Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

tiểu luận THỰC TIỄN án lệ VIỆT NAM về CHIA tài sản GIỮA vợ và CHỒNG KHI LY hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.86 KB, 42 trang )

TIỂU LUẬN MƠN LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

ĨUEL
“THỰC TIỄN ÁN LỆ VIỆT NAM VỀ
CHIA TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỊNG
KHI LY HON”

Giảng viên: Ths. Nguyễn Thị Khánh Ngọc
Nhóm 4:
1. Trần Thanh Hơn - K21503KTL037 (Trưởng nhóm)
2. Tống Duy Hùng - K21503KTL038
3. Nguyễn Quốc Huy - K21503KTL041
4. Nguyễn Thị Mai Khanh K21503KTL042

Tp.HCM, tháng 12 năm 2021


MỤC LỤC


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

25

LỜI NĨI ĐẦU
“Ly hơn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo Bản án, Quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tịa án1 ”. Khi giải quyết hậu quả pháp lý của việc ly hôn, cần phải
giải quyết đồng thời các mối quan hệ: nhân thân, tài sản và con cái. Trong đó vấn đề
chia tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn có thể được xem là vấn đề phức tạp nhất,
thường khiến các vụ án ly hôn kéo dài. Tại Mục 1, chương IV, quy định về Ly hôn tại
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HN & GĐ năm 2014) chỉ có 14 điều


nhưng lại có tới 6 điều (từ điều 59 tới điều 64) là đề cập tới vấn đề chia tải sản giữa vợ
và chồng khi ly hơn, từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của vấn đề này.
Nhóm tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Thực tiễn án lệ Việt Nam về chia tài sản
giữa vợ và chồng khi ly hôn” nhằm mục đích có thể làm sáng tỏ hơn vấn đề thực tiễn áp
dụng quy định pháp luật về chia tài sản giữa vợ và chồng khi ly hơn, từ đó giúp người đọc
có thể vận dụng tốt hơn các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình trong vấn đề bảo vệ
quyền lợi của đương sự khi ly hôn, đưa ra các giải pháp và đề xuất nhằm cải thiện các bất
cập trong quy định pháp luật về hôn nhân gia đình hiện hành. Cùng một quy định của
pháp luật, người đọc có thể có những cách hiểu và vận dụng khác nhau thông qua các Án
lệ, người đọc sẽ hiểu hơn về cách hiểu và vận dụng hiện tại của cơ quan xét xử, từ đó có
thể áp dụng một cách có lợi nhất cho các đương sự.
Trong phạm vi của đề tài này, Nhóm tác giả sẽ trình bày các vấn đề sau đây:
Chương 1: Các quy định của pháp luật về chia tải sản giữa vợ và chồng khi ly hôn
Chương 2: Thực tiễn án lệ Việt Nam về chia tài sản giữ vợ và chồng khi ly hôn
và các kiến nghị
Chi tiết các nội dung trên sẽ được thể hiện tại các phần bên dưới.


CHƯƠNG 1:
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI
LY HÔN
1.1.
1.1.1.

Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp

chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận
“Trong thời kì hôn nhân, pháp luật cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ chia tài
sản theo thỏa thuận2 3”(Khoản 1 Điều 28 Luật HN& GĐ năm 2014). Theo quy định tại

Điều 47 Luật HN & GĐ năm 2014: “ Thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hơn,
bằng hình thức văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực, và chế độ tài sản theo thỏa
thuận được xác lập kể từ ngày đăng kí kết hơn".
“Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản
này khơng bị Tịa án tun bố vơ hiệu tồn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản
thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được
vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vơ hiệu thì áp dụng các
quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các Điều 60, 61, 62, 63 và 64
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn 4 5”
(Khoản 1 Điều 59 Luật HN& GĐ năm 2014; Điểm b Khoản 1 Điều 7 Thông tư Liên
tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của
2Khoản 1 Điều 28 Luật HN& GĐ năm 2014

3Điều 47 Luật HN & GĐ năm 2014

4Khoản 1 Điều 59 Luật HN & GĐ năm 2014

5Khoản 2 Điều 7 TTLT số 01/2016


Tòa án Nhân dân tối cao - Viện kiểm sát Nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp hướng dẫn thi
hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình (TTLT số 01/2016).
“Khi giải quyết ly hơn, nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng bị vơ hiệu thì Tịa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài
sản của vợ chồng khi ly hôn" (Khoản 2 Điều 7 TTLT số 01/2016).
Trường hợp văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên
bố vô hiệu do rơi vào một trong những trường hợp bị vô hiệu quy định tại Điều 50
Luật HN & GĐ năm 2014 thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
1.1.2.


Nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp

chế độ tài sản vợ chồng theo luật định


Nguyên tắc 1: Chia theo thỏa thuận của vợ chồng trước tiên
“Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải
quyết tài sản đó do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu
của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật 6”
(Khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn đối với chế độ tài sản luật định, trước
tiên sẽ được tiến hành trên nguyên tắc “do các bên thỏa thuận”. Có thể thấy, pháp luật
tơn trọng quyền tự thỏa thuận của vợ chồng trong việc chia tài sản ly hơn dưới góc độ
pháp lý chính là việc đảm bảo thực thi nguyên tắc tự nguyện và quyền định đoạt của
các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nói chung và pháp luật Hơn nhân và gia
đình nói riêng.
Các bên đương sự có thể tự thỏa thuận với nhau, hoặc thơng qua sự hướng dẫn,
giải thích, hỗ trợ của Tòa án mà tự thỏa thuận với nhau về việc phân chia tài sản. Việc
các bên đạt được thỏa thuận với nhau là một biện pháp hiệu quả trong việc tránh các
tranh chấp phát sinh trong quá trình phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Nguyên tắc 2: Chia theo luật định nếu vợ chồng không thể đạt được thỏa thuận
Pháp luật luôn tôn trọng và khuyến khích sự tự thỏa thuận của các bên vợ chồng
trong việc chia tài sản khi ly hôn. Tuy nhiên, việc tự thỏa thuận nêu trên của vợ chồng
không được trái với nguyên tắc mà pháp luật đã quy định. Cụ thể là sự tự thỏa thuận
của vợ chồng trong q trình phân chia tài sản khi ly hơn phải đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự, khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình.
Trên thực tế, khơng phải trong mọi trường hợp vợ chồng đều có thể thống nhất
được về ý chí trong việc phân chia tài sản. Khi ly hôn, vợ chồng chẳng những khơng

có bất kỳ ý định ngồi lại với nhau để thống nhất về cách chia tài sản, mà cịn có những
tranh giành lợi ích, lẫn tránh nghĩa vụ liên quan đến tài sản và vật chất. Trong những
trường hợp đó theo yêu cầu của vợ, chồng, hoặc của cả hai vợ chồng, Tòa án sẽ dựa
vào các quy định của pháp luật để phân chia tài sản.
Nguyên tắc 3: Tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn vẫn thuộc quyền sở
hữu riêng của các bên


Khoản 4 Điều 59 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định: “ Tài sản riêng của vợ,
chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài
sản chung theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình6”.
Tài sản riêng của vợ, chồng được quy định tại Điều 43 Luật HN & GĐ năm
2014 như sau: “1. Tản sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi
kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài
sản được chia riêng cho vợ, chồng theo các quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của
Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy
định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng 2. Tài sản được hình thành từ tài
sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi túc phát sinh
từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều
33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này””7.
Tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại Điều 43 của Luật HN & GĐ năm
2014 được hướng dẫn bởi Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm
2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hơn nhân
và gia đình (Nghị định 126/2014) như sau: “1. Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu
trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. 2. Tài sản mà vợ, chồng xác lập
quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tịa án hoặc cơ quan có thẩm quyền
khác 3. Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về
ưu đãi người có cơng với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của
vợ, chồng”.8


Trong
trường
hợp
vợ
hoặc
chồng

u
cầu
Tịa
xác
định
tài
sản
đang

tranh
chấp

tài
sản
riêng
của
chính
mình
thì
người

u
cầu


nghĩa
vụ
phải
minh,
thể
đưa
căn
cứ
để
xác
định
đó

tài
sản
riêng
của
mình.
Việc
chứng
minh

bằng
sự
cơng
nhận
của
phía
bên

vợ
(chồng)
cịn
lại
hoặc
bằng
các
giấy
tờ
(giấy
nhận
chứng
quyền
sở
hữu,
di
chúc,
hợp
đồng
tặng
cho,
giấy
chuyển
nhượng
hoặc
các
cứ
riêng
khác...).
thì

tàira
Trong
sản
đó
trường
được
coi
hợp

khơng
tài
sản

chung
căn
cứ
của
đểán
vợ
chứng
chồng.
minh
Đây
tài
làsản
ngun
đó

tắc
tài

sản
suy
pháp
đốn

được
áp
dụng
để
xác
định
tài
sản
chung
của
vợ
chồng.
Ngun
tắc
này
phát

6Khoản 4 Điều 59 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014

7Điều 33 Luật Hơn nhân và Gia Đình năm 2014

8Điều 11 Nghị định 126/2014


huy vai trị của nó một cách tích cực trong quá trình phân chia tài sản của vợ chồng,

đặc biệt là chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
“ Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung
mà vợ, chồng có u cầu về chia tài sản thì được thanh tốn phần giá trị tài sản của
mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác 9”
(Khoản 4 Điều 59 Luật HN & GĐ năm 2014).
Nếu vợ chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng của mình vào tài sản chung thì tài
sản đó trở thành tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản riêng của một bên vợ, chồng và khối tài sản chung của vợ chồng có thể
xảy ra hiện tượng sáp nhập, trộn lẫn với nhau. Hiện tượng này vẫn thường xảy ra trong
thực tiễn do quá trình sống chung. Khi vợ chồng ly hơn, bên vợ chồng có tài sản riêng
đã đem sáp nhập, trộn lẫn vào khối tài sản chung có u cầu nhận lại tài sản của mình
thì cần đưa ra các chứng cứ về việc mình đã đóng góp vào khối tài sản tranh chấp. Khi
các chứng cứ được xác định thì Tịa án nhân dân sẽ trích trả cho bên vợ, chồng đó
phần giá trị tài sản mà họ đã trộn lẫn, sát nhập lúc trước, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận khác.
“Giá trị tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời
điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc10”(Khoản 5 Điều 7 Thông tư Liên tịch số 01/2016).
Đối với trường hợp tài sản riêng của vợ, chồng là nhà ở đã đưa vào sử dụng
chung thì theo quy định tại Điều 63 Luật HN & GĐ năm 2014 thì “ khi ly hơn vẫn
thuộc sở hữu riêng của người đó; Tuy nhiên trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về
chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân
chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Đây chính là quy định về quyền
lưu cư của vợ chồng khi ly hôn11 ””
9 Khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

10

Khoản 5 Điều 7 Thơng tư Liên tịch số 01/2016

11


Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

8


Nguyên tắc 4: Nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi trên cơ
sở xem xét nhiều yếu tố khách quan
“Giá trị tài sản chung của vợ chồng được xác định theo giá thị trường tại thời
điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc12 ” (Khoản 5 Điều 7 TTLT số 01/2016).

12

Khoản 5 Điều 7 Thông tư Liên tịch số 01/2016

9


Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 33 Luật HN & GĐ năm
2014 như sau: “1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,
thunhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản
riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy
định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền
sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ
trượng hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được
thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng. 2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu
chung hợp nhất, được dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ
chung của vợ chồng. 3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà

vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là
tài sản chung13”.
Việc xác định tài sản chung của vợ chồng theo quy định bên trên được hướng
dẫn cụ thể tại Điều 9 Nghị định 126/2014 về “Thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân” như sau: “1. Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền
trợ cấp, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 11 của Nghị định này 2. Tài sản mà
vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của BLDS đối với vật vô chủ, vật
bị chơn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật
nuôi dưới nước 3. Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật14””.

13

Điều 33 Luật HN & GĐ năm 2014

14

Điều 9 Nghị định 126/2014

1
0


Theo quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật HN & GĐ năm 2014 và Khoản 4 Điều
7 TTLT số 01/2016 tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn về ngun tắc sẽ được chia
đơi, nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được
chia: “ạ) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng: Là tình trạng về năng lực pháp
luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly
hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có
quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình.
Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia

hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ
nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng. b) Cơng sức
đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung : Là
sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, cơng việc gia đình và lao động của vợ, chồng
trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở
nhàchăm sóc con, gia đình mà khơng đi làm được tính là lao động có thu nhập tương
đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có cơng sức đóng góp nhiều hơn sẽ
được chia nhiều hơn. c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh
doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập: Là
việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động
nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh
doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu
của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi
dân sự. Ví dụ, Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe
taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá
200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hơn và chia tài sản chung, Tịa án phải xem xét giao
cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh
doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh
toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm
quyền, nghĩa vụ của vợ chồng: là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về
nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hơn. Ví dụ, Trường hợp người chồng có
hành vi bạo lực gia đình, khơng chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly
hơn, Tịa án phải xem xét yếu tố lỗi của người khi khi chia tài sản chung của vợ chồng
để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên15”.
15

Khoản 2 Điều 59 Luật HN & GĐ năm 2014 năm 2014 và Khoản 4 Điều 7 TTLT số 01/2016
1
1



về cách thức phân chia, theo quy định tại khoản 3 Điều 59 Luật HN & GĐ năm
2014: “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu khơng chia được
bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị
lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch16”.
Nguyên tắc 5: Yếu tố nhân đạo, bảo vệ bên yếu thế trong xã hội

16

Khoản 3 Điều 59 Luật HN & GĐ năm 2014

1
2


Khoản 5 Điều 59 Luật HN & GĐ năm 2014 và Khoản 6 Điều 7 TTLT số
01/2016 quy định: “khi giải quyết chia tài sản khi ly hơn, Tịa án nhân dân phải xem
xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và khơng có tài sản để
tự ni mình. Ví dụ, Khi chia nhà ở là tài sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ
chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì Tịa án nhân dân xem xét
và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị
hạnchế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương
ứng
với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu
cầu17 18”.
1.2.

Chế định của pháp luật về chia tài sản trong một số trường hợp đặc


biệt
1.2.1.

Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình

Văn hóa gia đình Á đơng nói chung và gia đình Việt Nam nói riêng, việc vợ
chồng cùng chung sống với gia đình nhà chồng, gia đình nhà vợ hoặc gia đình nhà ơng
bà của chồng, vợ là một hiện tượng thường thấy. Chính vì vậy mà pháp luật Hơn nhân
và gia đình vẫn có chế định riêng về việc chia tài sản ly hôn trong trường hợp vợ
chồng sống chung với gia định.
Điều 61 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định về việc chia tài sản trong trường
hợp vợ chồng chung sống với gia đình như sau: “ 1. Trong trường hợp vợ chồng sống
chung với gia đình mà ly hơn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của
gia
đình khơng xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản
chung
17

Khoản 5 Điều 59 Luật HN & GĐ năm 2014 và Khoản 6 Điều 7 TTLT số 01/2016

18

Điều 61 Luật HN & GĐ năm 2014

1
3


của gia đình căn cứ vào cơng sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát
triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần

trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu khơng thỏa thuận
được
thì u cầu Tịa án giải quyết 2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình
mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được
theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung
đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này
1.2.2.

Vấn đề quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba

khi vợ chồng ly hôn
Không chỉ tạo cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên vợ, chồng
trong việc chia tài sản khi ly hơn, pháp luật cịn xây dựng những chế định để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba có giao dịch dân sự với vợ chồng.

1
4


Điều 60 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định về việc giải quyền quyền, nghĩa vụ
tài

sản

của

vợ

chồng


đối với

người

thứ

ba

khi

ly hôn

như

sau:

“1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi
ly hơn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác 2. Trong
trườnghợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều
27,

37



45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết19”.
Theo đó, vợ chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực
hiện mà giao dịch đó nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; giao dịch khác phù
hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật HN & GĐ năm 2014;
vợ chồng liên đới chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản

riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu
của gia đình; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật
Dân sự (BLDS) thì cha mẹ phải bồi thường.
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 7 TTLT số 01/2016 thì: “Khi chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hơn, Tịa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ
về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa
vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có u cầu giải quyết thì Tịa án phải giải quyết
khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ
ba mà người thứ ba khơng u cầu giải quyết thì Tịa án hướng dẫn họ để giải quyết
bằng vụ án khác20”.
1.2.3.

Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn

Quyền sử dụng đất là một loại tài sản đặc biệt và có giá trị cao trong khối tài
sản chung của vợ chồng. Việc phân chia tài sản là quyền sử dụng đất cần có căn cứ
19

Điều 60 Luật HN & GĐ năm 2014

20

Khoản 3 Điều 7 TTLT số 01/2016

1
5


pháp lý rõ ràng và chính xác để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên vợ,

chồng khi ly hơn. Đó là lý do vì sao nhà làm luật đã xây dựng riêng một điều luật để
quy định về việc chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn.
“Điều 62 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định về việc chia quyền sử dụng đất
của vợ chồng khi ly hôn như sau:
1. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hơn vẫn thuộc về
bên đó.
2. Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được
thực hiện như sau:

1
6


a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, ni trồng thủy sản, nếu cả hai
bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa
thuậncủa hai bên; nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết
theo

quy

định

tại Điều 59 của Luật này.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất
thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền
sử dụng đất mà họ được hưởng;
b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nơng nghiệp trồng cây
hàng năm, ni trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền
sử
dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản

này;
c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng,
đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này;
d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà khơng có quyền sử
dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hơn quyền lợi của bên khơng có quyền
sử
dụng đất và khơng tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy
định

tại

Điều 61 của Luật này21 ”.
1.2.4.

Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh

Việc vợ chồng đưa tài sản chung vào đầu tư kinh doanh ngày càng trở nên phổ
biến. Điều 36 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định về tài sản chung được đưa vào kinh
doanh như sau: “Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản
chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện các giao dịch liên
quan

21

Điều 62 Luật HN & GĐ năm 2014

1
7



đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải được lập thành văn bản22”.
Có thể thấy, trrong đời sống xã hội ngày nay, tài sản chung của vợ chồng không
chỉ đơn thuần là tư liệu sinh hoạt thông thường của gia đình, mà cịn được đưa vào
trong hoạt động kinh doanh sản xuất. Tài sản này càng lớn, việc xác định giá trị, phân
chia tài sản khi giải quyết ly hôn như thế nào để bảo đảm cả quyền và lợi ích hợp pháp
của khơng chỉ vợ, chồng, mà cịn đối với bên thứ ba là những đối tác tham gia giao
dịch với vợ chồng.

22

Điều 36 Luật HN & GĐ năm 2014

1
8


Điều 64 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định về việc chia tài sản chung của vợ
chồng đưa vào kinh doanh như sau: “ Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh
liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh tốn cho
bênkia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh

quy định khác23”.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁN LỆ VIỆT NAM VỀ CHIA TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
KHI LY HÔN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ
Theo Trang tin điện tử về của tòa án nhân dân tối cao 24 25 thì hiện nay chỉ có một
án lệ duy nhất về chia tài sản giữa vợ và chồng khi ly hơn đang có hiệu lực, đó là án lệ
số 03/2016/AL về “Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03/5/2013
của Tịa án dân sự Tồn án nhân dân tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nội, được công

bố bởi Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao và được áp dụng từ ngày 25 05 2016'^'. Chính vì vậy tồn bộ nội
dung Chương 2 sẽ tập trung chính vào phân tích án lệ số 03/2016/AL, ngồi ra Nhóm
tác giả cũng sẽ đề cập tới các nội dung tại Dự thảo án lệ số 21 về chia tài sản chung
của vợ, chồng là phần vốn góp trong Cơng ty trách nhiệm hữu hạn đang hoạt động
bình thường, được lấy từ nguồn là Quyết định Giám đốc thẩm số 02/2012/DS-GĐT
ngày 12/01/2012 của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án chanh chấp hơn
nhân gia đình tại thành phố Hải Phịng giữa ngun đơn là chị Nguyễn Thị Hằng N và
bị đơn là anh Đặng Ngọc K; người có nghĩa vụ quyền lợi liên quan là bà Chu Thị H và
23

Điều 64 Luật HN & GĐ năm 2014

24

/>
25

/>
1
9


chị Nguyễn Hoàng Phượng L. Mặc dù Dự thảo án lệ số 21 này chưa có hiệu lực, tuy
nhiên nó cũng được đăng lên Trang tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao, cũng thể
hiện quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề này, vì vậy là nguồn tham khảo
có giá trị26
2.1.

Xác định tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng cùng xây nhà trên


đất bố mẹ chồng cho (Án lệ 03/2016/AL)
2.1.1.

26

Nội dung án lệ 03/2016/AL

/>
2
0


“Án lệ số 03/2016/AL là án lệ được thông qua và công bổ theo Quyết định số
220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Án lệ
này được lấy từ nguồn án lệ là Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày
03-5-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nộigiữa
nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng với bị đơn là anh Phạm Gia Nam; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ơng Phạm Gia Phác, bà Phùng Thị Tài, anh Phạm
Gia Ơn, chị Phạm Thị Lữ, anh Bùi Văn Đáp, chị Đỗ Thị Ngọc Hà."
Nội dung của án lệ này có thể khái quát như sau: “Trường hợp cha mẹ đã
cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà
kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì
cha mẹ và những người khác trong gia đình khơng có ý kiến phản đối gì; vợ chồng
người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai
đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người
con đã được tặng cho quyền sử dụng đất27”.
Nội dung của án lệ nêu trên có liên quan tới các quy định pháp luật sau:

27


-

Điều 14 của Luật HN & GĐ năm 198628;

-

Điều 242 của BLDS năm 199529;

-

Khoản 2 Điều 176 của BLDS năm 199530.
/>
28
Điều 14 Luật NHGĐ 1986 “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập
về
nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được cho chung"

29
Điều 242 của BLDS năm 1995 “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho
vay có quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm nhận tài sản, nếu khơng có thoả thuận khác hoặc pháp luật khơng
có quy định khác".
30

Khoản 2 Điều 176 của BLDS năm 1995 “Căn cứ xác lập quyền sở hữu: ...2. Được chuyển giao quyền sở hữu
theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền"
2
1



Để hiểu rõ hơn nội dung của án lệ nêu trên, nhóm tác giả sẽ trình bày cụ thể nội
dung vụ án được dùng làm nguồn án lệ. Chi tiết như sau:
Vợ chồng chị Hồng và anh Nam kết hôn năm 1992, có đăng ký hợp pháp. Tới
năm 2009 chị Hồng khởi kiện yêu cầu ly hôn và Nam cũng đồng ý.
Trong quá trình chung số, vợ chồng chị Hồng, anh Nam có xây một căn nhà trên
thửa đất của ba mẹ anh Nam cho. Khi ly hôn, cả hai vợ chồng đều thống nhất rằng căn
nhà nêu trên là tài sản chung của vợ chồng, tuy nhiên lại không thống nhất được về
thửa
đất.
Chị Hồng cho rằng mặc dầu thửa đất có nguồn gốc là của ba mẹ chồng, nhưng
ba mẹ chồng đã họp gia đình và tuyên bố cho vợ chồng chị, đồng thời vào năm 2001,
ba chồng yêu cầu anh Nam đi làm thủ tục cấp sổ đỏ đứng tên hộ anh Phạm Văn Nam,
do đó đây là tài sản chung của vợ chồng.

2
2


Anh lại cho rằng thửa đất này ba mẹ anh chỉ cho vợ chồng anh ở nhờ chứ
không tặng cho vì gia đình anh đơng anh em. Năm 2001 anh tự kê khai làm thủ tục nhà
đất mà gia đình anh không biết, anh muốn trả lại đất cho ba mẹ.
Theo ơng Phác, bà Tài (ba mẹ anh Nam) thì năm 1993 gia đình ơng cho vợ
chồng anh Nam, chị Hồng ở nhờ trên đất để làm ăn sinh sống chứ khơng cho ln, mà
có nguyện vọng sẽ để lại cho một người con khác trong gia đình. Gia đình ông bà
không biết việc vợ chồng anh Nam, chị Hồng đã sang tên đất từ năm 2001. Đến khi vợ
chồng anh Nam, chị Hồng ly hơn thì ơng bà mới biết, vì vậy u cầu trả lại đất cho
ơng bà.
Tại Bản án sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17/5/2011, Tòa án nhân dân
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội đã quyết định về vấn đề tài sản chung của chị

Hồng, anh Nam như sau:
1. Ngôi nhà là tài sản chung của vợ chồng (anh Nam, chị Hồng)
2. Quyền sử dụng đất là tài sản của ba mẹ chồng (ông Phác, bà Tài)
3. Giao hộ gia đình ơng Phác được quyền sở hữu toàn bộ tài sản trên đất và trả
lại vợ chồng anh Nam, chị Hồng giá trị căn nhà và cơng trình trên đất
4. u cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ anh Nam,
và cấp lại cho hộ ông Phác khi hộ ông Phát có yêu cầu
Tại Bản án phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30/8/2011 và ngày 06/9/2011
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định giữ nguyên Bản án Hôn nhân và gia
đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17/5/2011 của Tịa án nhân dân huyện
Thường
Tín, thành phố Hà Nội.
Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Hồng có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám
đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên. Và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã
kháng nghị theo hướng đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc
thẩm theo hướng hủy nội dung về tài sản của bản án phúc thẩm và sơ thẩm, yêu cầu xét
xử lại
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm soát nhân dân tối cao giữ quan
điểm cho rằng tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định tài sản thửa đất là của ba mẹ chồng
(ông Phác, bà Tài) là có căn cứ, và đề nghị Hội đồng xét xử khơng chấp nhận kháng
nghị của Chánh án Tịa án nhân dân tối cao.
Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao nhận định:
2
3


“Tài sản mà các đương sự tranh chấp là diện tích đất 80m2 tại xóm Vân Hịa,
xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội mang tên hộ anh Phạm Gia
Nam”31.
“Hồ sơ thể hiện nguồn gốc diện tích đất nêu trên là của ông Phạm Gia Phác

được Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo, huyện Thường Tín cấp đất giãn dân vào năm
1992. Căn cứ Biên bản bàn giao đất của Ủy ban nhân dân xã cho ông Phác thì thời
điểm có biên bản giao đất này chị Hồng đã kết hôn với anh Nam. Tuy nhiên, theo xác
minh của Tòa án cấp sơ thẩm tại xã Vân Tảo, Thường Tín về thủ tục cấp đất thì xã
Vân Tảo đã có chủ trương cấp đất giãn dân từ năm 1991. Dù khi làm thủ tục cấp đất,
gia đình ơng Phác chỉ có 4 người là ơng Phác, bà Tài, chị Lữ, anh Ơn (vì thời điểm
này anh Nam đi bộ đội chưa về địa phương), nhưng việc cấp đất giãn dân là cấp đất
cho hộ đông người, cấp cho vợ chồng ông Phác và các con, nên anh Nam cũng là đối
tượng được cấp đất. Sau khi nhận đất, gia đình ơng Phác đã xây dựng một căn nhà
cấp 4. Năm 1993, gia đình ơng Phác cho vợ chồng anh Nam chị Hồng ra ở riêng trên
diện tích đất này và anh chị là người quản lý, sử dụng đất liên tục từ đó cho đến nay.
Chị Hồng cho rằng gia đình ơng Phác đã tun bố cho vợ chồng chị diện tích
đất nêu trên, ơng Phác và anh Nam khẳng định gia đình chưa cho vợ chồng.

31

/>2
4


Xét thấy: Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001, xã tổ
chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thơn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong
xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi
kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng
nhận. Ngày 21/12/2001, anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên
cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ơng Phác và các anh chị
em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị
Hồng, nhưng cũng khơng ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận

(2001) cho đến khi có việc ly hơn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ơng Phác
cũng khơng ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của
gia đình ơng Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc
ơng Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác khơngbiết
là khơng có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng
về việc gia đình ơng Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở.
Do đó, việc Tịa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông
Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng khơng
có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m 2 tại thơn Vân Hịa, xã Vân
Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ơng Phạm Gia
Phác; đồng thời, buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ơng Phác, là khơng
đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng
anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có cơng sức đóng góp nhiều hơn để
chia theo cơng sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện
vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự”.
Do đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét
thấy kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với phần tài sản tranh chấp
của anh Nam, chị Hồng về mảnh đất tranh chấp là có căn cứ chấp nhận. Theo đó đã
quyết định hủy Bản án hơn nhân gia đình phúc thẩm số 105/2011/LH-PT ngày
30/8/2011 và ngày 06/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án hơn
nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐST ngày 17/5/2011 của Tịa án nhân dân
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội về phần quan hệ tài sản, đã giải quyết vụ án “Ly
hôn” giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng và bị đơn là anh Phạm Gia Nam; Giao hồ sơ
2
5


×