vì cơng ty B khơng
đồng ý tăng giá lên 9.5000 đồng/kg. Do đó, đây khơng thể xem là sự việc bất khả kháng.
Ngồi ra, trong hợp đồng giữa cơng ty B và cơng ty SN có điều khoản: ‘nếu tình hình
dịch khảm lá khoai mì một lần nữa diễn ra thì giá mua vẫn giữ nguyên theo thỏa thuận
7.000đ/kg và cơng ty SN phải có mọi biện pháp để cung cấp đủ nguồn hàng như đã thỏa
thuận trong hợp đồng’.
Vậy có thể thấy, hai lý do mà phía Cơng ty SN đưa ra để không phải bồi thường 1,75 tỷ
đồng cho công ty B là không hợp lý. Công ty B có quyền u cầu cơng ty SN bồi thường
thiệt hại là 1,75 tỷ đồng cho công ty B. Theo nhóm tịa nên chấp nhận u cầu địi cơng
ty SN bồi thường thiệt hại của công ty B với số tiền là 1,75 tỷ đồng.
IV.
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
- Thứ nhất, phải thống nhất các quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng giữa bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005
Với vai trò là hai đạo luật quan trọng nhất điều chỉnh về hợp đồng nói chung và chế tài
BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại nói riêng, nhưng ngay trong bộ Luật Dân sự
2015 và Luật Thương mại 2005 đã có các quy định chưa thống nhất với nhau: nếu bộ
Luật Dân sự 2015 ghi nhận yếu tố lỗi là một trong các căn cứ phát sinh trách nhiện
BTTH, thì trong Luật Thương mại 2005 không ghi nhận yếu tố lỗi. Bên cạnh đó, bộ Luật
Dân sự 2015 yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về vật chất và tinh
thần cho bên bị thiệt hại trong khi đó, Luật Thương mại 2005 lại xác định phạm vi bồi
thường thiệt hại là giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên
vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có
hành vi vi phạm. Vì vậy phải đảm bảo sự thống nhất của các văn bản pháp luật. Việc
6
hoàn thiện các quy định pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại không thể
tiến hành một cách độc lập mà phải tính đến sự thống nhất, tính đồng bộ trong tồn hệ
thống pháp luật, tránh sự chông chéo, mâu thuẫn, đặc biệt phải xét đến mối quan hệ giữa
bộ Luật Dân sự với Luật Thương mại . Những quy định mang tính nguyên tắc cần được
loại bỏ khỏi luật chuyên ngành và cần tham chiếu theo các quy định trong bộ Luật Dân
sự. Luật Thương mại chỉ quy định các nội dung đặc thù về quyền và nghĩa vụ của các
bên trong một số hợp đồng được thương nhân xác lập phục vụ cho hoạt động kinh doanh
thương mại của mình. Hơn nữa, cần có sự so sánh, đối chiếu quy định trong Luật
Thương mại với các VBPL có liên quan để đảm bảo sự thống nhất, phù hợp khi áp dụng
trên thực tế.
- Thứ hai, Bộ luật Dân sự năm 2015 cần tách riêng quy định bất khả kháng
thành một điều luật và quy định thêm những tiêu chí cụ thể để xác định sự
kiện bất khả kháng.
Mặc dù, sự kiện bất khả kháng là một trong những căn cứ loại trừ trách nhiệm pháp lý
phổ biến trên thực tế, là quy định được áp dụng trong nhiều chế định từ sở hữu, nghĩa
vụ, hợp đồng, bồi thường thiệt hại,.... Tuy có vai trị vơ cùng quan trọng như vậynhưng
trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, khái niệm sự kiện bất khả kháng
được quy định cịn sơ sài, khơng có quy định cụ thể trong chế định nghĩa vụ và hợp
đồng về sự kiện bất khả kháng. Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ đặt ra
quy định sự kiện bất khả kháng liên quan đến phần thời hiệu chứ không phải là một quy
định cụ thể hoặc khái niệm cụ thể về sự kiện bất khả kháng. Luật Thương mại năm
2005cũng khơng có quy định nào đề cập cụ thể về khái niệm sự kiện bất khả kháng. Tại
các Điều 294, 295 và 296 Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định về sự kiện bất khả
kháng, tuy nhiên, quy định theo hướng khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra, bên vi phạm
hợp đồng phải có sự thơng báo ngay cho bên kia về trường hợp loại trừ trách nhiệm
trong một khoảng thời gian thích hợp, nếu khơng thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi
7
thường thiệt hại. Bởi vậy, cần phải có một số sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn về quy
định liên quan đến sự kiện bất khả kháng.
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích và giải quyết tình huống trong vụ án trên, ta có thể thấy quan
hệ dân sự thơng qua hợp đồng là cơ sở quan trọng để xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các
bên. Nhưng bên cạnh đó thực tiễn còn tồn tại rất nhiều những bất cập, lỗ hổng, các văn
bản pháp luật còn chồng chéo, chưa thống nhất với nhau đặc biệt là những quy định về
trách nhiệm BTTH do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Đồng thời, đó cũng là nguyên nhân
dẫn đến những sai sót trong q trình xét xử của Tịa án khiến những phán quyết chưa
thực sự chính xác và cơng bằng. Trên đây là những kiến thức, tìm hiểu mà nhóm 2
chúng em đã tiếp thu về vấn đề này trong thời gian học vừa qua. Có thể bài làm cịn
nhiều thiếu sót mong thầy cơ có thể bổ sung, đóng góp ý kiến cho bài làm sau của chúng
em hồn thiện hơn. Em xin trân trọng cảm ơn thầy cô!
8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam Tập II, Nxb Công an nhân dân
2. Bộ Luật Dân sự 2015, Nxb Lao động
3. Luật Thương mại 2005
4. />
boi-thuong-thiet-hai-do-vi-pham-hop-dong-thuong-mai-va-thuc-tien-ap-dung
/>
9