Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.35 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ MẠNH HÙNG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH TUYÊN QUANG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 62 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu khoa học trong luận văn được trích dẫn theo đúng nguồn đã công
bố. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào trước đây.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Mạnh Hùng




LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu đề tài luận văn, tôi luôn nhận đƣợc sự giúp
đỡ, động viên và hƣớng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, các cán bộ, nhân
viên đang công tác và làm việc tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trƣờng, toàn thể quý
thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên trong Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật Kinh
tế và Trung tâm Thông tin Thƣ viện Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã dạy giỗ,
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Phó Giáo sƣ,
Tiến sỹ Nguyễn Viết Tý, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi thực hiện công trình
nghiên cứu khoa học của mình.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, những ngƣời đã luôn bên tôi động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2015
Tác giả

Ngô Mạnh Hùng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO


7

VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI

1.1. Khái quát về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động

7

thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động

7

thương mại
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

12

trong hoạt động thương mại
1.1.3. Chức năng của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

18

trong hoạt động thương mại
1.2. Khái quát pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong

19

hoạt động thƣơng mại

1.2.1. Nguồn pháp luật điều chỉnh

19

1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường thiệt

22

hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam
1.2.3. Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong

27

hoạt động thương mại của Việt Nam
1.2.4. Nội dung của pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp

30

đồng trong hoạt động thương mại
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG

31

THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT
THƢƠNG MẠI

2.1. Những quy định về căn cứ áp dụng chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi

31


phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại
2.1.1. Có hành vi vi phạm hợp đồng

31


2.1.2. Có thiệt hại vật chất thực tế phát sinh

34

2.1.3. Hành vi vi phạm hợp đồng phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra

43

thiệt hại
2.2. Các quy định về giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm

44

hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại
2.3. Các trƣờng hợp miễn trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp

46

đồng trong hoạt động thƣơng mại
2.3.1. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp các bên

47

đã thỏa thuận

2.3.2. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp xảy ra

48

sự kiện bất khả kháng
2.3.3. Miễn trách nhiệm trong trường hợp hành vi vi phạm của một

50

bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
2.3.4. Miễn trách nhiệm bồi thường trong trường hợp hành vi vi phạm

50

của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời
điểm giao kết hợp đồng
2.4. Quy định về áp dụng phối hợp chế tài bồi thƣờng thiệt hại với các hình

52

thức chế tài khác
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT

56

HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG
MẠI Ở TỈNH TUYÊN QUANG MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.1. Thực trạng trong lĩnh vực hoạt động thƣơng mại trên địa bàn tỉnh


56

Tuyên Quang
3.1.1. Kết quả đạt được đối với việc giải quyết các tranh chấp do vi

58

phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại
3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế trong giải quyết các tranh chấp đòi bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại

59


3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do

60

vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại
3.2.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại

61

do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại
3.2.2. Nội dung kiến nghị hoàn thiện các quy định về bồi thường thiệt

62

hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại

KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình đổi mới đất nƣớc, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(tháng 12 năm 1986) là bƣớc đột phá đầu tiên trong đổi mới tƣ duy của Đảng
về phát triển kinh tế. Đó là việc xác lập, xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp với
sự vận động của quy luật khách quan và trình độ của nền kinh tế; Đại hội có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nƣớc, tạo ra sự ổn định về chính
trị, xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng; Đại hội đã đề ra đƣờng lối đổi mới
toàn diện đất nƣớc nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đại hội chủ trƣơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội. Nhƣng phải đến Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng mới
chính thức đƣa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa là đƣờng lối chiến lƣợc nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát
trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa vận hành có hiệu
quả, hoạt động thƣơng mại diễn ra một cách có trật tự, phù hợp với quy luật
khách quan, Nhà nƣớc cần phải xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật hoàn
chỉnh, đồng bộ và có những cơ chế, biện pháp đảm bảo việc thi hành một cách
có hiệu quả. Một bộ phận quan trọng của cơ chế pháp lý đó chính là hệ thống

các văn bản điều chỉnh hoạt động kinh doanh, thƣơng mại, trong đó có Luật
Thƣơng mại. Trong pháp luật thƣơng mại, chế tài trong thƣơng mại là một chế
định có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong quan hệ thƣơng mại cũng nhƣ sự nghiêm minh của pháp luật
và đảm bảo trật tự vận hành của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở nƣớc ta.


2
Trong hệ thống pháp luật về chế tài thƣơng mại, bồi thƣờng thiệt hại là
một hình thức chế tài đã có từ lâu và đƣợc áp dụng một cách phổ biến và
thƣờng xuyên nhất. Qua những lần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật
điều chỉnh hoạt động thƣơng mại cho đến nay, chế tài bồi thƣờng thiệt hại
cũng đƣợc bổ sung và hoàn thiện hơn, đã góp phần quan trọng đảm bảo cho
các hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại đƣợc thực hiện một cách nghiêm
minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trƣớc hành vi vi phạm.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nƣớc ta hiện nay đã và đang hội nhập kinh tế quốc
tế sâu rộng (hiện nay Việt Nam quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ), các quan hệ thƣơng mại quốc tế ngày càng đa dạng và phức
tạp, thì các quy định hiện hành về chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thƣơng mại vẫn còn nhiều bất cập, chƣa đáp ứng đƣợc
yêu cầu của thực tiễn của hoạt động kinh doanh. Có những vấn đề mà pháp
luật thƣơng mại không quy định cụ thể, rõ ràng nhƣ: việc xác định thế nào là
tổn thất thực tế và trực tiếp chƣa đƣợc quy định gây nhiều khó khăn trong
việc xác định các khoản thiệt hại đƣợc bồi thƣờng; các quy định về miễn trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại
chƣa rõ ràng đối với trƣờng hợp ngƣời thứ ba có quan hệ với một bên trong
hợp đồng gặp bất khả kháng dẫn đến bên đó vi phạm hợp đồng thì có đƣợc
miễn trách nhiệm bồi thƣờng hay không.... Trên cơ sở các quy định pháp luật
thƣơng mại hiện hành và thực tiễn áp dụng, thực hiện trên địa bàn tỉnh Tuyên

Quang từ đó làm rõ những hạn chế, bất cập của các quy định về bồi thƣờng
thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại, những hạn chế đã
gây ra khó khăn cho việc áp dụng và thực thi pháp luật. Việc khắc phục
những bất cập nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại hƣớng tới đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong quan hệ thƣơng mại cũng nhƣ duy trì trật tự, phát triển
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.


3
Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Pháp luật về bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại và thực tiễn
áp dụng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế tài vi phạm hợp đồng, bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thƣơng mại là một chế định đã có từ lâu trong hệ thống pháp
luật của nƣớc ta. Thực tiễn đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ
khác nhau về chế tài bồi thƣờng thiệt hại. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu sau: (i) Quách Thúy Quỳnh, (2005), “Pháp luật về bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh - thực trạng và phương
hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội;
(ii) Trần Thùy Linh, (2009), “Bồi thường thiệt hại do hàng hóa không phù hợp
với hợp đồng theo quy định của công ước viên 1980 - So sánh với pháp luật
Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội; (iii)
Hoàng Thị Hà Phƣơng, (2011), “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội; (iv) Nguyễn Thị Hằng Nga “Về việc áp dụng chế tài phạt
hợp đồng và bồi thường thiệt hại vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp
đồng trong hoạt động thương mại”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9 năm 2006.
Năm 2010, Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức
Hội thảo về đề tài nghiên cứu “Không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp

luật thực định Việt Nam” do TS. Đỗ Văn Đại làm chủ biên....
Các công trình nói trên đã đề cập đến vấn đề bồi thƣờng thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại ở các góc độ và phạm vi khác
nhau, trong những khoảng thời gian nhất định. Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu này chủ yếu đề cập một cách khái quát về tất cả các hình thức
trách nhiệm hợp đồng nói chung dƣới góc độ lý luận hoặc nghiên cứu chuyên


4
sâu về hình thức bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng thƣơng mại. Tuy
nhiên, hiện nay một số quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thƣơng
mại năm 2005 đang đƣợc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực
tiễn; đặc biệt từ ngày 11 tháng 7 năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành
thành viên của tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) thì việc nghiên cứu vấn đề
pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng
mại và đề xuất giải pháp hoàn thiện các chế định về bồi thƣờng thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại là yêu cầu khách quan.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một Luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên
cứu các quy định pháp luật hiện hành về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thƣơng mại, đánh giá thực trạng việc áp dụng pháp luật
trên địa bàn tỉnh Tuyên quang để làm rõ vị trí, vai trò của chế định bồi thƣờng
thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại trong thực tiễn.
Luận văn chỉ nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về chế tài bồi thƣờng thiệt hại
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại theo Luật Thƣơng mại năm
2005, ngoài ra có sự đối chiếu với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005,
Luật thƣơng mại năm 1997 và các quy định trong hệ thống pháp luật thƣơng
mại quốc tế nhƣ Công ƣớc viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế và Bộ
nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thƣơng mại quốc tế nhằm đƣa ra sự so
sánh với pháp luật Việt Nam, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về thƣơng

mại Việt Nam.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài với mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
chung nhất về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thƣơng mại đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành về bồi
thƣờng thiệt hại, nêu ra những tồn tại, bất cập của những quy định này, trên


5
cơ sở đó kiến nghị, sửa đổi một số quy định của Luật Thƣơng mại năm 2005
liên quan đến bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng thƣơng mại.
Từ mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, tìm hiểu một số vấn đề lý luận về bồi thƣờng thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại nhằm làm rõ bản chất pháp lý,
chức năng của chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thƣơng mại, quá trình hình thành và phát triển của các quy định về chế
tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại ở
Việt Nam.
Thứ hai, phân tích các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thƣơng
mại. Trong quá trình phân tích, gắn với việc đánh giá thực tiễn áp dụng trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang, so sánh các quy định của pháp luật hiện hành với
các quy định trong văn bản pháp luật trƣớc đây và các quy định pháp luật
thƣơng mại quốc tế về hình thức chế tài này để thấy rõ đƣợc những ƣu điểm
cũng nhƣ những hạn chế, bất cập của pháp luật thƣơng mại hiện hành gây khó
khăn cho việc áp dụng trên thực tế.
Thứ ba, Thứ ba, thông qua việc nghiên cứu, so sánh, đánh giá thực tiễn
áp dụng đê xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thƣờng
thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn đƣợc nghiên cứu và trình bày trên cơ sở vận dụng lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nƣớc và pháp luật, về chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cùng với việc sử dụng phƣơng pháp luận chung nhất của phép biện
chứng duy vật, đề tài đƣợc thực hiện bằng việc sử dụng kết hợp các phƣơng
pháp nghiên cứu chuyên ngành luật nhƣ phƣơng pháp mô tả, phân tích, so


6
sánh, tổng hợp, chứng minh, thống kê, lịch sử… Phƣơng pháp phân tích, so
sánh sẽ đƣợc sử dụng chủ yếu để đánh giá, nhận xét các quy định pháp luật
hiện hành về chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thƣơng mại với các quy định trƣớc đây cũng nhƣ pháp luật quốc tế.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp lịch sử để
đánh giá, làm sáng tỏ yêu cầu nghiên cứu của đề tài.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Luận văn có
kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thƣơng mại;
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thƣơng mại;
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
và một số kiến nghị.


7

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI

1.1. Khái quát về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong
hoạt động thƣơng mại

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thƣơng mại
Trách nhiệm hợp đồng hay trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một
thuật ngữ đƣợc sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý. Nhƣng khái nhiệm
này chƣa đƣợc ghi nhận trong văn bản pháp luật nên còn có cách hiểu khác
nhau. Có quan điểm cho rằng, “trách nhiệm” đồng nghĩa với “nghĩa vụ” và
nhƣ vậy trách nhiệm hợp đồng trƣớc hết là việc phải thực thi các nghĩa vụ
pháp lý phát sinh từ hợp đồng sau đó là việc phải gánh chịu các hậu quả pháp
lý bất lợi khi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Bộ luật Dân sự năm 2005 phân biệt
cụ thể “Nghĩa vụ dân sự” là việc một hoặc nhiều chủ thể phải làm hoặc không
đƣợc làm một công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (Điều
280); và “Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ” là việc ngƣời có nghĩa vụ
mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách
nhiệm trƣớc ngƣời có quyền (Điều 302). Nhƣ vậy, trách nhiệm hợp đồng
chính là trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, là một dạng của trách nhiệm dân
sự do vi phạm nghĩa vụ. Đây cũng là cách hiểu của đa số những nghiên cứu
cũng nhƣ thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó có thể đƣa ra khái niệm sau:
“Trách nhiệm hợp đồng là việc một bên trong quan hệ hợp đồng phải gánh
chịu các hậu quả pháp lý bất lợi do việc họ đã không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng các nghĩa vụ hợp đồng”.
Về bản chất, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một dạng cụ thể của
trách nhiệm pháp lý, do vậy cũng mang đầy đủ các đặc điểm cơ bản của trách
nhiệm pháp lý nhƣ: Chỉ phát sinh khi có các căn cứ do pháp luật quy định; do
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền áp dụng; mang lại hậu quả pháp lý bất lợi



8
cho các chủ thể bị áp dụng. Tuy nhiên, do một số đặc thù của quan hệ pháp
luật hợp đồng nói chung và hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại nói riêng,
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại có một số đặc
trƣng riêng cho phép chúng ta phân biệt nó với các loại trách nhiệm pháp lý
khác, đó là:
● Về thẩm quyền áp dụng: Các chế tài do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thƣơng mại do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền áp dụng đối với bên vi
phạm hợp đồng dựa trên yêu cầu của bên có quyền lợi bị vi phạm. Tuy nhiên,
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại còn có thể do
trọng tài thƣơng mại áp dụng cho các hành vi vi phạm.
● Về tính chất của trách nhiệm: Tính tài sản là đặc trƣng của các hình
thức trách nhiệm áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Bên vi phạm hợp
đồng phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bồi hoàn tổn thất vật
chất cho phía bên kia dƣới hình thức tiền phạt vi phạm hoặc bồi thƣờng thiệt
hại; hoặc bên vi phạm phải gánh chịu những tổn thất về vật chất để có thể
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng nhƣ chi phí để thực hiện đúng hợp
đồng. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại khi
đƣợc áp dụng sẽ buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về
mặt tài sản.
Sở dĩ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại
mang tính chất tài sản vì hợp đồng hoạt động thƣơng mại là những hợp đồng
mang tính chất đền bù ngang giá, phản ánh mối quan hệ mang tính chất hàng
hóa tiền tệ, nên việc áp dụng các chế tài mang tính chất tài sản là tất yếu.
● Về lĩnh vực phát sinh: Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thƣơng mại chỉ phát sinh trong lĩnh vực hoạt động thƣơng mại khi hợp
đồng đã đƣợc ký kết và có hiệu lực pháp luật. Hợp đồng khi đã đƣợc ký kết
và có hiệu lực chính là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong

quan hệ hợp đồng. Nếu hợp đồng chƣa đƣợc ký kết hoặc hợp đồng đã đƣợc
ký kết nhƣng không có hiệu lực pháp luật thì sẽ không có căn cứ để xác định


9
có hành vi vi phạm hợp đồng hay không. Đặc điểm này cho phép phân biệt
trách nhiệm hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại với các loại trách nhiệm dân
sự nói chung, trách nhiệm dân sự có thể phát sinh trong các giao dịch dân sự
không phải là hợp đồng (nhƣ hành vi pháp lý đơn phƣơng, chiếm hữu sử dụng
đƣợc lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật…).
● Về mục đích áp dụng: Mục đích cao nhất của việc áp dụng các hình
thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại là khôi
phục lợi ích vật chất và hạn chế những tổn thất cho bên có quyền lợi bị vi
phạm. Điều này xuất phát từ bản chất của các quan hệ hợp đồng kinh doanh là
quan hệ mang tính chất đền bù ngang giá.
Theo quy định của Luật Thƣơng mại (2005), các hình thức trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng bao gồm: Buộc thực hiện đúng hợp đồng, hủy hợp
đồng, phạt vi phạm, bồi thƣờng thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình
chỉ thực hiện hợp đồng và các hình thức chế tài khác do các bên thỏa thuận
không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ƣớc quốc tế
mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán
thƣơng mại quốc tế.
So với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và Luật Thƣơng mại năm
1997, thì Luật Thƣơng mại năm 2005 đã bổ sung thêm hai loại chế tài nữa là:
tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng. Là các hình
thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại, các loại
chế tài này đều mang những đặc điểm chung của trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thƣơng mại. Tuy nhiên, từng loại chế tài lại có những
đặc điểm riêng biệt cần nghiên cứu sâu ở các đề tài khác nhau, ở đây chỉ giới
thiệu khái quát về các loại chế tài này với những đặc trƣng về từng loại chế

tài, từ đó góp phần làm rõ bản chất pháp lý của chế tài bồi thƣờng thiệt hại.
♦ Buộc thực hiện đúng hợp đồng: Buộc thực hiện đúng hợp đồng là
hình thức chế tài, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện nghĩa
vụ theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Chế tài này đƣợc quy định trong các


10
Điều 297, 298, 299 Luật Thƣơng mại năm 2005. Khoản 1 Điều 297 Luật
Thƣơng Mại năm 2005 quy định: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên
bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện
pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát
sinh”. Mục đích của chế tài này là đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng
đã ký kết, đảm bảo cho các bên đạt đƣợc lợi ích mà họ mong muốn từ việc
thực hiện hợp đồng.
♦ Phạt vi phạm: Phạt vi phạm là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng,
theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất
định theo sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở quy định của pháp luật. Chế tài
này đƣợc quy định tại Điều 300 và 301 Luật Thƣơng mại năm 2005. Căn cứ để
bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt là: Thứ nhất, có hành vi vi
phạm hợp đồng (tức là hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc
không đầy đủ các cam kết trong hợp đồng); thứ hai, các bên có thỏa thuận
trong hợp đồng về việc phạt vi phạm, lỗi trong phạt vi phạm đƣợc coi là lỗi suy
đoán, nhƣ vậy mọi hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng đều bị suy đoán là
có lỗi (trừ trường hợp bên vi phạm chứng minh được rằng mình không có lỗi).
Mục đích của chế tài này không chỉ trừng phạt bên có hành vi vi phạm, phòng
ngừa hành vi vi phạm và giáo dục ý thức tuân thủ các cam kết trong hợp đồng
mà còn góp phần bù đắp các tổn thất vật chất mà bên có quyền lợi vi phạm đã
phải gánh chịu.
♦ Bồi thƣờng thiệt hại: Cũng có mục đích trừng phạt bên có hành vi vi
phạm và phòng ngừa vi phạm, giáo dục ý thức pháp luật, nhƣng khác với chế

tài khác, bồi thƣờng thiệt hại nhằm mục đích quan trọng nhất là bồi hoàn, bù
đắp, khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên bị vi phạm. Có thể nói
rằng, bồi thƣờng thiệt hại là chế tài quan trọng và cơ bản nhất nhằm đảm bảo
lợi ích của các bên khi hợp đồng bị vi phạm. Chính vì thế, chế tài này có thể
áp dụng cho hầu hết các hành vi vi phạm hợp đồng.
♦ Chế tài tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng:
So với Luật Thƣơng mại năm 1997, Luật Thƣơng mại năm 2005 đã bổ sung
thêm hai hình thức chế tài tạm ngừng và đình chỉ thực hiện hợp đồng thể hiện


11
sự tự vệ và khả năng phản ứng trực tiếp của bên bị vi phạm đối với bên vi
phạm hợp đồng và đƣợc quy định cụ thể từ Điều 308 đến Điều 315 Luật
Thƣơng mại năm 2005.
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng, quy định tại Điều 308 và Điều 309
Luật Thƣơng mại năm 2005. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong thƣơng
mại là hình thức chế tài, theo đó, một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ
trong hợp đồng. Khi hợp đồng thƣơng mại bị tạm ngừng thực hiện thì hợp
đồng vẫn có hiệu lực. Bên vi phạm có quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại đối
với những tổn thất đã xảy ra do hành vi vi phạm của bên kia.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại bị đình chỉ
thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận đƣợc
thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc
thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
Hủy hợp đồng là sự kiện pháp lý mà hậu quả của nó làm cho phần hợp
đồng bị hủy bỏ không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng
có thể hủy bỏ một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng.
Hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng thƣơng mại vô hiệu khác nhau cơ bản ở

chỗ: Hợp đồng vô hiệu không có hiệu lực pháp luật ngay từ thời điểm ký kết
do vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng quy định tại Điều 122 Bộ
luật Dân sự năm 2005 còn hủy bỏ hợp đồng là hợp đồng thƣơng mại sau khi
kí kết, đã có hiệu lực pháp luật tuy nhiên do hành vi vi phạm hợp đồng của
một bên làm cho hợp đồng bị hủy bỏ.
Nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên thỏa thuận tạm ngừng,
đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng thì không đƣợc coi là áp
dụng các hình thức chế tài. Chỉ đƣợc coi là chế tài do vi phạm hợp đồng trong
thƣơng mại khi một bên vi phạm hợp đồng và một bên tuyên bố đơn phƣơng
tạm ngừng, đình chỉ, hoặc hủy bỏ hợp đồng.


12
Các hình thức chế tài: Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng đƣợc
áp dụng không giống nhau, song chúng cũng có những nét tƣơng đồng cơ bản
đó là căn cứ áp dụng. Nếu không có thỏa thuận trong hợp đồng thì các hình
thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng chỉ
áp dụng đối với hành vi vi phạm cơ bản. Đây là điểm mới khá quan trọng của
Luật Thƣơng mại năm 2005. Việc đƣa ra khái niệm về hai loại vi phạm cơ
bản và không cơ bản là cơ sở quan trọng để quyết định việc áp dụng các hình
thức chế tài này. Việc bổ sung này là phù hợp với quy định của pháp luật
quốc tế và thực tiễn thực hiện thƣơng mại của Việt Nam.
♦ Các hình thức chế tài khác do các bên thảo thuận: Bên cạnh việc bổ
sung thêm hai hình thức chế tài là tạm ngừng và đình chỉ thực hiện hợp đồng
thì Luật Thƣơng mại năm 2005 cho phép các bên thỏa thuận các hình thức
chế tài khác, miễn là không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
nam, điều ƣớc quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên và tập quán thƣơng mại quốc tế. Đây là điểm mới quan trọng của Luật
Thƣơng mại năm 2005 nhằm đảm bảo quyền tự do thỏa thuận, tự do giao kết
của các bên và đáp ứng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Các bên có thể thỏa

thuận thêm các hình thức chế tài mà Luật Thƣơng mại năm 2005 không quy
định cụ thể nhƣ cầm giữ tài sản, yêu cầu phong tỏa tài khoản…. để đảm bảo
cho việc thực hiện hợp đồng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc áp dụng các hình thức chế tài này sẽ theo điều kiện các bên đã thỏa
thuận và áp dụng quy định chung của Bộ luật Dân sự năm 2005.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại
● Khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại
Bồi thƣờng thiệt hại là chế tài pháp luật phổ biến đã có từ lâu trong hệ
thống pháp luật của nƣớc ta cũng nhƣ của các nƣớc trên thế giới. Theo Từ
điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tƣ pháp,


13
xuất bản năm 2006 có ghi: “Bồi thường thiệt hại là việc người có hành vi vi
phạm, có lỗi trong việc gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần phải bồi hoàn
cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đáp tổn thất tinh
thần cho người bị thiệt hại” [20, tr.84]. Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại bao
gồm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại về tinh thần.
Tại Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam quy định về trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại về vật
chất, trách nhiệm bồi thƣờng bù đắp tổn thất về tinh thần.
Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn
thất vật chất thực tế, tính đƣợc thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn
thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Ngƣời gây thiệt hại về tinh thần cho ngƣời khác do sâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của ngƣời đó thì ngoài việc chấm

dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thƣờng một
khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho ngƣời bị thiệt hại.
Khoản 1, Điều 302 Luật Thƣơng mại năm 2005 quy định: “Bồi thường
thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm
hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Trong hoạt động thƣơng mại, với tính
chất đền bù ngang giá, ngƣời ta chỉ chấp nhận bồi thƣờng các thiệt hại vật
chất, còn các thiệt hại về tinh thần nhƣ tổn hại về uy tín, danh dự của thƣơng
hiệu về nguyên tắc không đƣợc chấp nhận bồi thƣờng. Quy định của Luật
Thƣơng mại (2005) đã thể hiện rõ bản chất của chế tài bồi thƣờng thiệt hại.
Từ cách tiếp cận đó, có thể đƣa ra khái niệm bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại nhƣ sau:
Bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại
là việc một bên trong hợp đồng phải bù đắp các tổn thất thực tế, trực tiếp do


14
hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều
khoản hợp đồng mà mình gây ra cho phía bên kia.
● Đặc trưng pháp lý của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại
♦ Bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng
mại phát sinh khi hợp đồng đã đƣợc ký kết và có hiệu lực pháp luật.
Là một hình thức trách nhiệm hợp đồng, bồi thƣờng thiệt hại cũng có
đặc trƣng giống nhƣ các hình thức trách nhiệm hợp đồng nói chung, đó là chỉ
phát sinh khi hợp đồng đã đƣợc ký kết và có hiệu lực pháp luật. Nếu hợp
đồng chƣa đƣợc ký hoặc đã đƣợc ký kết nhƣng chƣa có hiệu lực pháp luật
hoặc hợp đồng vô hiệu thì các bên trong quan hệ hợp đồng chƣa bị ràng buộc
với nhau về mặt pháp lý nên vấn đề bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng
cũng không đƣợc đặt ra. Đặc điểm này cho phép phân biệt bồi thƣờng thiệt hại
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại với một số hình thức trách

nhiệm bồi thƣờng khác, nhƣ trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng:
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt ngoài hại quy định tại
Điều 604 Bộ luật Dân sự 2005 nhƣ sau: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của
pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Cơ sở của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng là những
quy định của pháp luật (quy định những hậu quả pháp lý ngoài mong muốn
của chủ thể) không có sự thỏa thuận trƣớc của các bên và đƣợc phát sinh chỉ
trên cơ sở hành vi bất hợp pháp do lỗi cố ý hoặc vô ý. Các quyền và nghĩa vụ
pháp lý hoàn toàn do pháp luật quy định, trƣớc thời điểm phát sinh trách
nhiệm các bên trong quan hệ pháp luật này không có quan hệ hợp đồng.
Trong trƣờng hợp có quan hệ hợp đồng nhƣng nếu có việc gây thiệt hại không
liên quan gì đến việc thực hiện hợp đồng thì đó cũng là trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.


15
Nhƣ vậy có thể thấy sự khác biệt cơ bản giữa bồi thƣờng thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại với bồi thƣờng thiệt hại ngoài
hợp đồng là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng.
Lĩnh vực phát sinh trách nhiệm này cũng là cơ sở cho phép phân biệt
bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại với bồi
thƣờng thiệt hại do vi phạm một số hợp đồng khác nhƣ hợp đồng lao động,
hợp đồng dân sự.
♦ Bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thƣơng
mại một chế tài mang tính chất tài sản.
Tính chất tài sản của bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong
hoạt động thƣơng mại thể hiện ở các khía cạnh sau:
Một là, bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động

thƣơng mại chỉ chấp nhận bồi thƣờng các thiệt hại về vật chất. Trong khi bồi
thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng chấp nhận bồi thƣờng cả các tổn hại về vật
chất và các tổn hại về tinh thần (Khoản 1Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005).
Hai là, về cách thức áp dụng chế tài và mức độ bù đắp lợi ích vật chất:
Mặc dù cùng là chế tài áp dụng cho vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thƣơng mại nhƣng cách thức thực thi chế tài bồi thƣờng thiệt hại và chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng lại hoàn toàn khác nhau.
Cách thức thực thi chế tài bồi thƣờng thiệt hại là bên vi phạm hợp đồng phải
dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bù đắp các tổn thất vật chất do
hành vi vi phạm gây ra cho bên bị vi phạm. Trong khi đó, chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng, mặc dù cũng đem lại những hậu quả
vật chất bất lợi nhất định cho ngƣời bị áp dụng, nhƣng không có việc ngƣời vi
phạm dùng tiền và tài sản của mình để trả cho ngƣời bị vi phạm. Hai chế tài
này đƣợc thực hiện thông qua các quyền yêu cầu của bên có quyền lợi bị vi
phạm, buộc bên vi phạm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng; hoặc tuyên bố hủy
bỏ một phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ hợp đồng.


16
Việc quy định mức phạt của chế tài bồi thƣờng thiệt hại và chế tài phạt
vi phạm hợp đồng là khác nhau. Phạt vi phạm hay còn gọi là bồi thƣờng thiệt
hại đƣợc xác định trƣớc, với các mức phạt đƣợc xác định trƣớc theo giá trị
hợp đồng do các bên trong quan hệ hợp đồng đã thỏa thuận khi ký kết hợp
đồng. Điều 301 Luật Thƣơng mại quy định: Mức phạt đối với vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận
trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này. Nếu các bên thỏa
thuận mức phạt thấp hơn mức này thì sẽ áp dụng mức phạt do các bên thỏa
thuận. Trƣờng hợp các bên chỉ quy định trong hợp đồng về việc phạt vi phạm
mà không nêu mức phạt cụ thể hoặc mức phạt vƣợt quá mức 8%, khi có tranh

chấp xảy ra, mức phát 8% giá trị của phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm sẽ
đƣợc áp dụng.
Ví dụ: Doanh nghiệp A và B ký kết hợp đồng có giá trị 5 tỷ đồng. A là
bên vi phạm, xảy ra các trƣờng hợp. Trường hợp 1: Nếu bên nào vi phạm sẽ
bị phạt 20% giá trị hợp đồng, tƣơng đƣơng 1 tỷ đồng. Khi tranh chấp xảy ra
bên B chỉ nhận đƣợc khoản tiền phạt vi phạm tối đa là 8% giá trị của phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, tƣơng đƣơng 400 triệu đồng; trường hợp 2:
Không quy định mức phạt cụ thể, chỉ quy định mức phạt do pháp luật quy
định, nhƣ vậy bên B cũng nhận đƣợc số tiền tối đa 400 triệu đồng; trường
hợp 3: Hợp đồng quy định bên nào vi phạm sẽ bị phát 1% giá trị của phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, nếu tranh chấp xảy ra bên B chỉ nhận đƣợc số
tiền tƣơng đƣơng 50 triệu đồng.
Trong khi đó, nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại là bồi thƣờng toàn bộ và
kịp thời, mức bồi thƣờng không bị giới hạn bởi giá trị hợp đồng nhƣ chế tài
phạt vi phạm. Có những trƣờng hợp số tiền bồi thƣờng thiệt hại còn lớn hơn
cả giá trị hợp đồng đã ký kết.
Bồi thƣờng thiệt hại, nghĩa vụ bồi thƣờng thiệt hại vẫn phát sinh dù
không có thỏa thuận giữa các bên và khi hội tụ đủ các yếu tố nhƣ: Có hành vi
vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và có mối quan hệ nhân quả giữa hành


17
vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Đối với chế tài bồi thƣờng thiệt hại, luật pháp
không giới hạn mức tối đa bên vi phạm phải bồi thƣờng mà chỉ quy định:
Mức bồi thƣờng phải bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi
phạm đáng lẽ đƣợc hƣởng nếu không có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, luật
cũng quy định các trƣờng hợp đƣợc miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm nhƣ: trƣờng hợp miễn trách nhiệm do các bên đã thoả thuận; sự kiện bất
khả kháng; hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; hành vi

vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nƣớc
có thẩm quyền mà các bên không thể biết đƣợc vào thời điểm giao kết hợp
đồng. Nếu trong một hợp đồng thƣơng mại có quy định điều khoản phạt vi
phạm thì khi vi phạm và thiệt hại xảy ra, bên bị vi phạm có thể áp dụng cùng
lúc cả hai chế tài: Phạt vi phạm và bồi thƣờng thiệt hại. Do đó, để đảm bảo
quyền lợi của mình, hiện nay các doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng đặc biệt
lƣu ý xây dựng điều khoản phạt vi phạm trong hợp đồng.
Nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thƣơng mại có sự khác biệt cơ bản so với nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại theo
quy định của pháp luật về lao động. Cụ thể là: Quan hệ hợp đồng trong hoạt
động thƣơng mại, bên vi phạm hợp đồng phải bồi thƣờng toàn bộ thiệt hại do
hành vi vi phạm của mình gây ra, trong khi đó, Bộ luật Lao động tùy từng
trƣờng hợp cụ thể, có thể chỉ buộc ngƣời gây thiệt hại bồi thƣờng một phần
thiệt hại.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 130 Bộ luật Lao động năm 2013 quy định: “…
Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá
trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng
tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất
là 3 tháng tiền lương và được khấu trừ hàng tháng vào lương…”.
♦ Mục đích áp dụng chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thƣơng mại là đảm bảo lợi ích tối đa cho các bên liên quan
trong quan hệ hợp đồng


18
Mục đích quan trọng nhất của chế tài bồi thƣờng thiệt hại là đảm bảo
lợi ích tối đa cho các bên liên quan trong quan hệ hợp đồng. Đối với bên bị vi
phạm hợp đồng, chế tài bồi thƣờng thiệt hại là một biện pháp hữu hiệu nhất
nhằm khôi phục lợi ích vật chất, bù đắp những tổn thất mà họ phải gánh chịu
do hành vi vi phạm của bên kia. Đó là toàn bộ những tổn thất thực tế, trực tiếp

cũng nhƣ những khoản lợi đáng lẽ đƣợc hƣởng nếu không có hành vi vi phạm
hợp đồng. Đối với bên vi phạm, mặc dù bồi thƣờng thiệt hại là một chế tài
mang tính trừng phạt với họ nhƣng nó vẫn đảm bảo lợi ích chính đáng cho họ.
Điều này thể hiện ở các quy định về miễn giảm trách nhiệm, nghĩa vụ chứng
minh và hạn chế tổn thất của bên yêu cầu bồi thƣờng. Với các chủ thể liên
quan, chế định bồi thƣờng thiệt hại cũng góp phần đảm bảo lợi ích cho các
chủ thể khác trong nền kinh tế với việc quy định tiền bồi thƣờng thiệt hại mà
bên bị vi phạm đã phải trả cho bên thứ ba có liên quan.
1.1.3. Chức năng của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại
Thứ nhất, chức năng bảo vệ lợi ích của các bên trong quan hệ hợp
đồng. Lợi ích kinh tế là mục tiêu hàng đầu của các bên khi giao kết hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại. Lợi ích đó trƣớc hết phải là những lợi ích hợp pháp
nhận đƣợc từ việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng nhƣ lợi nhuận từ việc mua bán
hàng hóa. Hành vi vi phạm hợp đồng sẽ trực tiếp làm giảm sút những lợi ích
hợp pháp của bên bị vi phạm, thậm chí làm phát sinh những nghĩa vụ tài sản
của bên bị vi phạm với ngƣời khác. Vì mục đích áp dụng chế tài này sẽ là biện
pháp hữu hiệu bảo vệ lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng.
Thứ hai, chức năng phòng ngừa hành vi vi phạm. Với nguyên tắc suy
đoán lỗi, pháp luật thƣơng mại hiện hành buộc bên vi phạm hợp đồng phải
chịu trách nhiệm với mọi hành vi vi phạm hợp đồng thƣơng mại đã ký kết có
hiệu lực pháp luật dẫn đến thiệt hại cho bên kia, ngoại trừ các trƣờng hợp
miễn trách nhiệm. Pháp luật mặc định rằng nếu bên vi phạm hợp đồng, gây
thiệt hại cho bên kia, đƣơng nhiên bị coi là có lỗi nếu bên vi phạm không


19
chứng minh đƣợc mình không có lỗi và khi đó bên vi phạm sẽ bị áp dụng chế
tài bồi thƣờng thiệt hại. Nhƣ vậy, bên vi phạm hợp đồng luôn bị đe dọa phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Các quy định về chế tài do vi

phạm hợp đồng nói chung, chế tài bồi thƣờng thiệt hại nói riêng có tác động
mạnh vào ý thức của các bên trong việc thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo
hợp đồng, ngăn ngừa và hạn chế việc vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, chức năng giáo dục. Việc bị áp dụng chế tài bồi thƣờng thiệt
hại luôn mang lại hậu quả pháp lí bất lợi đối với ngƣời có hành vi vi phạm.
Họ không những có thể mất đi những lợi ích nhất định về kinh tế mà còn có
thể bị giảm sút về uy tín. Việc áp dụng chế tài bồi thƣờng thiệt hại không
những buộc chủ thể có hành vi gây tổn thất cho cá nhân, tổ chức khác phải
chịu trách nhiệm về hành vi của mình mà còn giúp họ rút ra bài học kinh
nghiệm, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng nhƣ ý thức của những chủ
thể này khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ hợp
đồng nói riêng.
1.2. Khái quát pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thƣơng mại
1.2.1. Nguồn pháp luật điều chỉnh
Hiện nay, Việt Nam là quốc gia đang phát triển với nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trƣờng, đồng thời bảo đảm định hƣớng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nƣớc. Đó là nền kinh
tế thị trƣờng hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nƣớc
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tƣ nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế;


×