Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I: Giới thiệu về chuyên đề
Ly hôn là hiện tợng xã hội phổ biến và phức tạp đặc biệt trong tình hình
hiện nay khi nó ảnh hởng của cơ chế kinh tế thị trờng. Không chỉ ảnh hởng đến lợi
ích của các đơng sự mà ly hôn còn ảnh hởng đến lợi ích của con họ, của gia đình
và xã hội. Cùng với sự phát triển về kinh tế các án kiện ly hôn cũng nh các tranh
chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các án kiện ly hôn ngày càng tăng. Đồng
thời sự phức tạp về tranh chấp cũng theo đó mà tăng lên. Các tranh chấp chủ yếu
về xác định tài sản chung,tài sản riêng, giá trị tài sản chung, thanh toán nghĩa vụ
tài sản, về quyền sử dụng đất và nhà ở, về xác định công sức của vợ chồng trong
khối tài sản chung của gia đình nếu vợ chồng sống chung với gia đình
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn việc xét xử các vụ án ly hôn nói chung và
việc phân chia tài sản (tài sản có xảy ra tranh chấp) nói riêng tại các bản án của
Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh - chủ yếu là các bản án phúc thẩm, em đã chọn
đề tài "Thực tiễn giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các án
kiện ly hôn" tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Chuyên đề đợc viết dựa trên những kiến thức mà em đã tiếp thu đợc tại tr-
ờng Đại học Luật Hà Nội, quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các bản án đã xét xử, qúa
trình thụ lý, nghiên cứu hồ sơ và xét xử tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Với
các phơng pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh dữ liệu em đã phân tích
và làm rõ các căn cứ pháp luật để chia tài sản giữa vợ và chồng trong các án kiện
ly hôn. Đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề cần giải quyết tại địa phơng, với hy
vọng khắc phục đợc những hạn chế này trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhng do thời gian thực tập ngắn, giữa lý thuyết
đợc học tại nhà trờng và thực tiễn xét xử có những điểm khác nhau và do quá
trình nhận thức của bản thân còn hạn chế nên bản báo cáo thực tập chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót nhất địnhDo đó, em rất mong đợc sự sự thông
cảm, đóng góp, giúp đỡ của các thầy cô và các bạn để chuyên đề của em đợc hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần II: quá trình thu thập thông tin
Trong quá trình thực tập tại toà án tỉnh, cùng sự tìm hiểu thực tế tại địa ph-
ơng từ ngày 7/01/2008 đến ngày 20/4/2008 đã thu thập đợc những thông tin về
tình hình giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các án kiện ly
hôn của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nh sau:
1. Tổng hợp công tác giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng
trong các án kiện ly hôn của toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
(Số liệu từ Toà dân sự toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
Bảng 1: Công tác giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng
trong các án kiện ly hôn trong năm 2005
CTXX
Thụ lý Giải quyết
Vụ án Đơng sự Vụ án Đơng sự
Phúc thẩm
15 30 15
30
Bảng 2: Công tác giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng
trong các án kiện ly hôn trong năm 2006
CTXX
Thụ lý Giải quyết
Vụ án Đơng sự Vụ án Đơng sự
Phúc thẩm
20 40 20 40
2. Tổng hợp số liệu về tranh chấp tài sản giữa vợ và chồng trong các án
kiện ly hôn của tỉnh Quảng Ninh
Bảng 3:
Năm
Số vụ
Nguyên đơn Bị đơn
2005 15 15 15
2006 20 20 20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(Số liệu thống kê từ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
3. Tạp chí toà án nhân dân (số 4 và 5 năm 2000)
Trang 26 Phân định tài sản của vợ và chồng khi ly hôn của tác giả Kiều
Thanh Nghĩa.
Trang 14 Một số ý kiến về phân định tài sản của vợ chồng khi ly hôn của
tác giả Tởng Duy Lợng
(Nghiên cứu tại phòng thẩm phán toà dân sự toà án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh).
4. Báo cáo công tác ngành toà án năm 2006 và phơng hớng nhiệm vụ
công tác toà án năm 2007của Toà án nhân dân tối cao.
( Thu thập tại phòng Chánh toà dân sự Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
5. Báo cáo tham luận về công tác xét xử án hôn dân sự năm 2005 và một
số kiến nghị của toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
(Nghiên cứu tại Văn phòng Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
6. Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 và phơng hớng nhiệm vụ công tác
năm 2006 của toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
- Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phơng hớng nhiệm vụ công tác
năm 2007 của toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
(Nghiên cứu tại Văn phòng Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
7. Bản án dân sự:
- Bản án số 28/2005/LHPT ngày 08/11/2005, thụ lý số 25/2005/HNGĐ -
PT ngày 06/11/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, giữa nguyên đơn là
chị Trịnh Thị Sơn và bị đơn là anh Nịnh Văn Mạnh.
- Bản án số 14/2006/LHPT ngày 22/05/2006, thụ lý số 11/LHPT ngày
26/04/2006 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, giữa nguyên đơn là chị Đàm
Thị Hờng và bị đơn là anh Trần Trung Tại.
(Nghiên cứu tại phòng th ký toà dân sự Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
8. Những nguyên nhân phát sinh tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng
trong các án kiện ly hôn
(Xin ý kiến của thẩm phán Đào Đình Trợi và Nguyễn Hồng Nam- phó
Chánh án toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
9. Đánh giá, nhận xét, kiến nghị hoạt động của Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa
vợ và chồng trong các án kiện xin ly hôn tại địa phơng.
(Xin ý kiến của thẩm phán Nguyễn Hồng Oánh-Chánh toà dân sự Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh và thẩm phán Trần Quang Cờng-thẩm phán toà dân sự)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần III: tình hình giải quyết tranh chấp về tài sản giữA
vợ và chồng trong các án kiện ly hôn tại toà án
nhân dân tỉnh quảng ninh
1. Những căn cứ pháp luật để Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh chia tài sản
của vợ chồng trong các án kiện ly hôn
1.1. Căn cứ Bộ luật Dân sự
Trớc hết để có thể chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn Toà án đã căn cứ
vào các quy định của Bộ luật Dân sự về việc xác lập quyền sở hữu đối với khối tài
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản đem ra phân chia. Theo Điều 233 Bộ luật Dân sự năm 1995 và nay là Điều 219
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về sở hữu chung của vợ chồng :
"1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công
sức của mỗi ngời; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc
theo quyết định của Toà án."
Theo qui định của pháp luật, khối tài sản chung của vợ chồng đợc
tính là tài sản của hai vợ chồng cùng nhau tạo lập sau hôn nhân. Nh vậy hai vợ
chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt một tài sản
chung. Nếu khi vợ chồng ly hôn tại Toà án mà hai bên không thoả thuận phân
chia đợc tài sản thì Toà án sẽ quyết định trên cơ sở quy định của pháp luật.
1.2. Căn cứ theo Luật Hôn nhân và Gia đình, các văn bản hớng dẫn thi hành
Luật Hôn nhân và Gia đình của Nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2000 và các văn bản hớng dẫn đã đặt ra nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng
khi ly hôn. Theo điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì "Việc chia tài
sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận đợc thì yêu cầu Toà
án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó ".
Nh vậy, Điều luật này chỉ đặt ra vấn đề chia tài sản chung, còn không quy định
việc phân chia tài sản riêng của hai vợ chồng. Tuy nhiên, trong quá trình chung
sống có nhiều tài sản riêng đã đợc đa vào sử dụng chung. Việc xác định đâu là tài
sản riêng, đâu là tài sản chung đối với cơ quan xét xử là một công việc khó khăn.
Đặc biệt là đối với động sản do các bên không có đủ căn cứ để chứng minh rằng
đó là tài sản riêng của mình và tài sản riêng đó là bao nhiêu. Cũng theo nguyên tắc
của Điều 95 tại khoản 2 Luật Hôn nhân và Gia Đình việc chia tài sản chung theo
nguyên tắc là chia đôi, nhng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản,
công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản
này. Nh vậy, trong trờng hợp cả hai vợ chồng đều là lao động có thu nhập và thu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhập của hai vợ chồng tơng đối ngang bằng nhau thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc "
tài sản chung của vợ chồng đợc chia đôi" . Tuy nhiên, trong thực tế có không ít tr-
ờng hợp khối tài sản đó là do một bên tạo lập nên, vì vậy đặt ra vấn đề chia khối
tài sản đó nh thế nào để có thể đảm bảo quyền lợi của ngời tạo lập khối tài sản đó
đồng thời cũng đảm bảo đợc quyền và lợi ích của bên kia. Trong trờng hợp này đòi
hỏi cơ quan xét xử phải nghiên cứu, xem xét hồ sơ và hỏi tại phiên toà để có thể
làm rõ công sức đóng góp của các bên để có thể đa ra quyết định đúng đắn, hợp
tình hợp lý để hai bên sau khi ly hôn không có sự thù hằn, căm ghét, nó có thể là
những nguyên nhân gây ra những hậu quả xấu sau khi ly hôn.
Thông thờng khi chia tài sản của vợ chồng các hội đồng xét xử thờng áp
dụng khá linh hoạt các điểm b, c, d khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình
để có thể đảm bảo quyền lợi của các bên khi ly hôn.
Vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ phức tạp hơn nếu nh trong
thời kỳ hôn nhân hai vợ chồng chung sống với gia đình (sống cùng với cha, mẹ và
các anh chị em), khi đó nếu khối tài sản chung đó có thể xác định theo phần thì
phần tài sản của vợ chồng đợc trích ra từ khối tài sản chung đó để chia (theo khoản
2 Điều 96 Luật Hôn và Gia đình, còn nếu không xác định đợc theo phần và cũng
không thoả thuận đợc với gia đình về phần tài sản của vợ chồng đóng góp thì sẽ
yêu cầu Toà án giải quyết. Trong trờng hợp này cũng đòi hỏi Toà án phải xác
định rất cụ thể công sức đóng góp của từng thành viên trong gia đình để có thể
tách phần tài sản của vợ chồng ra để phân chia.
Vấn đề quyền sử dụng nhà, đất của vợ chồng khi ly hôn. Vẫn theo nguyên
tắc tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc bên đó, vì vậy khi ly hôn
quyền sử dụng đất riêng của bên nào vẫn thuộc về bên đó theo Điều 97 Luật Hôn
Nhân và Gia Đình năm 2000. Tuy nhiên việc xác lập quyền sử dụng đất của cá
nhân ở Việt Nam trớc năm 2003 (trớc khi ban hành luật đất đai hiện hành) có
nhiều bất cập, các văn bản chồng chéo không rõ ràng minh bạch vì vậy để xác
định ai có quyền sử dụng một lô đất nào đó là rất khó khăn mà các cơ quan xét xử
đã gặp phải không chỉ trong việc chia tài sản là quyền sử dụng đất khi ly hôn mà
cả trong các vụ việc dân sự khác có liên quan đến quyền sử dụng đất. Thông thờng
để căn cứ vào các điều 95, 96, 97,98,99 của Luật Hôn Nhân Và Gia Đình và các
Website: Email : Tel : 0918.775.368
văn bản hớng dẫn thì sẽ không giải quyết đợc thấu đáo và triệt để các vấn đề liên
quan đến quyền sử dụng đất khi ly hôn. Vì vậy, các cơ quan xét xử thờng phải căn
cứ vào các quy định của Luật Đất đai và Luật Dân sự để giải quyết, để xác định ai
có quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó là tài sản chung hay tài sản riêng,
công sức đóng góp của mỗi bên vào tài sản đó nh thế nào (trong trờng hợp đó là
nhà thuộc sở hữu riêng của một bên).
2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng Trong các án kiện
ly hôn tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
2.1. Khái quát về tình hình ly hôn tại Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh lớn, mật độ dân c đông, điều kiện kinh tế xã hội
phát triển so với cả nớc. Cùng với sự phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội cũng đợc
đặt ra trong đó có vấn đề quan hệ hôn nhân và gia đình. Quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình nh con đối với bố mẹ, vợ chồng với nhau có phần xuống cấp
trong một bộ phận không nhỏ của dân c. Trong xã hội ngày nay, khi mà mọi ngời
đều quan tâm tới yếu tố kinh tế và không còn chăm lo nhiều tới gia đình mình nữa.
Sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình giờ đây đợc thay thế
bằng việc tính toán làm ăn kinh tế, đôi khi là chơi bời truỵ lạc đã làm cho mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không còn chặt chẽ. Sự cách biệt giữa
thu nhập của vợ và chồng, sự ảnh hởng của yếu tố văn hoá ngoại lai, sự xâm nhập
của những quan niệm không đúng đắn, sự nhận thức cha đầy đủ và không thấu đáo
về hậu quả của việc ly hôn của các cặp vợ chồng trẻ đó là một số các nguyên
nhân trong rất nhiều các nguyên nhân làm tình trạng ly hôn ở Việt Nam nói chung
và ở Quảng Ninh nói riêng gia tăng.
Việc mâu thuẫn trong gia đình hiện nay ngày càng gia tăng, và ngày càng
có nhiều cặp vợ chồng muốn ly hôn. Sau khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn nếu
xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân không đạt đợc thì Toà án quyết định cho ly hôn. Khi hai vợ chồng đã ly hôn
sẽ đặt ra một số vấn đề nh nuôi con chung, vấn đề cấp dỡng cho con, và một vấn
đề quan trọng đợc đặt ra là chia khối tài sản chung của vợ chồng tạo lập đợc trong
thời kỳ chung sống với nhau. Sau khi xem xét các đơn kháng cáo, kháng nghị mà
Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận đợc về việc yêu cầu xét xử phúc thẩm các
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vụ án hôn nhân và gia đình em nhận thấy lý do kháng cáo của các bên chủ yếu là
cho rằng bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp dới về việc chia tài sản là ch-
a hợp lý và yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh xem xét lại phần quyết định chia tài sản
của vợ chồng. Vì vậy có thể thấy rằng việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân là rất phức tạp và đó là mối quan tâm hàng đầu của các cặp vợ
chồng khi ly hôn.
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Năm 2005, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã nhận đơn kháng cáo của
40 vụ án xin ly hôn đợc giải quyết tại các Toà cấp huyện trong tỉnh, trong đó có
15 đơn kháng cáo yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh xem xét lại phần chia tài sản của
bản án sơ thẩm. Toà án nhân dân tỉnh đã giải quyết và ra quyết định phúc thẩm 40
vụ trong đó có 15 vụ Toà án nhân dân tỉnh phải sửa phần nội dung về tài sản và
công nợ so với bản án sơ thẩm.
Năm 2006 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận đợc 42 đơn kháng cáo
của các bên trong vụ án xin ly hôn. Trong đó có 20 đơn kháng cáo yêu cầu Toà án
xem xét lại phần chia tài sản của bản án sơ thẩm. Toà án nhân dân tỉnh đã giải
quyết và ra quyết định phúc thẩm 42 vụ trong đó có 20 vụ Toà án nhân dân tỉnh
phải sửa phần nội dung về tài sản và công nợ so với bản án sơ thẩm.
- Đối với động sản: qua việc tìm hiểu các bản án phúc thẩm của Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh, qua các buổi tham dự các phiên Toà phúc thẩm tại Toà
án em nhận thấy có một số nguyên nhân dẫn tới việc tranh chấp về tài sản là động
sản của các cặp vợ chồng khi ly hôn nh sau:
Thứ nhất: Khi mới xây dựng gia đình các cặp vợ chồng trẻ thờng khó khăn
về kinh tế nên khi cần vốn để xây dựng kinh tế họ thờng vay mợn khá nhiều, vay
của bạn bè, bố mẹ, anh chị của cả vợ và chồng. Do đặc điểm của Việt Nam, việc
vay mợn thờng dựa vào các mối quan hệ thân thiết nên thờng không có giấy tờ
chứng minh, khi xảy ra tranh chấp họ không thừa nhận việc vay mợn đó là có
thực.
Thứ hai: Khi xã hội phát triển việc làm kinh tế của vợ và chồng đôi khi tach
biệt nhau, chồng làm kinh tế riêng và vợ làm kinh tế riêng vì vậy mà trong gia
đình thờng có tình trạng vốn làm ăn của vợ, vốn làm ăn của chồng. Khi làm kinh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tế độc lập nh vậy họ cũng thờng huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau và chỉ
có một bên vợ, chồng biết. Trong trờng hợp này nếu làm ăn thua lỗ và một bên
mắc nợ họ cũng thờng không thừa nhận.
Thứ ba: đối với tài sản riêng của mỗi bên trớc khi kết hôn cũng rất khó xác
định bởi do tập quán ngời việt khi xây dựng gia đình họ đều mong muốn là đợc
cùng nhau xây dựng hạnh phúc nên cha có một trờng hợp nào xác định số tiền của
mình trớc khi kết hôn là bao nhiêu để đóng góp vào xây dựng kinh tế chung
ngoại trừ một số trờng hợp tài sản đó do ngân hàng quản lý và có chứng từ đầy đủ.
Khi ly hôn thì các bên đều biện minh cho mình và chối đẩy trách nhiệm nhng lại
không có những chứng cứ rõ ràng để chứng minh.
Thứ t: cũng có những cặp vợ chồng đã kết hôn tơng đối lâu, kinh tế khá giả
và có những giao dịch dân sự nh vay và cho vay, nh trên đã trình bày do đặc điểm
của Việt Nam là các giao dịch thờng không có giấy tờ kèm theo nên khi xảy ra
tranh chấp đều không chứng minh đợc.
Thứ năm: việc phân chia các tài sản khác trong gia đình có nhiều trờng hợp
các bên đơng sự cũng không chấp nhận theo quyết định của Toà án sơ thẩm do các
bên cho rằng hội đồng định giá thờng định giá quá thấp tài sản và khi chia loại tài
sản này, Toà án thờng căn cứ vào nhu cầu của các bên về điều kiện sản xuất kinh
doanhvà nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập . Vì
vậy khi bên không có nhu cầu sẽ yêu cầu Toà án định giá lại tài sản.
Thứ sáu: về công sức đóng góp của mỗi bên vào khối tài sản chung cũng có
những bất đồng. Khi Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi
bên để có thể phân chia tài sản thờng sẽ bị bên còn lại phản ứng không tốt và cho
rằng mình cần phải đợc hởng sự công bằng (chia đôi) khối tài sản đó.
- Đối với bất động sản: Do việc quản lý đất đai của các cấp chính quyền tr-
ớc khi luật đất đai năm 2003 đợc ban hành là không tốt vì vậy cũng xảy ra việc
tranh chấp quyền sử dụng đất rất nhiều. Mặt khác nữa do quyền sử dụng đất hiện
nay cũng rất có giá trị, nó thực sự lớn so với tài sản là động sản vì vậy việc phân
chia tài sản là bất động sản cũng gặp khó khăn. Có một số nguyên nhân dẫn tới
việc tranh chấp tài sản là bất động sản: