Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.6 KB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ YẾN

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI ĐĂNG HIẾU

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn “Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” xin cam đoan:
- Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả;
- Luận văn được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Bùi Đăng Hiếu.
- Những thông tin, số liệu, bản án được trích dẫn trong luận văn đầy đủ, trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng.
- Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong các luận văn
khác.


Tác giả luận văn

Lê Thị Yến


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

3

4. Phương pháp nghiên cứu

4

5. Kết quả nghiên cứu mới và giá trị ứng dụng của đề tài

5


6. Kết cấu của luận văn

5

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

6

DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG.
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự và thực hiện hợp đồng dân sự

6

1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự

6

1.1.2. Thực hiện hợp đồng dân sự

8

1.1.3. Trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng

11

1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi

14


phạm hợp đồng
1.2.1. Khái niệm

14

1.2.2. Đặc điểm

15

1.2.3. So sánh tương quan giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và

17

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.2.4. Mối quan hệ giữa bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm.

20

CHƯƠNG 2: CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI

22

THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG - PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
2.1. Hành vi vi phạm hợp đồng

22

2.1.1. Hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện tiên quyết để xem xét trách


22


nhiệm bồi thường thiệt hại
2.1.2. Những hình thái của hành vi vi phạm hợp đồng

24

2.2. Thiệt hại thực tế.

28

2.2.1. Những loại thiệt hại được bồi thường

28

2.2.2. Giá trị bồi thường thiệt hại

30

2.2.3. Nghĩa vụ chứng minh tổn thất và nghĩa vụ hạn chế tổn thất

34

2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế.

36

2.4. Yếu tố lỗi


37

2.4.1. Khái niệm lỗi

37

2.4.2. Vai trò của yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm bồi thường

39

thiệt hại
2.4.3. Nghĩa vụ chứng minh lỗi

41

CHƯƠNG 3 : CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN VÀ GIẢM

43

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
VI PHẠM HỢP ĐỒNG - PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT.
3.1. Các truờng hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm

43

hợp đồng.
3.1.1. Xảy ra sự kiện bất khả kháng.

43


3.1.1.1. Khái niệm sự kiện bất khả kháng

43

3.1.1.2. Xác định sự kiện bất khả kháng trong thực tế.

45

3.1.2. Hành vi của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia.

47

3.1.3. Các bên có thỏa thuận trong hợp đồng.

48

3.1.4. Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan

51

nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm
giao kết hợp đồng.
3.2. Trường hợp giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng.

53


3.2.1. Các bên thỏa thuận trong hợp đồng.


53

3.2.2. Nghĩa vụ hạn chế tổn thất.

54

3.3. Pháp luật của một số nước trên thế giới về trường hợp miễn và giảm

58

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

60

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG.
4.1. Đánh giá chung về xu hướng vi phạm hợp đồng tại Việt Nam trong

60

những năm gần đây.
4.2. Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bồi thường

62

thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự.
4.2.1. Kiến nghị hoàn thiện về điều kiện xác định bồi thường thiệt hại


62

trong hợp đồng dân sự.
4.2.2. Kiến nghị hoàn thiện về các trường hợp miễn và giảm trừ trách

64

nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự.
PHẦN KẾT.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
PHỤ LỤC.

67


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS 1995 : Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1995
BLDS

: Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2005

LTM

: Luật thương mại 2005

Tr

: Trang



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hợp đồng là một trong những giao dịch dân sự rất phổ biến hiện nay. Cùng với
việc phát triển không ngừng của nền kinh tế nước ta thì các giao dịch hợp đồng diễn
ra rất sôi nổi và cũng tăng lên về số lượng, quy mô... Mỗi bên chủ thể đều đặt ra
những mục đích nhất định mong muốn sẽ đạt được khi giao kết hợp đồng. Do đó, họ
đưa ra những thỏa thuận trong hợp đồng để đạt được mục đích đó.
Trong những năm qua cùng với cơ cấu kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ
thì các tranh chấp hợp đồng cũng phát sinh ngày một nhiều hơn.Xét đến cùng thì các
bên đều muốn lợi ích thuộc về mình mà không cần quan tâm đến nguyên tắc giao kết
hợp đồng dân sự “tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng”.
Trong trường hợp có sự vi phạm hợp đồng thì mục đích ban đầu của các bên khi giao
kết hợp đồng khó có khả năng đạt được. Do đó, các bên phải sử dụng đến chế tài về
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng để có thể bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Hai hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mà pháp luật Việt Nam
quy định là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, xuất phát từ việc phân chia các quan hệ hợp đồng thành những lĩnh
vực riêng biệt và được điều chỉnh bởi quy định của các văn bản pháp luật khác nhau
mà các quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng cũng rơi vào tình trạng
là thiếu thống nhất trong điều chỉnh bằng pháp luật. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng
đã có nhiều tranh cãi và lợi dụng những mâu thuẫn giữa các văn bản này không ít bên
trong quan hệ hợp đồng lợi dụng để trục lợi cho bản thân. Chính vì vậy, những vấn đề
pháp lý về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự có ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong các quan hệ hợp đồng
cũng như việc tuân thủ pháp luật.
Có thể thấy rằng với yêu cầu của xã hội hiện nay, đòi hỏi có một sự thống nhất
và rõ ràng trong các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại để có thể áp dụng

và giải quyết nhanh chóng các tranh chấp hợp đồng đồng thời tạo tâm lý an toàn để


2

thu hút các hoạt động đầu tư, giao kết hợp đồng là phù hợp với mong muốn của nhân
dân trong thời buổi kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hóa. Do vậy, việc nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự có vai trò quan trọng trong việc xác định chính
xác vai trò của nó là gì, sự can thiệp của pháp luật đến đâu, với mức độ như thế nào là
hợp lý. Có như vậy mới đảm bảo cho các giao dịch dân sự diễn ra trong môi trường
công bằng nhưng cũng không làm mất đi quyền tự do thỏa thuận giữa các chủ thể.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về
“Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, tác giả hi vọng sẽ hệ thống lại và phân tích những vấn đề về lý luận, thực tiễn,
từ đó đóng góp một số giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, bao gồm cả bồi thường thiệt hại được quy
định chủ yếu trong Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 1997, Bộ luật dân sự 2005
hiện nay, Luật thương mại 2005 hiện nay và trong một số văn bản quy phạm pháp
luật khác của nước ta. Cho đến thời điểm này, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
khoa học chất lượng, có giá trị tham khảo cao nghiên cứu chuyên sâu về bồi thường
thiệt hại nói riêng, hay thông qua chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng như:
 Luận văn thạc sỹ “Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng” (2006) của thạc sỹ
Đinh Hồng Ngân;
 Sách tham khảo “Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế” (2007) của
nhóm tác giả Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ, Dương Anh Sơn;
 Sách tham khảo “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” (2007)
của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh;
 Sách tham khảo “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng

trong pháp luật Việt Nam” (2010) của TS. Đỗ Văn Đại;


3

 Bài viết “Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua Luật
Thương mại Việt Nam, Công ước CISG và Bộ nguyên tắc UNIDROIT”, (2009) của
tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh;
 Bài viết “Một số điểm khác nhau trong chế độ trách nhiệm đối với vi phạm
hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Australia” của thạc sỹ Nguyễn Thị
Minh trên tạp chí Luật học số 2/1999;


Bài viết “Trách nhiệm dân sự - so sánh và phê phán” của Ngô Huy Cương

(2009) trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp Số (5(142);
 Bài viết “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự” (2004) của tác giả Phạm
Kim Anh;
 Bài viết “Tác động của các hình thức lỗi đến xác định trách nhiệm hợp đồng
nhìn từ góc độ nguyên tắc trung thực và thiện chí” (2007) của các tác giả Dương Anh
Sơn, Nguyễn Ngọc Sơn;
 Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng”,
(2011) của Trần Việt Anh.
Các công trình nghiên cứu trên phân tích, so sánh với pháp luật thế giới và
đánh giá những quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại nói riêng
hay trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói chung, về bồi thường thiệt hại so sánh với
phạt vi phạm hay trong quan hệ với các chế tài khác,… từ đó đưa ra những bất cập
cần sửa đổi và kiến nghị.
Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này, tuy nhiên tác giả vẫn lựa
chọn vấn đề này làm luận văn bởi lẽ tác giả mong muốn được hiểu sâu hơn các quy

định của pháp luật về vấn đề này cũng như thực tiễn áp dụng chúng.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
- Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống lại kiến thức lý luận về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân
sự cũng như trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói chung.


4

Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, so sánh với các quy định của pháp luật thế giới
cũng như thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại hiện nay. Từ đó tác giả
làm rõ bản chất của bồi thường thiệt hại, làm rõ những điểm hạn chế không còn phù
hợp, những mâu thuẫn giữa các quy định và đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện
khung pháp lý điều chỉnh bồi thường thiệt hại.
- Đối tượng nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, tác giả tập trung vào đối tượng nghiên cứu là:
Thứ nhất: Các nguyên tắc và quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Thứ hai: Một số vấn đề thực tế hiện nay về việc thỏa thuận trong hợp đồng,
tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng… có liên quan đến bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng.
- Phạm vi nghiên cứu:
Với mục đích và đối tượng nghiên cứu như đã trình bày ở trên, trong phạm vi
đề tài nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung tìm hiểu và phân tích toàn bộ hệ thống
pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Bên cạnh đó, tác giả cũng lưu ý đến các quy định có liên quan của pháp luật một số
quốc gia.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện việc nghiên cứu luận văn tác giả đã sử dụng các

phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành.Phương pháp phân tích là phương
pháp chủ đạo được sử dụng nhằm nghiên cứu sâu hơn và kỹ hơn từng vấn đề.Trên sơ
sở phân tích đó, tác giả hiểu được thấu đáo vấn đề và có nền tảng để so sánh, đối
chiếu giữa các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam với nhau và với một số hệ
thống pháp luật trên thế giới. Dựa trên cơ sở đó, tác giả tổng hợp và rút ra những
điểm bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại để từ đó đề
xuất hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại cho phù hợp với thực tế và xu
hướng hội nhập quốc tế.


5

5. Kết quả nghiên cứu mới và giá trị ứng dụng của đề tài.
Luận văn đã chỉ dẫn đến những quy định của pháp luật Việt Nam về bồi
thường thiệt hại, từ đó phân tích và bình luận những quy định này trên cơ sở tư duy
phương pháp luận và so sánh với pháp luật các nước khác trên thế giới. Trên cơ sở
những bất cập đó, tác giả đưa ra những đề xuất để hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại.Vì vậy luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về luật hợp đồng có ích đối với
những người học luật và nghiên cứu luật.
Luận văn có phân tích một số vụ việc thực tế thu thập được để làm dẫn chứng
cho những thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại tại nước ta hiện nay,
từ đó đóng góp các giải pháp hữu ích.
Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những đối tượng khác ngoài những
người học luật, chính là các thương nhân là những doanh nghiệp hay cá nhân, tổ chức
khác - những chủ thể trong quan hệ hợp đồng, vì đây là những kiến thức pháp lý cơ
bản và có ích, bảo vệ cho họ trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng hay khi có thiệt
hại xảy ra.
6. Kết cấu của luận văn.
Để truyền tải được những kiến thức, trên hết là đạt được mục đích nghiên cứu
bài luận văn được trình bày theo kết cấu sau: phần mở đầu, 4 chương và phần kết

luận.
Chương 1: Lý luận về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Chương 2: Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng – pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật.
Chương 3 : Các trường hợp miễn và giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng - pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật
Chương 4: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng.


6

CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự và thực hiện hợp đồng dân sự
1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự.
Trong đời sống xã hội, bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào cũng đều có những mối
quan hệ xã hội nhất định để tồn tại và phát triển. Để tham gia vào các quan hệ xã hội
thì con người phải có những đảm bảo về vật chất để đáp ứng nhu cầu của mình. Muốn
như vậy thì con người phải lao động tạo ra của cải vật chất. Tuy nhiên, một cá nhân
không thể tồn tại độc lập trong cộng đồng và càng không thể tự mình tạo ra mọi của
cải vật chất để đáp ứng nhu cầu đa dạng của mình. Vì vậy, đã xuất hiện sự trao đổi
vật chất giữa các bên để thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong quan hệ này, bằng hành
vi có ý chí của mình các chủ thể chuyển giao cho nhau những lợi ích vật chất nhằm
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Quan hệ này được gọi là hợp đồng.
“Nếu các bên chủ thể (hoặc ít nhất có một bên) của quan hệ tham gia hợp đồng với
mục đích thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng thì hợp đồng đó được xác định là hợp
đồng dân sự” (HĐDS) [49, tr. 94].
Theo quy định tại Điều 388 Bộ luật dân sự 2005 (BLDS) thì “hợp đồng dân sự

là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”. Theo đó, HĐDS là một loại quan hệ pháp luật dân sự hình thành trên cơ
sở thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các bên tham gia trong quan hệ đó nhằm thỏa mãn
những nhu cầu nhất định. Từ sự thỏa thuận này các bên chủ thể đã thiết lập quyền và
nghĩa vụ tương ứng để đạt được mục đích mà mình mong muốn. Như vậy, HĐDS góp
phần thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển và đảm bảo cho các giao dịch dân sự được
thực hiện trong hành lang pháp lý an toàn theo những nguyên tắc được pháp luật thừa
nhận và bảo vệ.
HĐDS là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến nhất thể hiện bản chất của
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản. Dù được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào thì


7

HĐDS cũng phản ánh bản chất là sự thỏa thuận của các bên chủ thể nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo đó, HĐDS có những đặc điểm
sau:
-Thứ nhất, HĐDS là sự thống nhất ý chí chung. Ý chí chung này đạt được
thông qua sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể. Mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng
với những mục đích và động cơ nhất định nên trong quá trình xác lập hợp đồng các
bên phải thỏa thuận để thống nhất ý chí nhằm hướng tới mục tiêu cao nhất là các bên
cùng có lợi. Vì hợp đồng là do các bên tự thỏa thuận nên quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng cũng do các bên tự thỏa thuận (trừ trường hợp các quyền và nghĩa
vụ đã được pháp luật quy định). Ý chí chung này của các bên phải được thể hiện dưới
một hình thức nhất định (bằng lời nói, hành vi hoặc văn bản). Khi các bên đã thống
nhất được ý chí và ý chí đó phù hợp với các quy định của pháp luật thì hợp đồng có
hiệu lực. Lúc này hợp đồng chính là “luật” ràng buộc trách nhiệm giữa các bên với
nhau.
- Thứ hai, mục đích của hợp đồng là nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý. Hậu
quả pháp lý này là xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên

chủ thể đều có một mục đích nhất định khi tham gia quan hệ hợp đồng. Dù các bên
chủ thể được tự do thỏa thuận nhưng mục đích và nội dung của thỏa thuận đó phải
đáp ứng được nguyên tắc giao kết HĐDS. Theo đó, “tự do giao kết hợp đồng nhưng
không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” (Điều 389 BLDS). Trái pháp luật (hành
vi không hợp pháp) là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật
như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm,
hoạt động quá phạm vi cho phép của pháp luật… [50, tr. 495], Và đạo đức xã hội là
những quy tắc, chuẩn mực ứng xử giữa người với người trong đời sống xã hội được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Vì vậy, để cho các giao dịch dân sự ổn định, phát triển lành mạnh thì bên cạnh
việc ghi nhận quyền tự do thỏa thuận của các chủ thể trong hợp đồng thì Nhà nước
cũng đã đưa ra những nguyên tắc để hạn chế sự tự do này. Dù là loại hợp đồng nào thì
nó cũng chỉ có hiệu lực pháp luật khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà


8

Nước. Các bên được “tự do” thỏa thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng sự tự do này
phải trong giới hạn. Nếu “tự do” vô hạn thì nó sẽ trở thành công cụ để xâm phạm đến
lợi ích của cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội, trật tự công cộng. Tiêu chí để Nhà
nước giới hạn tự do hợp đồng là để bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế hơn, bảo vệ một
bên được xem là trung thực hơn và bảo vệ trật tự công cộng.
1.1.2. Thực hiện hợp đồng dân sự.
Sau khi các bên đã giao kết hợp đồng dưới một hình thức nhất định phù hợp
với pháp luật và hợp đồng đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật yêu cầu (quy
định tại Điều 122 BLDS) thì hợp đồng có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Nghĩa là
từ thời điểm đó, các bên trong hợp đồng bắt đầu có quyền và nghĩa vụ dân sự đối với
nhau. Theo nội dung của hợp đồng, các bên lần lượt tiến hành các hành vi mang tính
nghĩa vụ đúng với tính chất đối tượng, thời hạn, phương thức, địa điểm… mà nội dung
của hợp đồng đã xác định.

Theo Từ điển luật học, thực hiện HĐDS là “những hành vi của các chủ thể khi
tham gia quan hệ hợp đồng nhằm làm cho các điều khoản, nội dung đã cam kết trong
hợp đồng trở thành hiện thực”. Khi thực hiện HĐDS, các bên phải tuân thủ các
nguyên tắc đã được BLDS quy định tại Điều 412. Đó là:
1. “Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng
loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác”. Cụ thể là:
a) Thực hiện đúng điều khoản về đối tượng của hợp đồng.
Điều khoản về đối tượng của hợp đồng là một trong những điều khoản chủ yếu
của hợp đồng. Các bên không được tự ý thay đổi đối tượng này bằng đối tượng khác.
Bên có nghĩa vụ giao đầy đủ số lượng, trọng lượng, khối lượng của đối tượng hợp
đồng cho bên có quyền theo thoả thuận trong hợp đồng.
b) Thực hiện đúng điều khoản về chất lượng.
Điều khoản về chất lượng cũng là điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Bên có
nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng chất lượng, có nghĩa là đối tượng được giao
phải đảm bảo khả năng sử dụng theo tiêu chuẩn chất lượng, bảo đảm đúng phẩm chất
theo quy định của Nhà nước, của ngành, của đơn vị cơ sở hoặc theo sự thoả thuận của


9

hai bên. Khi giao nhận các bên phải tiến hành kiểm tra chất lượng của đối tượng trong
hợp đồng.
c) Thực hiện đúng điều khoản về số lượng.
Điều khoản về số lượng đối tượng là một điều khoản quan trọng trong hợp
đồng. Vì số lượng đối tượng quyết định đến giá cả, cách thức thực hiện, thời hạn thực
hiện hợp đồng, phương thức thanh toán. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ
đúng số lượng như đã thỏa thuận.
e) Thực hiện đúng điều khoản về chủng loại.
Điều khoản về chủng loại hàng hóa cũng là một điều khoản quan trọng trong
hợp đồng. Bởi vì, chủng loại của đối tượng là cái mà các bên chủ thể trong quan hệ

hợp đồng hướng tới. Các bên tham gia quan hệ hợp đồng vì muốn có đúng chủng loại
đối tượng đó. Nên bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng chủng loại đối tượng,
f) Thực hiện đúng điều khoản về thời hạn.
Thời hạn thực hiện hợp đồng có thể là thời hạn hoặc thời điểm nhất định do hai
bên thoả thuận trong hợp đồng. Vì việc giao nhận đối tượng trong hợp đồng đúng thời
gian là yếu tố rất quan trọng để các bên thực hiện kế hoạch của mình.
g) Thực hiện đúng điều khoản về phương thức.
Phương thức giao nhận là cách để các bên tiến hành giao nhận đối tượng hợp
đồng. Phương thức giao nhận do các bên thoả thuận sao cho có lợi cho các bên. Nếu
một trong các bên thực hiện không đúng điều khoản này thì coi như vi phạm hợp
đồng và phải chịu trách nhiệm tài sản đối với bên còn lại.
h) Thực hiện đúng điều khoản về địa điểm.
Địa điểm giao nhận hoặc kết quả công việc do các bên thỏa thuận với nhau
trong hợp đồng. Tùy từng loại hợp đồng cụ thể mà địa điểm thực hiện hợp đồng có
thể là điều khoản cơ bản hoặc không phải là điều khoản cơ bản. Do vậy, nếu trong
hợp đồng các bên không có thỏa thuận về địa điểm thực hiện hợp đồng thì theo quy
định của pháp luật.
i) Thực hiện bởi/cho đúng chủ thể.


10

Chủ thể của hợp đồng là các bên ký kết hợp đồng và có quyền lợi, nghĩa vụ
phát sinh trên cơ sở hợp đồng đã ký kết. Do đó, chính chủ thể đã ký kết hợp đồng
phải thực hiện hợp đồng đó. Trong một số trường hợp thì chủ thể thực hiện hợp đồng
không phải là chủ thể đã ký kết (ủy quyền).Vì vậy, thực hiện đúng chủ thể không phải
là điều khoản bắt buộc trong hợp đồng.
2. “Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho
các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau”;
Mỗi bên chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng đều có những mục đích nhất

định. Để đạt được mục đích này thì hợp đồng đó phải được thực hiện một cách nhanh
chóng và đúng với những thỏa thuận ban đầu mà các bên đã đặt ra. Muốn như vậy thì
đòi hỏi trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên trung thực, tin cậy lẫn nhau, hợp
tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi và giúp đỡ lẫn nhau để khắc phục mọi khó khăn
giúp cho hợp đồng được thực hiện thuận lợi. Vì trong quan hệ dân sự, lợi ích của một
bên luôn phụ thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Để nguyên tắc này thực
sự được tôn trọng thì các bên chủ thể phải thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng,
chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức như đã thỏa thuận.Đồng thời
khi có tranh chấp xảy ra các bên chủ thể cũng nên áp dụng nguyên tắc này trong quá
trình thương lượng.Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng ngừa,
ngăn chặn và giải quyết kịp thời các tranh chấp hợp đồng nhằm bảo đảm bảo lợi ích
của các bên. Nội dung của nguyên tắc này sẽ được cụ thể hóa trong điều khoản về
quyền và nghĩa vụ của các bên.
3. “Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác".
Đây là nguyên tắc cơ bản trong luật dân sự Việt Nam và cũng được pháp luật
của các nước trên thế giới ghi nhận.Điều 10 BLDS quy định “việc xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.Mỗi chủ thể khi xác lập quan hệ hợp
đồng nào cũng mong muốn đạt được mục đích nhất định. Để xác lập các quan hệ đó
đòi hỏi các chủ thể phải thực hiện những hành vi nhất định. Tuy nhiên, việc thực hiện


11

những hành vi đó không thể tiến hành một cách tùy tiện mà phải trong khuôn khổ
pháp luật. Và khuôn khổ đó chính là lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác. Nên việc thực hiện các hành vi trong hợp đồng không
được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác. Bên cạnh đó, quy luật tồn tại và phát triển xã hội đã chỉ ra rằng

không một cá thể nào có thể tồn tại độc lập với cộng đồng.Vì vậy, để tồn tại được
trong tập thể thì đòi hỏi mỗi cá nhân phải kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích
cộng đồng.Và dĩ nhiên để làm được điều này đòi hỏi mỗi cá nhân phải tôn trọng
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Bởi vì lợi ích cá nhân chỉ được pháp luật
thừa nhận và tôn trọng khi nó phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng.
1.1.3. Trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng.
Trong ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng khá phổ biến
với nhiều nghĩa khác nhau theo cả hai nghĩa, tích cực và tiêu cực. Nghĩa tích cực là
một quan hệ pháp luật về nghĩa vụ, tức nói đến điều pháp luật yêu cầu phải làm trong
hiện tại hay tương lai. “Trách nhiệm” theo nghĩa tiêu cực, tức là nói đến hậu quả bất
lợi phải gánh chịu do có hành vi vi phạm pháp luật. “Trách nhiệm” theo Từ điển tiếng
Việt là “phần việc mà mình phải làm tròn và nếu không tốt thì phải gánh chịu hậu
quả” hoặc “những đòi hỏi mà mình phải tuân thủ về những điều mà mình đã hứa hẹn
, đã cam kết, và nếu làm sai thì mình phải gánh chịu hậu quả”[47, tr. 1646].
Trách nhiệm pháp lý được nói đến trong luận văn này sẽ được nghiên cứu theo
hướng là hậu quả bất lợi phải gánh chịu do có hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, trách
nhiệm pháp lý chỉ xuất hiện khi thực tế có xảy ra vi phạm pháp luật, nếu không có vi
phạm pháp luật thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý
cũng chỉ được áp dụng đối với những chủ thể vi phạm pháp luật và những chủ thể này
phải có năng lực trách nhiệm pháp lý. Trong đó, vi phạm pháp luật được hiểu là
“hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện,
xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ” [48, tr. 500]. HĐDS là một quan
hệ xã hội được pháp luât bảo vệ nên hành vi vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng


12

được xem là vi phạm pháp luật. Do vậy, chủ thể vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng sẽ
phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý.
Trên cơ sở mối quan hệ giữa trách nhiệm pháp lý và các ngành luật, trách

nhiệm pháp lý được chia ra thành: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm vật chất. Mỗi loại trách nhiệm pháp
lý được xây dựng theo những nguyên tắc pháp lý riêng biệt, đặc thù và có những
điểm khác nhau cơ bản. Những đặc điểm chung của trách nhiệm pháp lý là: nó là một
hình thức cưỡng chế của Nhà nước, áp dụng đối với những chủ thể vi phạm pháp luật,
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ sử dụng một số biện pháp chế tài nhất định
do luật định buộc người vi phạm pháp luật phải chịu hậu quả bất lợi.
Về trách nhiệm dân sự, có quan điểm cho rằng đó là một loại trách nhiệm pháp
lý do Tòa án hoặc các chủ thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm
pháp luật dân sự. Tuy nhiên, đâu là khái niệm và những đặc trưng cho trách nhiệm
dân sự hiện nay vẫn còn gây tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý. Nhưng
tựu chung lại, có thể hiểu trách nhiệm dân sự là hậu quả bất lợi về vật chất mà bên vi
phạm nghĩa vụ dân sự phải gánh chịu, là một chế tài dân sự mà căn cứ phát sinh của
nó là sự vi phạm một trong hai nội dung của quan hệ pháp luật dân sự (quyền hoặc
nghĩa vụ).
Trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng là một loại trách nhiệm
dân sự nên có thể hiểu nó cũng là hậu quả bất lợi về vật chất mà bên vi phạm hợp
đồng phải chịu do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp
đồng đối với bên bị vi phạm. Do đó, nó có những đặc điểm chung của trách nhiệm
dân sự. Bên cạnh đó, trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng còn có những
đặc điểm riêng:
-Thứ nhất, trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng luôn gắn với sự
tồn tại của HĐDS và hợp đồng này phải có hiệu lực. Hợp đồng có hiệu lực này sẽ
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.


13

-Thứ hai, trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng chỉ phát sinh khi có
hành vi vi phạm việc thực hiện hợp đồng. Hành vi vi phạm có thể là không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng.
-Tiếp theo, trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng chỉ có thể phát
sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi một bên vi phạm việc thực hiện
hợp đồng thì sẽ phải chịu hậu quả bất lợi về vật chất với bên bị vi phạm.
-Cuối cùng, hậu quả pháp lý của trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp
đồng luôn là việc bên vi phạm phải chịu những hậu quả bất lợi về vật chất đối với bên
bị vi phạm.
Bản chất của trách nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng là hậu quả bất
lợi mang tính đền bù. Ở đây, việc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm đối với bên vi
phạm, nghĩa là họ phải bù đắp những thiệt hại vật chất mà mình đã gây ra. Sự đền bù
ở đây được đánh giá dựa trên hai tiêu chí, đó là kịp thời và tương xứng. Trách nhiệm
do vi phạm việc thực hiện hợp đồng phải kịp thời vì trong giao lưu dân sự luôn đòi
hỏi tính linh hoạt cao vì các giao dịch diễn ra thường xuyên, liên tục… Trách nhiệm
do vi phạm việc thực hiện hợp đồng còn đòi hỏi phải tương xứng vì sự đền bù phải
đầy đủ để lấp đầy thiệt hại mà bên vi phạm phải chịu. Sự tương xứng còn thể hiện ở
chỗ bên bị vi phạm nhận vừa đủ thiệt hại chứ cũng không thể được nhận hơn những
gì mình đã mất.
Pháp luật Việt Nam quy định hai hình thức đền bù là phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại. Phạt vi phạm theo quy định của Điều 300 Luật thương mại 2005
(LTM) “là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi
phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm”. Và, bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 302 LTM “là việc bên vi
phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi
phạm”. Như vậy, muốn kịp thời mà không cần phải chứng minh thiệt hại thì có thể
áp dụng phạt vi phạm; muốn đầy đủ mà chưa cần kịp thời thì áp dụng bồi thường thiệt
hại và nếu muốn vừa kịp thời vừa đầy đủ thì có thể áp dụng cả hai hình thức trách
nhiệm do vi phạm việc thực hiện hợp đồng.


14


1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm.
Bồi thường thiệt hại là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân
sự của các nước trong đó có Việt Nam nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị thiệt hại khi bị hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể khác xâm phạm. Ở
các nước khác nhau thì vấn đề bồi thường được quy định khác nhau.Tuy nhiên, hầu
hết các nước đều hướng tới một nguyên tắc thống nhất là người gây thiệt hại phải bồi
thường.
Điều 1382 Bộ luật dân sự Pháp quy định “bất cứ hành vi nào của một người
gây thiệt hại cho người khác thì người đã gây thiệt hại do lỗi của mình phải bồi
thường thiệt hại”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì chưa có khái niệm rõ ràng
về bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm thấy quy định liên quan tại
một số văn bản. Theo từ điển Luật học thì bồi thường thiệt hại được hiểu là “hình
thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục
hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị
thiệt hại” [52, tr. 84]. Còn theo quy định tại Điều 307 BLDS thì:
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất
vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài
sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút.”
Hành vi vi phạm nghĩa vụ của một bên sẽ gây ra cho bên kia những thiệt hại
vật chất, do vậy bên vi phạm đó phải có trách nhiệm bù đắp những thiệt hại đó. Việc
bù đắp đó phải tuân thủ nguyên tắc: thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ. Sự đầy đủ
ở đây phải tương xứng với thiệt hại và không vượt quá phạm vi cần thiết để khắc



15

phục thiệt hại mà họ đáng phải nhận. Như vậy, bồi thường thiệt hại là hình thức trách
nhiệm chú trọng “tính đền bù tương xứng”.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự nên mang đặc
tính của trách nhiệm dân sự. Đó là trách nhiệm tài sản nhằm khôi phục tình trạng tài
sản ban đầu của người bị thiệt hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Tuy
nhiên, việc khôi phục lại tình trạng ban đầu không phải bao giờ cũng được như ý
muốn. Vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau mà người gây ra thiệt hại không thể khôi
phục lại tình trạng tài sản ban đầu. Bởi vậy, cần có cơ chế và các hình thức khác để
khắc phục tình trạng trên.Vì vậy, bồi thường thiệt hại là hình thức hợp lý để giải
quyết những vướng mắc trên.
Trong quan hệ bồi thường thiệt hại, bên có quyền còn được gọi là bên bị vi
phạm, bên bị thiệt hại và bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ còn được gọi là bên vi
phạm.
Bồi thường thiệt hại là một hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng phổ
biến trong thực tiễn, không chỉ tại Việt Nam mà còn trên thế giới. Pháp luật các nước
Châu Âu lục địa thường áp dụng bồi thường thiệt hại trong các trường hợp vi phạm
nghiêm trọng, còn pháp luật Anh – Mĩ thì bồi thường thiệt hại là trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng được sử dụng chủ yếu [44, tr. 56].
1.2.2. Đặc điểm.
Bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự nên nó mang đầy đủ những
đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự. Bên cạnh đó, bồi thường thiệt hại cũng có
những đặc điểm riêng để phân biệt nó với các loại trách nhiệm dân sự khác. Đó là:
- Giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có quan hệ hợp đồng hợp pháp.
Theo quy định tại Điều 302 Khoản 1 BLDS, bên có nghĩa vụ mà không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với
bên có quyền.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là một loại trách
nhiệm dân sự do một bên có hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ

trong hợp đồng gây ảnh hưởng đến quyền lợi và gây ra thiệt hại nhất định cho bên có
quyền. Khi đó, bên có hành hành vi phạm phải chịu trách nhiệm với hành vi của


16

mình. Như vậy, khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng bắt buộc giữa các bên phải tồn tại một quan hệ hợp đồng và
quan hệ này là hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
- Nội dung của trách nhiệm phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên hoặc theo
quy định của pháp luật.
HĐDS là một quan hệ pháp luật dân sự được hình thành trên cơ sở sự thỏa
thuận thống nhất ý chí của các bên tham gia trong quan hệ đó nhằm thỏa mãn nhu cầu
của nhau. Từ sự thỏa thuận thống nhất ý chí đó các bên chủ thể đã thiết lập nội dung
của hợp đồng. Một trong những nội dung đó là trách nhiệm của các bên khi xảy ra
hành vi vi phạm hợp đồng. Theo quy định tại Điều 402 Khoản 6 BLDS thì tuỳ theo
từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về “trách nhiệm do vi phạm hợp đồng”.
Một trong những trách nhiệm đó là bồi thường thiệt hại.Do đó, nội dung của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp
đồng. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp các bên trong hợp đồng không thỏa thuận thì
khi xảy ra vi phạm sẽ áp dụng theo quy định chung của pháp luật. Vì nội dung của
hợp đồng là do các bên tự do thỏa thuận nên nếu các bên không thỏa thuận thì đồng
nghĩa là tự từ bỏ đi quyền lợi của mình. Vì vậy, khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng
thì sẽ áp dụng quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng chỉ giới hạn trong phạm vi
những thiệt hại thực tế và những thiệt hại có thể tiên liệu được vào thời điểm ký hợp
đồng.
Một trong những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng đó là có thiệt hại thực tế xảy ra. Và việc bồi thường chỉ giới hạn trong phạm
vi những thiệt hại thực tế này, bên có quyền không có quyền yêu cầu bên kia bồi

thường những khoản tiền lớn hơn giá trị của thiệt hại thực tế, trừ trường hợp các bên
có thể thỏa thuận khác. Ngược lại, bên có nghĩa vụ cũng không được phép thực hiện
mức bồi thường thấp hơn giá trị thực của thiệt hại, trừ trường hợp được sự cho phép
của bên có quyền. Mức bồi thường các bên có thể thỏa thuận trước trong hợp đồng,
đây chỉ là sự tiên liệu về mức thiệt hại có thể xảy ra khi có hành vi vi phạm. “Nếu


17

không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại” (Điều 422 Khoản 3 BLDS).
-Yếu tố lỗi.
Lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng, nhưng không phân biệt hình thức lỗi là cố ý hay vô ý vì mức trách
nhiệm bồi thường không phân hóa theo hình thức lỗi như trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, lỗi là một trong
những căn cứ chủ yếu để xác định trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách
nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác (Khoản 1 Điều 308 BLDS). Lỗi trong trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng được xác định trên nguyên tắc suy đoán có lỗi, theo đó các bên phải
chứng minh là mình không có lỗi. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng thì mức thiệt hại phải bồi thường hoàn toàn không phụ thuộc vào yếu tố lỗi,
thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu mặc cho lỗi đó là lỗi gì. Vì vậy, theo
tác giả việc phân biệt lỗi cố ý và vô ý như Khoản 1 Điều 308 BLDS là không cần
thiết.
1.2.3. So sánh tương quan giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại có hai loại là bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

trong hợp đồng là hình thức trách nhiệm phát sinh do không thực hiện hay thực hiện
không đúng nghĩa vụ hợp đồng. Theo đó, bên vi phạm bồi hoàn những tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Khác với bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hiểu theo nghĩa chủ quan là sự
cưỡng chế của Nhà nước nhằm buộc bên có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường những thiệt hại mà mình đã gây ra và thực hiện những yêu cầu do
pháp luật quy định nhằm khôi phục lại các quyền và lợi ích đã bị xâm phạm. Hai loại


18

bồi thường thiệt hại này đều là một loại trách nhiệm dân sự. Do đó, hai loại bồi
thường này đều mang tính chất của một trách nhiệm dân sự là:
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm là hành vi vi phạm pháp luật dân sự và chỉ áp
dụng với người thực hiện hành vi vi phạm đó;
- Tính chất của chế tài là hậu quả pháp lý bất lợi mang tính tài sản dành cho
người thực hiện hành vi vi phạm;
- Là một biện pháp cưỡng chế mang tính chất pháp lý, do đó được đảm bảo thi
hành bởi pháp luật và bộ máy cưỡng chế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bên cạnh những điểm chung cơ bản đó, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có những điểm khác nhau như sau:
- Về nguồn gốc phát sinh:
Theo quy định pháp luật hiện hành, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
căn cứ dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Nếu
các bên không có thỏa thuận thì theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm này chỉ
phát sinh khi xuất hiện sự vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ được quy định trong hợp
đồng. Điều này đồng nghĩa là phải tồn tại một hợp đồng có hiệu lực. Trong khi đó,
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh bên ngoài, không phụ thuộc vào hợp
đồng, mà chỉ cần tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật dân sự, cố ý hay vô ý, gây

thiệt hại cho người khác và hành vi này cũng không liên quan đến bất cứ một hợp
đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Do đó, căn cứ của
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trên cơ sở những quy định của pháp luật (theo
những nguyên tắc, thủ tục mà pháp luật quy định).
- Về mối quan hệ giữa các bên:
Trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì giữa các bên chủ thể không có
mối quan hệ nghĩa vụ với nhau trước khi trách nhiệm phát sinh hoặc cũng có thể hai
bên chủ thể hoàn toàn không có quan hệ nghĩa vụ.Điều này đồng nghĩa là giữa các
bên không có quan hệ hợp đồng với nhau hoặc nếu các bên có quan hệ nghĩa vụ trong
hợp đồng với nhau nhưng thiệt hại gây ra không phải vì vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng.Trái lại, bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì giữa các bên có quan hệ nghĩa


19

vụ với nhau. Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh khi một bên vi phạm
nghĩa vụ trong hợp đồng.
- Về căn cứ xác định trách nhiệm:
Thiệt hại, bao gồm thiệt hại về vật chất và tinh thần là điều kiện bắt buộc của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; trong khi đó thiệt hại không phải là
điều kiện bắt buộc trong việc xác định bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, bởi chỉ
cần có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã có thể phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng và khi xét đến vấn đề thiệt hại trong hợp đồng, chỉ xét đến những tổn
thất về mặt vật chất. Nói rõ hơn, bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm dù đã có hay
chưa có thiệt hại xảy ra khi bên kia bị vi phạm hợp đồng.
Đối với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, các bên phải dự liệu được những
thiệt hại sẽ xảy ra.Nếu có thiệt hại xảy ra ngoài dự liệu thì thiệt hại này sẽ không được
bồi thường.Còn đối với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, miễn là có thiệt hại thực
tế dù là dự liệu hay không dự liệu đều phải bồi thường.
- Yếu tố lỗi:

Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của người
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Như vậy, những thiệt hại trong
hợp đồng bắt buộc phải có lỗi. Còn trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, việc
phân biệt lỗi cố ý và vô ý cũng có ý nghĩa nhưng bên cạnh đó thì người có hành vi vi
phạm có thể chịu trách nhiệm ngay cả khi không có lỗi trong trường hợp pháp luật có
quy định. Đó là các trường hợp: bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra (Điều 623 BLDS), bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường (Điều 624
BLDS).
- Về thời điểm xác định trách nhiệm:
Một trong những nội dung quan trọng để có thể xác định được đúng mức bồi
thường thiệt hại của bên vi phạm là xác định thời điểm chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ phát sinh tại thời điểm xảy ra thiệt hại
hay tại thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên bị vi phạm, điều này tùy
thuộc vào tính chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Đối với bồi thường thiệt hại


×