Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Giáo trình tham vấn (nghề công tác xã hội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.4 KB, 124 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH

GIÁO TRÌNH
MƠ ĐUN: THAM VẤN
NGHỀ: CƠNG TÁC XÃ HỘI
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG/TRUNG CẤP
Ban hành kèm theo Quyết định số:
/QĐ-TCGNB ngày…….tháng….năm
của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình

Ninh Bình

1


TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thơng tin có thể
được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và
tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.

2


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Bài 1:Một số vấn đề cơ bản về tham vấn
1.Khái niệm tham vấn các khái niệm có liên quan
2.Mục đích ý nghĩa của tham vấn


3.Phân loại tham vấn
4.Các quan điểm giá trị và nguyên tắc đạo đức cơ bản của tham vấn
5.Lịch sử nghề tham vấn
Bài 2:Tham vấn cá nhân
1.Khái niệm chung về tham vấn cá nhân
2.Một số cơ sở lý thuyết cho tham vấn cá nhân
3.Kỹ năng tham vấn cơ bản
4.Các bước tham vấn sử dụng mơ hình của Egans
Bài 3:Tham vấn gia đình
1.Một số vấn đề chung về tham vấn gia đình
2.Một số mơ hình can thiệp trong tham vấn gia đình
3.Quy trình tham vấn trong gia đình
4.Một số kỹ thuật, kỹ năng trong tham vấn gia đình
Bài 4:Tham vấn nhóm
1. Khái qt chung về tham vấn nhóm .
2.Tương tác giữa các thành viên trong nhóm
3.Tiến trình hoạt động nhóm
4.Kết thúc cuộc tham vấn nhóm
5.Đánh giá nhóm
6.Một số kỹ năng trong tham vấn nhóm
TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế con người
ngày nay cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề trong cuộc sống, khi lâm vào
những hoàn cảnh như vậy nhiều khi họ không tự giải quyết được mà cần tới sự
giúp đỡ từ những người bên ngồi: đó có thể là các nhân viên tâm lý hoặc các

3



nhân viên cơng tác xã hội. Vì thế các kiến thức và kỹ năng tham vấn trở nên rất
cần thiết với những người đang học và làm việc trong nghề này. Không chỉ như
vậy đối với hầu hết tất cả mọi người các kiến thức và kỹ thuật trong việc trò
chuyện với người khác cũng nên được phổ biến, để mỗi cá nhân, gia đình hay
nhóm trở nên hiểu biết về nhau, có bầu khơng khí tâm lý lành mạnh từ đó giảm
bớt đi những căng thẳng, áp lực và những xung đột trong cuộc sống.
Xuất phát từ lý do đó chúng tơi đã biên tập giáo trình này dựa trên chương
trình khung của Tổng cục giáo dục nghề nghiệp đã ban hành. Tài liệu tham khảo
chính của chúng tơi khi biên tập giáo trình này là dựa trên cuốn giáo trình Tham
vấn tâm lý của Giáo sư Trần Thị Minh Đức – Trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân Văn Hà Nội và cuốn giáo trình Tham vấn của Tiến sĩ Bùi Thị Xuân Mai
– Trường Đại học Lao động Xã hội. Cuốn giáo trình này gồm có 4 bài:
Bài 1: Một số vấn đề cơ bản về tham vấn
Bài 2: Tham vấn cá nhân
Bài 3: Tham vấn gia đình
Bài 4: Tham vấn nhóm
Trong q trình biên soạn do năng lực và thời gian còn hạn chế, chúng tơi
thiết nghĩ giáo trình chắc khơng tránh khỏi những sai sót. Chúng tơi rất mong
nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp và các em học sinh để hoàn thiện trong
những lần biên tập sau.
Xin chân thành cảm ơn!
Ninh Bình, ngày tháng năm
Tham gia biên soạn:
1. Nguyễn Thị Lành
2. Lê Hùng Cường
3. Phạm Thu Phương

GIÁO TRÌNH THAM VẤN
Tên mơ đun: Tham vấn

Mã mơ đun: MĐ18
Ví trí, tính chất, ý nghĩa và vai trị của mơn học/mơ đun:

4


- Vị trí: Tham vấn là mơn học lý thuyết chun mơn nghề quan trọng của
chương trình đào tạo nghề công tác xã hội được sắp xếp sau khi đã học các môn
cơ sở nghề và đã học một số mơn học chun mơn nghề cơng tác xã hội.
- Tính chất: Là mô đun chuyên môn nghề bắt buộc
- Ý nghĩa và vai trị của mơ đun: Mơn học tham vấn có ý nghĩa rất quan
trọng trong chương trình đào tạo nghề công tác xã hội và cung cấp dịch vụ trợ
giúp đối tượng.
Mục tiêu của mô đun:
- Về kiến thức: Trình bày được khái niệm, các nguyên tắc đạo đức trong
tham vấn và quy trình tham vấn
- Về kỹ năng: Vận dụng các kỹ năng lắng nghe, thấu cảm, phản hồi, đặt
câu hỏi, hỗ trợ thân chủ xây dựng chiến lược và kế hoạch quản lý vấn đề của
mình trong q trình tham vấn cá nhân, nhóm và gia đình.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Rèn luyện đức tính tơn trọng, chia
sẻ, đồng cảm với đối tượng, cam kết hỗ trợ thân chủ giải quyết vấn đề của họ;
Tích cực học tập và nghiên cứu bồi dưỡng kiến thức chuyên môn.
Nội dung của mô đun:
BÀI 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THAM VẤN
Mã bài: MĐ 18 – 01

Mục tiêu:
- Về kiến thức:
+ Trình bày được những kiến thức chung về tham vấn: khái niệm, ý nghĩa,
các loại hình tham vấn

+ Các nguyên tắc đạo đức nghề tham vấn
- Về kỹ năng: Vận dụng đúng và linh hoạt các lý thuyết, nguyên tắc đạo
đức và kỹ năng trong các ca tham vấn
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Cảm thông, thấu cảm và tôn trọng tính
riêng tư, cá biệt của đối tượng trợ giúp; Tích cực học tập và rèn luyện nâng cao
khả năng tự học, tự nghiên cứu.

Nội dung chính:

5


1. Khái niệm chung về tham vấn
1.1 Khái niệm tham vấn
Trong cuộc đời mỗi con người đều có thể gặp phải những khó khăn về sức
khỏe, cơng việc, tài chính, quan hệ xã hội...Trong những tình huống đó một số
người rơi vào tình trạng mất cân bằng tâm lý khiến họ có những cảm xúc, suy
nghĩ, hành vi khơng hợp lý và sự hòa nhập xã hội của họ gặp nhiều trở ngại.
Trong bối cảnh như vậy họ đã không tự giải quyết được vấn đề của mình mà cần
tới sự trợ giúp từ bên ngoài. Hoạt động trợ giúp lúc đầu mang tính tự phát sau đó
trở nên khoa học hơn với tên gọi là tham vấn.
Tham vấn trong tiếng Anh là Counseling.
Một số định nghĩa về tham vấn như sau:
Rogers Jenny (1990): Tham vấn là hoạt động nhằm giúp đỡ con người tự
giúp chính họ. Hoạt động tham vấn sẽ giúp họ nâng cao khả năng tự tìm giải
pháp đối phó với vấn đề và thực hiện tốt chức năng của mình trong cuộc sống.
P.K. Odhner (1998): Tham vấn là q trình trợ giúp chun nghiệp có
mục đích rõ ràng đòi hỏi nhà tham vấn sử dụng thời gian, thuần thục trong kỹ
năng để giúp đỡ đối tượng tìm hiểu, xác định vấn đề và triển khai giải pháp
trong điều kiện cho phép.

J. Mielke (1999): lại coi tham vấn là một quá trình, một mối quan hệ
nhằm giúp đỡ thân chủ cải thiện cuộc sống của thân chủ bằng cách khai thác,
nhận thức và thấu hiểu những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của họ
Nguyễn Thị Giồng cũng nhận định tham vấn là tiến trình liên hệ tương hỗ
giữa nhà tham vấn- là người được huấn luyện và thân chủ- là người cần được
giúp đỡ vì người đó khơng thể tự mình giải quyết được.
Như vậy qua nghiên cứu một số khái niệm trên về tham vấn, chúng ta có
thể nhận thấy một số nét chung nhất được các tác giả đề cập tới, đó là:
Hoạt động tham vấn là hoạt động trợ giúp con người tự giúp chính bản
thân họ. Là một q trình trợ giúp tâm lý, trong đó nhà tham vấn sử dụng

6


kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ nghề nghiệp để thiết lập mối
quan hệ tương tác tích cực với thân chủ nhằm giúp họ nhận thức được
hoàn cảnh vấn đề thay đổi cảm xúc, suy nghĩ và hành vi, tìm kiếm giải pháp
cho vấn đề của mình.
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy tham vấn có một số đặc điểm như sau:
- Hoạt động này diễn ra trong một qui trình
- Hoạt động này khơng chỉ giúp con người giải quyết được vấn đề mà còn
giúp họ nâng cao khả năng đối phó với vấn đề trong các hoàn cảnh khác.
- Để làm được nhiệm vụ trên, nhà tham vấn cần được đào tạo để trang bị
kiến thức và kỹ năng tham vấn thành thạo. Đồng thời nhà tham vấn cũng cần có
những phẩm chất nhất định.
Các định nghĩa trên cho ta thấy mục đích chung nhất của tham vấn là giúp
đỡ đối tượng giải quyết vấn đề, tăng cường khả năng đối phó, phịng ngừa với
vấn đề có thể xảy ra.
Các mục tiêu cụ thể trong tình huống tham vấn bao gồm:
- Giúp đối tượng giải toả tâm lý

- Giúp đối tượng tăng cường hiểu biết về bản thân và mơi trường xung
quanh từ đó thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi.
- Giải quyết vấn đề đang tồn tại: có khả năng đưa ra những quyết định hợp
lý và thi hành các quyết định đó.
1.2 Mục đích, ý nghĩa của tham vấn
a. Mục đích
Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường phải đối mặt với những
khó khăn nhất định. Ví dụ như sự ra đi của người thân, sự ốm đau, bệnh tật bản
thân hay người trong gia đình, những mâu thuẫn giữa cha mẹ, vợ chồng hay con
cái v.v. Trong những tình huống đó, các cá nhân và gia đình thường phát sinh
những cảm xúc tiêu cực, hành vi không hợp lý và họ trở nên bối rối, lúng túng
trong tìm biện pháp giải quyết. Do vậy, hoạt động tham vấn sẽ giúp cá nhân và

7


gia đình trước hết giải toả được những cảm xúc tiêu cực, giúp họ trở nên sáng
suốt hơn, có lý trí hơn để nhìn nhận vấn đề, hồn cảnh thực tại từ đó đưa ra giải
pháp phù hợp nhất với điều kiện của chính mình. Một ý nghĩa quan trọng khác
của hoạt động tham vấn, đó là nó khơng chỉ dừng lại ở mục đích giải quyết vấn
đề mà cịn hướng tới việc giúp cá nhân tăng cường những kỹ năng, biết cách
nhìn nhận vấn đề tự tin ở chính khả năng giải quyết vấn đề của mình. Bằng
những kỹ thuật chuyên môn nhà tham vấn giúp đối tượng khơi dậy được tiềm
năng của mình. Đây cũng là cơ sở để cá nhân, gia đình khơng chỉ tăng cường
giải quyết những vấn đề mà họ đang phải đối mặt mà cịn khả năng đối phó với
những vấn đề khác có thể xảy ra sau này. Đây cũng chính là mục tiêu cuối cùng
của tham vấn .
Theo James Hunchingson Haney và Jacquline Leibssohn tham vấn có
những mục tiêu cụ thể sau:
- Nhẳm thúc đẩy sự nhận biết của thân chủ nhận thức về cảm xúc hành vi

và những trải nghiệm của chính họ.
- Thứ hai là nhằm tối ưu hóa hoặc thúc đẩy việc ra quyết định một cách
đúng đắn thông qua khám phá cảm xúc hành vi và những giải pháp có
thể.
- Thứ ba là triển khai hành động hợp lý nhằm tăng cường chức năng cá
nhân và xã hội của đối tượng.
b. Ý nghĩa của tham vấn
Ngày nay, đặc biệt là ở các nước phát triển, sự tồn tại và phát triển của
mỗi cá nhân của gia đình khơng chỉ phụ thuộc vào yếu tố vật chất mà họ còn
phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố tinh thần, quan hệ xã hội khác trong cuộc
sống. Một xã hội càng phát triển bao nhiêu thì các vấn đề tâm lý xã hội càng trở
nên phức tạp bấy nhiêu, khiến cho các cá nhân và gia đình gần như phải đối mặt
với chúng thường xuyên trong cuộc sống hằng ngày. Tồn tại những trường hợp
khi cá nhân hoặc gia đình rơi vào tình huống căng thẳng, họ trở nên lúng túng và

8


đã tìm đến những giải pháp tiêu cực như tự sát, bạo lực hay ly tán v.v. Việc tồn
tại các trung tâm tham vấn tại các khu dân cư đóng vai trị như một cơng cụ cần
thiết khơng những nhằm giúp cá nhân và gia đình giải quyết các vấn đề của họ
nhanh chóng và kịp thời mà cịn có tác dụng phòng ngừa được những hành vi
tiêu cực bột phát khi họ đang ở trong tình huống khủng hoảng. Chính vì vậy ở
các nước phương Tây, nơi có nền kinh tế phát triển, xã hội phát triển ở trình độ
cao, hoạt động tham vấn đã trở nên rất phổ biến.
Tham vấn khơng chỉ có tác dụng đối với việc giúp con người giải quyết
vấn đề mà nó có ý nghĩa quan trọng với việc tăng cường khả năng thích nghi xã
hội của cá nhân và gia đình. Thơng qua tham vấn, con người sẽ được bổ sung
các kỹ năng sống cũng như các kỹ năng giao tiếp xã hội, tạo nền tảng cho sự
nâng cao khả năng hoà nhập xã hội của mỗi cá nhân trong gia đình, cũng như

cộng đồng xã hội nơi mà họ sinh sống và làm việc.
Hiện nay vấn đề sức khoẻ tâm thần của mỗi người dân là một trong những
nội dung đang được các nước phát triển đặc biệt quan tâm, bởi nó có ý nghĩa
tương đối quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Một cá nhân hay
gia đình có được cân bằng trong cuộc sống hay khơng sẽ là một nền tảng vững
chắc cho phát huy năng lực, khả năng lao động sáng tạo và đóng góp nhiều hơn
sản phẩm trí tuệ cho việc xây dựng quốc gia đó. Tham vấn với chức năng và
nhiệm vụ xác định trở thành một trong những lĩnh vực chuyên môn tham gia
tích cực cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống, nền an sinh của mỗi cá nhân
và gia đình từ đó góp phần cho q trình ổn định xã hội.
1.3. Các khái niệm có liên quan.
Mặc dù dịch vụ tham vấn được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế
giới, nhưng việc hiểu biết chính xác về khái niệm này cịn là một vấn đề, thậm
chí người ta cịn đánh đồng chúng với một số khái niệm khác có liên quan. Ở
Việt Nam, khơng ít các tranh luận diễn ra trong thời gian gần đây về khái niệm
tham vấn. Nhiều câu hỏi đặt ra rằng: Tham vấn có phải là tư vấn không? Tham

9


vấn có khác với trị liệu tâm lý khơng? Và Tham vấn có bao gồm giáo dục
khơng?...
Counseling - tiếng Anh được dịch ra tiếng Việt với những nghĩa khác
nhau như Tham vấn, Tư vấn, Tư vấn tâm lý và được biết đến như là một hoạt
động trợ giúp con người giải quyết các vấn đề tâm lý xã hội, những tình huống
stress hay khủng hoảng tâm lý xảy ra đối với cá nhân và gia đình trong cuộc
sống hàng ngày.
Trong từ điển bách khoa Việt Nam, Tư vấn được xem như là quá trình mà
một cá nhân dựa trên hiểu biết của mình về một lĩnh vực nào đó đưa ra những
hướng dẫn, chỉ bảo, lời khuyên. Nếu theo như nghĩa này của Tư vấn, thì Tư vấn

sẽ khơng phải là Tham vấn và nó chỉ đúng với các loại hình tư vấn pháp luật, tư
vấn đầu tư, tư vấn kinh tế v.v.. Hoạt động tham vấn về bản chất không phải là
sự trợ giúp đơn thuần bằng việc đưa ra lời khun, mà đó là q trình tương tác
tích cực giữa nhà tham vấn và thân chủ. Trong quá trình này thân chủ là người
chủ động trong quá trình đưa ra quyết định và giải pháp cho vấn đề cuả chính
mình.
Trị liệu tâm lý là một khái niệm rất gần gũi với tham vấn và hiện đang có
một tranh luận rằng trị liệu tâm lý có phải là tham vấn hay là một hoạt động
khác biệt.
Một số tác giả cho rằng trị liệu tâm lý là một thuật ngữ chung nhất chỉ tất
cả các can thiệp cho gia đình và cá nhân có những vấn đề về tâm lý. Nếu xem
xét trên một trục có can thiệp mang tính tâm lý thì các tác giả cho rằng ở một
đầu là những can thiệp chữa trị tâm lý cho những người có vấn đề rối loạn tâm
lý và đầu bên kia là tham vấn bao gồm hoạt động giúp đỡ những người có những
vấn đề tâm lý nhưng ở mức độ bình thường hàng ngày. Và như vậy những nguời
theo xu hướng này cho rằng tham vấn là một dạng của trị liệu tâm lý (Robinson,
1950; Thorne, 1950)

10


Bên cạnh đó một số tác giả cho rằng Trị liệu tâm lý là dạng hoạt động
chuyên môn chủ yếu tập trung vào việc khôi phục lại cá nhân ở cả hai mức độ
vô thức và ý thức. Và những tác giả này phân biệt sự khác biệt giữa tham vấn và
trị liệu tâm lý. Họ cho rằng trị liệu tâm lý chú trọng tới xóa bỏ những yếu tố
mang tính bệnh lý nhiều hơn, cịn tham vấn lại nhấn mạnh tới việc lên kế hoạch
hợp lý để giải quyết vấn đề thích nghi như khó khăn trong cuộc sống hàng ngày
ví dụ như trong học tập, trong giao tiếp, những mâu thuẫn nhỏ làm xuất hiện sự
lo lắng, tâm trạng hận thù (Tyler, 19958; Vance và Volvosky 1962).
Cuộc tranh luận phân biệt hai thuật ngữ này hiện nay vẫn chưa kết thúc.

Song có một điều mà tất cả các tác giả đều thống nhất rằng cả tham vấn và trị
liệu cần phải quan tâm tới mục đích là giúp con người thay đổi những suy nghĩ,
cảm xúc hay hành vi tiêu cực và cần sử dụng những biện pháp tâm lý. Cũng
chính vì vậy trong nhiều tài liệu, hai thuật ngữ Tham vấn (counseling) và trị liệu
tâm lý (psychoterapy) được sử dụng thay thế cho nhau.
Trong thực tiễn tại một số nước hiện nay, nếu xét dưới góc độ chuyên
môn sâu, các nhà trị liệu tâm lý thiên về việc sử dụng những kỹ thuật tác nghiệp
bao gồm cả liệu pháp tâm lý và thậm chí bằng cả tác động y học như thuốc
nhằm xử lý những rối nhiễu tâm lý mang tính bệnh lý nhiều hơn. Đối với tình
huống có vấn đề về tâm lý xã hội, mối quan hệ xã hội mang tính thường ngày thì
thường địi hỏi sự can thiệp của hoạt động tham vấn và phương tiện chủ yếu là
mối quan hệ tương tác tích cực giữa nhà tham vấn và đối tượng. Trong những
trường hợp có rối nhiễu tâm lý nặng nhà tham vấn chuyển giao tới các nhà tâm
lý trị liệu.
Cố vấn được định nghĩa là chuyên gia với những hiểu biết chuyên mơn
sâu sắc có khả năng tham mưu về một lĩnh vực hoạt động nào đó. Như vậy, ở
đây cố vấn chỉ cá nhân có kinh nghiệm chun mơn cao làm nhiệm vụ cung cấp
những thông tin, đưa ra lời khuyên hay tham mưu cho cá nhân hay tổ chức về
lĩnh vực kinh tế xã hội nào đó. Mối quan hệ hợp tác ở đây mang tính chun
gia nên nó hồn toàn khác với mối quan hệ tương tác lấy đối tượng là trung tâm

11


trong giải quyết vấn đề trong hoạt động tham vấn. Người ta thường nhắc tới cố
vấn kinh tế, cố vấn pháp luật, cố vấn tài chính v.v. Hoặc khi một chuyên gia
tham vấn với sự hiểu biết chuyên môn và kinh nghiệm lâu năm trong nghề họ
cũng có thể sẽ là cố vấn cho các nhà tham vấn dưới quyền hoặc trẻ hơn.
Một số khác biệt giữa Tham vấn và Cố vấn
Tham vấn

Tiính chất quan hệ , Bình đẳng

Cố vấn
Tính “Trên - Dưới” thể

giao tiếp giữa nhà Khơng mang tính “Trên - Dưới”

hiện rõ

tham vấn và đối
tượng

Nhà tham vấn nghe nhiều nói ít

Nhà cố vấn giải thích
nhiều hơn, đối tượng
nghe nhiều hơn
Lời khuyên từ nhà cố

Việc ra quyết định

vấn rất quan trọng
Dựa trên khả năng và hoàn cảnh ý kiến của nhà cố vấn
thực tiễn của đối tượng là chính phần lớn có ảnh hưởng
có sự trợ giúp của những thơng mang tính quyết định

Thời gian tiến hành

tin từ nhà tham vấn
Diễn ra có thể nhiều lần: một Có thể diễn ra một lần

vài tuần, tháng, thậm chí hàng và ít lặp lại

năm
Yêu cầu thái độ kiến Thái độ thiện chí, thấu cảm là Kiến thức về một lĩnh
thức kỹ năng

chìa khố cho sự hợp tác trong vực chun mơn cụ thể
giải quyết vấn đề

(y tế, kinh tế, đầu tư,

Kiến thức về hành vi con người pháp luật..)
và kỹ năng giao tiếp và tham
vấn là yếu tố quan trọng để giúp
đối tượng tìm kiếm nguồn lực và
tìm giải pháp thích hợp

12


Giáo dục: Giáo dục là hoạt động mang tính hướng dẫn, dạy bảo, giáo dục
ý thức xã hội và cung cấp phương thức tư duy khoa học cho con người nói
chung, là hoạt động truyền đạt kinh nghiệm thế hệ trước cho thế hệ sau.
Trong hoạt động tham vấn đôi khi nhà tham vấn cần đóng vai trị nhà giáo
dục, song nhà tham vấn không phải là nhà giáo dục bởi lẽ: Đối tượng tác động
trong giáo dục không phải là những cá nhân đang trong tình trạng có vấn đề tâm
lý xã hội cần được giải quyết mà là những người có nhu cầu nâng cao trình độ
hiểu biết về tự nhiên, xã hội để từ đó họ có khả năng cải tạo thế giới.
Tâm lý học lâm sàng là một khoa học quan tâm tới việc mô tả, phân loại,
chẩn đoán những bệnh tâm lý và những người này thường làm trong các bệnh

viện. Các nhà tâm lý học lâm sàng có nhiệm vụ hỗ trợ các nhà tâm thần học
trong việc chẩn đoán và đánh giá những rối lọan tâm lý. (S.Narayana, 1984)
Theo S.Narayana, 1984, Các nhà tâm thầm học (psychiatry) quan tâm tới
những rối loạn tâm lý nặng và địi hỏi sự chăm sóc tại các cơ sở đặc biệt, các
nhà trị liệu tâm lý quan tâm tới những người có rối nhiều tâm lý ít nặng hơn
khơng địi hỏi sự chăm sóc tại bệnh viện. Cịn đối với những người có những
vấn đề khó khăn thích nghi cần tới sự trợ giúp của phần lớn là những nhà tham
vấn.
Tham vấn và công tác xã hội: Mặc dù các nhân viên công tác xã hội
truyền thống làm việc như những người bênh vực cho người nghèo và túng
quẫn, nhưng ngay từ năm 1990 cách thức tiếp cận trao đổi tâm tình với người
nghèo đã được Mary Richmon xem như là hình thức trợ giúp có hiệu quả và
tổng kết thành phương pháp trợ giúp cá nhân. Phương pháp này đã được đưa vào
chương trình đào tạo nhân viên trợ giúp với cá nhân. Tuy nhiên vẫn tồn tại sự
phân biệt về lý thuyết giữa thạc sĩ công tác xã hội và thạc sĩ tham vấn, theo
E.Neukrug (1999), hai vị trí này tương đồng nhau hơn là cách biệt. Với những
khóa đào tạo thêm về cơng tác giám sát thực hành tham vấn hoặc trở thành nhân
viên cơng tác xã hội có thể hoạt động như một nhà tham vấn hoặc trở thành nhân

13


viên công tác xã hội lâm sàng được cấp phép. Tuy nhiên thực tế thì các nhân
viên cơng tác xã hội thường được thuê bởi các dịch vụ cứu trợ trẻ em, các cơ
quan bao cấp của chính phủ, hay các tổ chức cộng đồng, các dịch vụ dành cho
gia đình, thực hành trong các bệnh viện, các trung tâm sức khỏe tâm thần hay
các nhà tạm cho những người vô gia cư, hoặc là người quản lý các dịch vụ xã
hội mà ít làm việc với tư cách là một nhà tham vấn hay trị liệu độc lập trên các
đối tượng có tổn thương tâm lý. Và cho dù các nhân viên công tác xã hội được
đào tạo khái quát về các kỹ thuật tham vấn nhưng họ thường không đi sâu vào

lĩnh vực tham vấn - một nghề đỏi hỏi sử dụng thông thạo nhiều hơn về các kiến
thức tâm lý.
1.4. Các loại hình tham vấn
Dựa vào đối tượng, khách thể và tính chất của dịch vụ tham vấn, người ta
có thể nhận diện các hình thức tham vấn khác nhau. Ví dụ căn cứ vào đối tượng
của sự trợ giúp chúng ta thấy người làm tham vấn được phân hố về chun
mơn khá sâu như tham vấn học đường ( các vấn đề của học sinh liên quan đến
trường học và sự trưởng thành của cá nhân), tham tham vấn HIV/AIDS, tham
vấn sức khỏe sinh sản, tham vấn hơn nhân gia đình, tham vấn tuổi già, tham vấn
sức khoẻ tâm thần…
Dựa trên tính chất của hoạt động tham vấn có thể chia thành hai hình
thức: tham vấn trực tiếp và gián tiếp. Tham vấn trực tiếp là hình thức tương tác
trực tiếp mặt đối mặt giữa nhà tham vấn. Đây là hình thức tham vấn phổ biến khi
thân chủ và nhà tham vấn ngồi cùng nhau trong một phịng. Do có thể trực tiếp
nghe và quan sát nhau nên hiệu quả thu được là khá cao, không tốn thời gian và
nó tạo cơ hội cho những phản hồi tức thời , hai bên nhận được những biểu hiện
phi ngôn ngữ của cơ thể. Thân chủ trong tham vấn trực tiếp có thể là một cá
nhân, một nhóm người hay một gia đình. Hình thức tham vấn gián tiếp – tham
vấn thông qua phương tiện trung gian như điện thoại, viết thư hay tham vấn trực
tuyến, qua đài phát thanh…

14


Trong các hình thức tham vấn gián tiếp thì tham vấn qua mạng Internet
được sử dụng khá phổ biến ở các nước có hệ thống dịch vụ Internet phát triển .
Cịn trong các hình thức tham vấn trực tiếp cả loại hình tham vấn cá nhân, tham
vấn gia đình và tham vấn nhóm đều phát triển trên thế giới. Ba loại hình này
chúng tơi sẽ trình bày ở phần sau.
Về loại hình tham vấn qua mạng ( online couseling) là một hình thức

tham vấn gián tiếp. Nó được định nghĩa là việc thực hành nghề tham vấn và
cung cấp thông tin được diễn ra thông qua mạng internet giữa nhà tham vấn và
thân chủ ở hai nơi khác nhau và thân chủ tự xác định địa điểm, thời gian bộc lộ
vấn đề của họ. Ngay từ khi mới xuất hiện tham vấn mạng đã gây ra nhiều tranh
cãi về tính hiệu quả cũng như tính đạo đức của loại hình trợ giúp này. Tham vấn
mạng không phù hợp với những vấn đề về lạm dụng tình dục, bạo hành, rối loạn
ăn uống, rối loạn tâm thần, những người có ý tưởng tự sát, giết người hay lạm
dụng trẻ em. Dù bị phản đối nhiều nhưng tham vấn mạng vẫn tồn tại và ngày
càng phát triển cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin.
Trên thế giới, dịch vụ được biết đến sớm nhất trong việc cung cấp lời
khuyên về tâm thần trực tuyến là “Hãy hỏi Bác Ezra”, một dịch vụ miễn phí
dành cho các sinh viên trường Đại học Cornell Ithaca, New York. Hoạt động
tham vấn qua internet với những hình thức kết nối đặc trưng bao gồm thư điện
tử, nói chuyện trực tuyến, diễn đàn và các loại hình khác. Hoạt động tham vấn
qua internet với những hình thức kết nối đặc trưng bao gồm thư điện tử, nói
chuyện trực tuyến, diễn đàn và các loại hình khác. Từ những năm 1990, với sự
xuất hiện phổ biến của internet, trị liệu đã chuyển từ ranh giới mặt đối mặt hay
qua điện thoại, sau đó là tham vấn qua thư điện tử, tham vấn trực tuyến, tham
vấn qua web hay tham vấn qua internet.Cách thức giao tiếp này có những ưu
điểm của viết thư, ngồi ra điểm mạnh còn là tốc độ truyền tin, phản hồi nhanh.
Những ưu điểm khác là khả năng gửi tư liệu một cách nhanh chóng hoặc các văn
bản điền theo mẫu, đường dẫn tới những trang web hữu ích khả năng tiếp cận
với những chuyên gia ở xa. Loại hình tham vấn này có thể duy trì liên lạc với

15


nhà trị liệu khi đi xa nhà hay cơ quan, thời gian tùy thuộc vào nhà tham vấn và
thân chủ.
Theo Wallbank, tham vấn qua hình thức viết thư có một số ưu điểm sau:

- Có cơ hội để bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc và giải tỏa những vấn đề
tâm lý khi chúng đang lên cao trào.
- Viết thư có thể được thực hiện vào bất cứ lúc nào, như vào buổi đêm khi
bọn trẻ đã đi ngủ và vợ/chồng khơng ở bên cạnh
- Thư có thể viết tiếp tục khi đã ngừng nhiều ngày, tuần hay tháng
- Thân chủ chủ động được thời gian
- Giảm được những cảm xúc bị kìm nén bằng cách viết ra trên giấy
những suy nghĩ, ý tưởng, cảm xúc và những mối quan tâm
- Biết rằng nhà tham vấn sẽ trả lời có thể giúp cho quá trình tiến triển của
thân chủ và được bí mật
2. Các quan điểm giá trị và nguyên tắc đạo đức cơ bản của tham vấn
2.1 Giá trị và nguyên tắc đạo đức trong tham vấn
Đạo đức là những nguyên lí, quy tắc quy định hành vi phải theo trong quan
hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội, tùy theo thể chế chính trị xã
hội mà các cá nhân sống trong đó.
Đạo đức trong tham vấn là thước đo quyết định xem hành vi của nhà tham
vấn trong q trình tham vấn có đúng khơng, có tốt, có làm sai, làm hại đến thân
chủ hay không. Đạo đức trong tham vấn đi xa hơn so với đạo đức thơng thường
trong đời sống hàng ngày, nó không chỉ quy định nhà tham vấn không làm điều
xấu cho thân chủ mà còn đặt ra vấn đề nhà tham vấn đã làm hết sức vì lợi ích
của thân chủ hay chưa?
Theo Egan giá trị không chỉ là những quan niệm mà nó cịn là hệ thống tiêu
trí và ảnh hưởng tới sự ra quyết định của con người (1994). Do vậy, ông cho

16


rằng trong quá trình trợ giúp giá trị nghề nghiệp sẽ có ảnh hưởng tới việc nhà
tham vấn sẽ thực thi nhiệm vụ của mình như thế nào.
Ơng đưa ra các giá trị trong hoạt động tham vấn như sau: thực tế, năng lực

phù hợp, tôn trọng, trung thực, trách nhiệm của đối tượng.
Các nguyên tắc đạo đức trong tham vấn được đưa ra trên cơ sở giá trị nghề
tham vấn, Chúng đóng vai trị như cơng cụ có ý nghĩa định hướng cho những
hành vi của nhà tham vấn nhằm bảo vệ uy tín của nghề nghiệp cũng như quyền
lợi của đối tượng.
Hoạt động tham vấn xuất phát từ quan điểm nhân đạo. Nguyên tắc hành
động là đặt lợi ích của đối tượng lên hàng đầu, coi trọng giá trị nhân phẩm của
họ, coi đối tượng đều có tiềm năng và khả năng tự giải quyết được vấn đề của
mình và mỗi đối tượng đều có tính độc đáo riêng nhà tham vấn cần phải tôn
trọng.
Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản mà nhà tham vấn cần phải tuân thủ
trong quá trình thực thi nhiệm vụ:
2.2. Nguyên tắc chấp nhận tôn trọng thân chủ (đối tượng)
Một trong những nguyên tắc cơ bản trước tiên mà nhà tham vấn cần phải
đảm bảo đó là tơn trọng nhân phẩm của thân chủ. Carl Roger xem đây như là
một phẩm chất đầu tiên mà mọi nhà tham vấn cần phải có và ơng cũng coi đó
như là một trong ba điều kiện tiên quyết cho sự thành công của ca tham vấn.
Thái độ Tôn trọng và chấp nhận của nhà tham vấn được thể hiện ở phong
cách đối xử với đối tượng như một cá nhân với nhân cách độc lập: họ có giá trị
riêng, có cách nhìn nhận riêng và có khả năng thay đổi. Khi đến với nhà tham
vấn, họ có thể có những hành vi, suy nghĩ mà những người bình thường khơng
chấp nhận, thậm chí cịn lên án những hành vi hay suy nghĩ đó. Nhưng nhà tham
vấn lại cần chấp nhận những tất cả những biểu hiện tiêu cực có thể thấy được ở
thân chủ. Tuy nhiên điều này khơng có nghĩa rằng nhà tham vấn đồng tình với
điều mà họ làm, cách mà họ nghĩ hay đánh giá hiện tượng và người khác. Với

17


cách nhìn nhận rằng, những hành vi, suy nghĩ tiêu cực đó là hậu quả của một

nguyên nhân nhất định chứ khơng phải là của do chính họ gây ra. Mặt khác nhà
tham vấn phải chấp nhận với những suy nghĩ, hành vi của thân chủ thì thân chủ
của họ mới dễ dàng bộc lộ và chia sẻ những vấn đề của họ và đi được đến cùng
vấn đề của thân chủ. Như vậy, nhiệm vụ của nhà tham vấn là giúp họ tháo bỏ
những rào cản xã hội để họ thay đổi hành vi, suy nghĩ đó cho phù hợp thực tiễn.
Đây cũng chính là mục tiêu của quá trình tham vấn. Nhà tham vấn cần phải có
lịng tin ở họ, tin rằng họ có khả năng thay đổi. Việc chấp nhận đối tượng trong
suy nghĩ và thể hiện bằng hành vi thân thiện, không phân biệt đối xử sẽ là yếu
tố tiền đề cho sự giúp đỡ chân thành của nhà tham vấn đối với vấn đề của thân
chủ. Việc chấp nhận vô điều kiện và sự trung thực, chân thành của nhà tham vấn
đối với thân chủ đã được Carl Roger coi như là kỹ thuật cơ bản cho quá trình
tương tác với thân chủ đồng thời cũng là hai trong ba điều kiện tiên quyết cho sự
thành cơng của q trình giúp đỡ.
2.3 . Khơng phán xét thân chủ
Không phán xét đối tượng thể hiện ở việc khơng chỉ trích hành vi suy
nghĩ của họ dù cho những điều mà họ làm là không đúng, cách họ suy nghĩ hoặc
cảm nhận là không hợp lý. Nguyên tắc này có mối liên quan mật thiết với
nguyên tắc trên. Cần chân thành và không lên án họ khi mắc những sai lầm.
Việc chấp nhận đối tượng đi cùng với việc không phán xét những hành vi, suy
nghĩ tiêu cực ở họ. Khi đối tượng đến với nhà tham vấn, họ mong muốn sự
thông cảm, lắng nghe và thấu hiểu họ. Đó chính là sự khác biệt của nhà tham
vấn với những người giúp đỡ thông thường, và cũng vì vậy mà họ cần sự giúp
đỡ từ nhà tham vấn chứ không phải những người khác.
2.4. Giành quyền tự quyết cho đối tượng
Tham vấn không phải là cho lời khuyên. Trong tham vấn với đúng nghĩa
chuyên nghiệp, nhà tham vấn không đưa ra quyết định thay thân chủ mà để thân
chủ tự đưa ra quyết định với sự lựa chọn cách giải quyết vấn đề của chính mình

18



trên cơ sở những thông tin, kết quả trao đổi với nhà tham vấn. Nhà tham vấn chỉ
đóng vai trị là người xúc tác và giúp đỡ thân chủ đưa ra các giải pháp và lựa
chọn cho mình một hướng đi phù hợp nhất với hoàn cảnh của bản thân. Khi này
địi hỏi nhà tham vấn cần có niềm tin vào khả năng tự giải quyết của đối tượng,
cần kiên trì với sự tiến bộ từng bước thậm chí thất bại ban đầu ở thân chủ, có
như vậy mới tránh hiện tượng làm thay, làm hộ hay gặp phải ở những nhà tham
vấn thiếu kinh nghiệm. Việc thân chủ tự đưa ra quyết định cịn có tác dụng giúp
cho họ có trách nhiệm với lựa chọn của mình cũng như sự tham gia tích cực vào
giải quyết vấn đề. Việc không lệ thuộc của thân chủ vào nhà tham vấn thể hiện
sự tự tin ở họ đã được tăng cường. Chính điều này sẽ giúp họ học được cách
thức giải quyết vấn đề trong tương lai.
2.5. Đảm bảo tính bí mật
Đây là một trong những nguyên tắc tối quan trọng trong tham vấn. Mọi
thông tin mà thân chủ chia sẻ với nhà tham vấn cần được đảm bảo kín đáo. Nhà
tham vấn không được tiết lộ những thông tin liên quan về đối tượng với những
người khác khi chưa có sự chấp thuận ý kiến của đối tượng. Điều này cũng được
qui định rất rõ ràng trong các qui điều đạo đức của nghề tham vấn.
Việc tuân thủ nguyên tắc này thể hiện ở cách sử dụng những thông tin của
đối tượng khơng có tên địa chỉ khi mà bắt buộc phải chia sẻ hay sử dụng những
thơng tin đó vào q trình đào tạo. Tạo nên một khơng gian riêng biệt khi làm
việc với đối tượng cũng sẽ giúp ích cho việc giữ kín các thông tin của thân chủ.
Việc giữ gìn các hồ sơ của đối tượng cẩn mật cũng là điều cần thiết phục vụ cho
nguyên tắc này.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt khi tính mạng của thân chủ
hay người khác bị đe doạ, nhà tham vấn có thể trao đổi với những cơ quan hay
cá nhân có liên quan mà khơng cần sự chấp thuận của đối tượng.
3.Phân loại tham vấn

19



Tham vấn trực tiếp là hình thức tương tác trực tiếp mặt đối mặt giữa nhà
tham vấn và thân chủ. Đây là hình thức tham vấn phổ biến khi thân chủ và nhà
tham vấn ngồi trong cùng một phòng. Do có thể được trực tiếp nghe và nhìn
nhau nên hiệu quả tham vấn thu được là khá cao, không tốn thời gian và nó tạo
cơ hội cho những phản hồi tức thì và hai bên nhận biết được những biểu hiện phi
ngôn ngữ của cơ thể. Thân chủ tham vấn trực tiếp có thể là một cá nhân, một
nhóm người hay một gia đình.
3.1Tham vấn cá nhân ( Indiviual counseling )
Đây là hình thức tham vấn trực tiếp được diễn ra giữa nhà tham vấn và
một cá nhân, giúp cá nhân đó giải quyết vấn đề họ đang phải đối phó. Mối quan
hệ tương tác giữa nhà tham vấn với đối tượng là một quan hệ 1-1.
Tham vấn cá nhân sẽ hướng tới một số mục đích sau:
- Giúp cá nhân thay đổi cảm xúc, hành vi hay suy nghĩ khơng hợp lý
- Tăng cường sức mạnh để đối phó với vấn đề đang gặp phải
- Cải thiện mối quan hệ với những người xung quanh
- Tìm được sự cân bằng và ý nghĩa của cuộc sống
- Tìm kiếm sự thích nghi xã hội
- Giúp cá nhân đưa ra quyết định hợp lý
Tham vấn cá nhân là quá trình trao đổi tương tác tích cực giữa nhà tham
vấn và cá nhân – thân chủ - người mà có những nan đề mà họ không tự giải
quyết được – để giúp họ thay đổi cảm xúc, hành vi và suy nghĩ, tìm ra giải pháp
cho vấn đề đang tồn tại.
Cá nhân cần tham vấn là bất kỳ ai, họ có thể là nam hay nữ họ có thể ở bất
kỳ độ tuổi nào, họ có thể là trẻ em, vị thành niên hay người trưởng thành hoặc
người già. Tất cả số họ đều là người đang có vấn đề mà khơng tự giải quyết

20



được và cần tới sự trợ giúp của người bên ngồi, trong đó có sự trợ giúp mang
tính chun mơn đó là sự can thiệp của nhà tham vấn.
3.2 Tham vấn gia đình ( Family counseling)
Loại hình tham vấn này được diễn ra qua các buổi làm việc thảo luận giữa
các thành viên trong gia đình, với sự điều phối của nhà tham vấn, gia đình và cá
nhân đưa ra và thực hiện những giải pháp cho vấn đề liên quan họ.
Mục tiêu tham vấn gia đình tập trung vào một số điểm sau:
- Giúp cơ cấu lại hệ thống tương tác trong gia đình nhằm tăng cường khả
năng thích ứng của gia đình trước tác động của mơi trường
- Giúp các thành viên trong gia đình thay đổi những cách ứng xử cố hữu
của các thành viên để cải thiện bầu khơng khí bế tắc trong gia đình
- Giúp các thành viên trong gia đình sử dụng những tiềm năng mới và
tăng cường khả năng đối mặt với căng thẳng, xung đột
3.3 Tham vấn nhóm (group counseling)
Là q trình tương tác của nhà tham vấn với những cá nhân trong nhóm
nhằm giúp họ giải quyết những vấn đề tâm lý xã hội của mỗi cá nhân đồng thời
hỗ trợ họ phát triển nhân cách cũng như các mối quan hệ xã hội tích cực.
Tham vấn nhóm hướng tới một số mục đích sau:
- Giúp các thành viên giải quyết các vấn đề và các mâu thuẫn trong cuộc
sống của họ
- Giúp các thành viên phát triển sự tự nhận thức và có những thay đổi
nhận thức, cảm xúc
- Phát triển mối quan hệ hài hòa ( trao, nhận những vấn đề tốt – xấu) giữa
các thành viên trong nhóm hoặc giữa các thành viên với nhà tham vấn nhằm
mục đích tăng cường sự tham gia của họ trong nhóm
- Giáo dục các thành viên trong nhóm để hồn thiện bản thân

21



Tham vấn nhóm có một số ưu điểm nổi trội là:
- Tạo điều kiện để thân chủ có những tình cảm gắn bó, sự chấp nhận, có
những cơ hội để hiểu người khác, cơ hội để quan sát, bắt chước và được cổ vũ
về mặt xã hội; cơ hội để quan sát, bắt chước và được cổ vũ về mặt xã hội, cơ hội
cho việc trải nghiệm những vấn đề chung của mọi người. Những điều này cho
phép mỗi thân chủ trong bối cảnh nhóm sống lại những quan hệ , những cảm
xúc tiêu cực , nhận diện lại nó và điều chỉnh.
- Bồi dưỡng được ý thức hợp tác trong cộng đồng , tập thể ở thân chủ
- Tạo ra những thay đổi về nhận thức cách ứng xử và sự phát triển tính
cách của mỗi thân chủ
- Hỗ trợ thân chủ trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề
4. Lịch sử nghề tham vấn
4.1. Một vài nét về nghề tham vấn
Một lĩnh vực chuyên môn được coi là một nghề khi nó đáp ứng được
những tiêu chuẩn sau: có một hệ thống lý thuyết chuyên sâu và các kỹ năng
nghiệp vụ; có hệ thống qui định đạo đức nghề nghiệp nhằm điều chỉnh hành vi
nghề nghiệp của những người cán bộ hành nghề đó; đội ngũ cán bộ làm tham
vấn chuyên nghiệp phải được đào tạo chuyên sâu cơ bản qua từng cấp (từ sơ
cấp, trung cấp đến cao đẳng, cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ); nghề đó phải được quốc
gia đó cơng nhận và qui định bằng văn bản pháp luật.
Tham vấn là một ngành nghề tuy còn non trẻ so với một số nghề truyền
thống như nghề y, nghề dược, nghề sư phạm v.v. Tuy nhiên hoạt động tham vấn
hiện nay ở các nước đã cơng nhận đó là một nghề đều đáp ứng được các yêu cầu
trên của một khoa học chuyên môn.
Trước hết tham vấn có một hệ thống lý thuyết chuyên sâu và các kỹ năng
thực hành. Đó là các lý thuyết về hành vi con nguời, về đặc điểm tâm lý của con
người và các qui luật tâm lý cũng như quan hệ xã hội của con người và sự phát

22



triển nhân cách, tương tác của cá nhân với môi trường xã hội. Hệ thống lý luận
của tham vấn hầu hết kế thừa thành tựu khoa học xã hội như Tâm lý học, Xã hội
học. Sự phát triển của các hệ thống lý thuyết nghành tâm lý học đã có những tác
động lớn lao tới sự phát triển và ứng dụng khoa học vào thực tiễn tham vấn. Đối
tượng tác động của tham vấn là cá nhân, gia đình và nhóm, do vậy việc thực
hành tham vấn địi hỏi phải có hệ thống kỹ năng chuyên biệt, cụ thể trong quá
trình giúp đỡ từng loại đối tượng trên.
Thứ 2, tồn tại hệ thống giá trị, qui định các nguyên tắc nghề nghiệp nhằm
điều chỉnh hành vi giữa cán bộ tham vấn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Ở
mỗi nước khác nhau sẽ có những qui định đạo đức nghề tham vấn riêng của
nước đó. Ví dụ như ở Mỹ , người ta đưa ra 10 nhóm qui định đạo đức như Qui
định về mối quan hệ giữa nhà tham vấn và thân chủ; Qui định về tính bảo mật
thơng tin,; Qui định về trách nhiệm chuyên môn của nhà tham vấn; Qui định về
trách nhiệm của cộng đồng; Qui định về lượng giá, đánh giá, đào tạo, nghiên
cứu và phát hành tài liệu...
Hoạt động liên quan trực tiếp tới sinh mạng cũng như sự tồn tại và phát
triển của con người do vậy ở những quốc gia đã coi tham vấn là một nghề đều
đưa ra các qui định đối với đạo đức và yêu cầu cán bộ tham vấn cần phải tuân
thủ nghiêm ngặt các qui định này. Các qui định đạo đức cũng như nguyên tắc
nghề nghiệp khơng chỉ có vai trị điều chỉnh hành vi của cán bộ chun mơn mà
cịn là cơng cụ để đánh giá chất lượng công việc của mỗi cán bộ tham vấn.
Tham vấn được coi là một nghề khi nó địi hỏi những người làm tham vấn
phải được đào tạo cơ bản và hệ thống. Họ phải được trang bị các kiến thức về
hành vi con ngừời trong môi trường xã hội, các kỹ năng đặc thù nhằm tương tác
với các đối tượng trong quá trình can thiệp. Các cán bộ tham vấn sẽ được đào
tạo ở nhiều trình độ khác nhau ở các cấp từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng đến cử
nhân, thạc sỹ thậm chí là tiến sỹ.


23


Nhà tham vấn trong quá trình đào tạo được chú trọng tới tay nghề thực
hành. Tại một số nước có qui định muốn hành nghề tham vấn phải có bằng hành
nghề cấp quốc gia do hội đồng nghề tham vấn sát hạch.
Và cuối cùng tham vấn đã được sự công nhận của quốc gia đó như một
nghề và có tính pháp lý của nó. Điều này thể hiện ở việc quốc gia đó có văn bản
ghi pháp luật cơng nhận nghề tham vấn cùng với những qui định pháp luật như
giấy phép hành nghề, giấy phép cho triển khai các dich vụ tham vấn cùng với
những yêu cầu nghiêm ngặt về chuyên môn.
4.2. Sự ra đời của hoạt động tham vấn chuyên nghiệp
Tham vấn với nghĩa hiểu rất đời thường khi một người có uy tín, có kinh
nghiệm đưa ra lời khuyên hay giải pháp cho một người đang gặp khó khăn đã có
ngay từ buổi sơ khai ban đầu của con người. “Nhà tham vấn” ỏ đây có thể là
người lớn tuổi hơn, những người đứng đầu bộ tộc, buôn làng, những ông cha xứ
đạo, những nhà hiền triết v.v.
Nhưng phải đến tận giữa thế kỷ 20 người ta mới tìm thấy những nghiên
cứu và ứng dụng của tham vấn mang tính chuyên nghiệp.
Vào những năm cuối của thế kỷ 19, trong quá trình giúp đỡ những cá
nhân và gia đình khó khăn, nghèo khổ, các tình nguyện viên nhận thấy việc giúp
đỡ đơn thuần bằng hỗ trợ vật chất đã không đem lại kết quả như mong muốn. Do
vậy, họ đã cải tiến sự giúp đỡ này bằng các cuộc viếng thăm thân thiện, tiếp cận
trực tiếp và trao đổi trò chuyện với những người cần giúp đỡ nhằm tìm hiểu nhu
cầu, hồn cảnh của họ. Những người trợ giúp không chuyên này được gọi với
cái tên là “bạn thăm viếng thân thiện” (Friend visitors). Kết quả bất ngờ từ
phương pháp này đã làm thay đổi cách thức giúp đỡ trong cơng tác xã hội, lúc
này đa hình thành phương pháp mới cái gọi là làm việc với cá nhân - Case work.
Cũng từ đây xuất hiện những cuốn sách, bài viết về cách thức trợ giúp những
tầng lớp dân cư nghèo khó do Mary Richmon biên tập (1900). Vào đầu thế kỷ


24


20 các khóa tập huấn được triển khai tại Columbia Mỹ nhằm cung cấp các kỹ
năng trợ giúp cá nhân, gia đình và nhóm theo hướng tiếp cận này.
Vào năm1908 Cliforrd Beer – một bệnh nhân tâm thần phân liệt đã cho ra
đời cuốn sách “A mind that found itself” ( Tâm trí tìm thấy) với nội dung mơ tả
thực trạng nhu cầu những người bệnh tâm thần. Cuốn sách này đã góp phần thúc
đẩy hình thức can thiệp trị liệu có tính nhân đạo đối với những người có rối
nhiễu về tâm thần và cũng tạo nên nền tảng cho sự ra đời của các phòng khám
cho trẻ em do các cán bộ xã hội hay các nhà tâm lý học, tâm thần học thực hiện
tham vấn và trị liệu.
Cũng từ những năm 1890 cho đến giữa những năm 1900 các nghiên cứu
về giáo dục của John Dewey với quan điểm nhân đạo đã tác động tới việc giúp
đỡ con người mang tính nhân văn hơn và “hiện đại hơn” (Dewey, 1956,
Dykhuizen 1973, Neukrug 1994). Tư tưởng giáo dục theo hướng tư vấn, phát
huy kinh nghiệm cá nhân đã khiến ông trở thành người tiên phong về đổi mới
phương pháp dạy học. John Dewey đúc kết quan điểm này trong tác phẩm
“Education as guidance” xuất bản năm 1932 tại New York.
Một nhu cầu xã hội khác đã tham gia vào thúc đẩy sự phát triển cả về lý
luận cũng như thực tiễn của tham vấn đó là tham vấn hướng nghiệp. Tham vấn
hướng nghiệp là một trong những lĩnh vực có lịch sử phát triển sớm nhất so với
các lĩnh vực tham vấn chuyên sâu khác.
Vào thế kỷ thứ 10 người ta đã tìm thấy những tài liệu viết bằng ngôn ngữ
Irac đề cập tới các thông tin mang tính hướng nghiệp. Một hệ thống phân loại
nghề nghiệp do Sanches de Arevalo đưa ra năm 1468 trong cuốn Mirror of Men
Live’s. Một số các tài liệu liên quan tới hướng nghệp và mô tả nghề nghiệp
được xuất hiện ở Anh và Mỹ vào những năm 1800 (Zytosky 1972).
Tuy nhiên những định hướng nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp hơn

mới thực sự đựoc tìm thấy vào đầu thế kỷ 20.

25


×