Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luậnduy vật lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.21 KB, 17 trang )

1

MỞ ĐẦU

Con người là hiện tượng đặc biệt trong thế giới hiện thực, nơi có sự tác
động tổng hợp của cả quy luật tự nhiên và quy luật xã hội, tư duy. Vấn đề con
người được nổi lên hàng đầu của mọi khoa học, là điểm tất cả phải xuất phát và
phải quay về đó. Đối với triết học, con người là đối tượng nghiên cứu của mọi
trào lưu, tư tưởng triết học từ cổ chí kim, ở cả phương Đơng và phương Tây. Các
học thuyết triết học ngồi mácxít từ thời cổ đại cho đến nay đã tiếp cận và tìm
cách lý giải bằng nhiều cách, góc độ khác nhau về những vấn đề chung nhất, cơ
bản nhất của con người nhưng đều chưa đưa ra được những quan điểm đúng đắn
và toàn diện. Triết học Mác - Lênin là triết học xuất phát từ con người và vì con
người, làm cơ sở trong luận giải mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, cá nhân và
xã hội, quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ. Thực chất chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là học thuyết giải phóng con
người, vì sự phát triển tồn diện của con người.
Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá
nhất của mỗi quốc gia chính là nguồn nhân lực. Vì vậy, mục đích phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo
mơi trường thuận lợi để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có
cơ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo. Nhận thức được điều đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã ln xác định rõ vai trị đặc biệt quan trọng của nhân tố con người
trong giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp Đổi mới hiện nay. Do đó,
phân tích lý luận triết học Mác - Lênin về vấn đề con người và phát huy nhân tố
con người trong sự nghiệp Đổi mới ở Việt Nam hiện nay ln là nội dung thời
sự và có giá trị thực tiễn to lớn.


2

I. LÝ LUẬN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI



1. Các quan điểm triết học ngồi mácxít về con người
Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử
triết học nhân loại. Những câu hỏi như: Con người là gì? Bản tính, bản chất con
người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải
phóng mình, đạt tới tự do? Có nền văn minh nào ngồi con người ở bên ngồi
Trái đất hay có tồn tại nền văn minh song song trong thế giới đảo chiều so với
con người hay khơng.... Đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan một nội dung cấu thành thế giới quan triết học. Tuỳ theo điều kiện lịch sử của
mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ theo góc
độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học trong lịch
sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con người. Mặt
khác trong khi giải quyết những vấn đề trên, mỗi nhà triết học, mỗi trường phái
triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận khác
nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu hình, ngộ biện hay ngụy
biện, thiện hay ác, chiến tranh hay hịa bình...
Trong tư tưởng triết học Phật giáo: con người là sự kết hợp giữa danh và
sắc (vật chất và tinh thần). Đời sống của con người trên trần thế chỉ là hư ảo, ảo
giác. Do vậy, cuộc sống con người khi sống chỉ là sống nhờ, sống gửi. Cuộc
sống vĩnh cửu khi đạt tới cõi Niết Bàn, nơi linh hồn con người được siêu thoát
để trở thành bất diệt. Kết luận về bản tính Vơ ngã, Vơ thường và tính hướng
thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những
nội dung độc đáo của tư tưởng triết học Phật giáo.
Đối với nền văn minh Trung Hoa, nền văn minh chưa bị đứt gãy duy nhất
trong lịch sử, quan niệm về con người trong Nho giáo hết sức phong phú nhưng
lại sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm và chủ yếu tiếp cận từ góc độ hoạt
động chính trị, đạo đức của xã hội. Khổng Tử cho rằng “Thiên mệnh” là đấng
tối cao chi phối quyết định bản chất con người, đức “Nhân” chính là giá trị cao
nhất, nhưng chỉ bậc quân tử mới có, kẻ tiểu nhân thì khơng có. Mạnh Tử cho
con người vốn bẩm sinh có tính thiện, do ảnh hưởng của tập qn, phong tục



3

xấu nên con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt. Vì vậy, muốn giữ được đạo
đức của mình thì phải qua tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên. Tuân Tử lại cho
rằng, con người sinh ra đã có bản chất là ác, nhưng cái ác đó có thể bị loại bỏ,
thay vào đó là cái tốt, biện pháp để đạt đến cái tốt là chống lại cái ác. Trong triết
học phương Đông cũng tồn tại quan điểm: con người và trời có thể hồ hợp
được với nhau (thiên nhân hợp nhất), đó là quan điểm duy tâm. Như vậy, triết
học phương Đông thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo
đức. Đó là quan niệm về con người có thiên hướng duy tâm nhưng vẫn đặt trong
quan hệ với tự nhiên và xã hội.
Các nhà triết học duy vật cổ đại ở Hy Lạp quan niệm con người là một bộ
phận cấu thành thế giới vật chất; là một bản nguyên vật chất xác định. Đêmơcrít
cho rằng: mọi vật đều cấu tạo từ ngun tử; linh hồn con người cũng là vật chất,
được cấu tạo từ nguyên tử. Chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại đã coi con người có
hai phần thể xác và linh hồn, trong đó linh hồn là bất tử (Platon). Aritxtốt cho
rằng, con người là một động vật chính trị; là bậc thang cao nhất của vũ trụ.
Trong triết học thời kỳ Trung cổ, quan niệm về con người bị chi phối bởi
quan điểm duy tâm của tôn giáo. Theo giáo lý Kitơ, con người do Chúa sáng tạo
ra, có phần thể xác và linh hồn. Mọi mặt của cuộc sống con người như: niềm
vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do thượng đế sắp đặt. Đây là quan
niệm sai lầm, phản khoa học dựa trên thế giới quan duy tâm về con người.
Triết học Tây Âu thời kỳ Phục Hưng - Cận đại, quan niệm về con người
có bước phát triển đáng kể do khoa học và thực tiễn sản xuất đặt ra. Con người
là một thực thể vật chất, ý thức từ vật chất sinh ra, đề cao vai trị trí tuệ, lý tính,
xem con người là thực thể có trí tuệ. Đó là yếu tố quan trọng nhằm giải thoát
con người khỏi thần học thời trung cổ áp đặt, tiến tới giải phóng con người khỏi
sự thống trị của cường quyền và thần quyền. Tuy nhiên, chưa nhận thức đầy đủ
cả về mặt sinh học và mặt xã hội thống nhất trong con người.

Thời kỳ cận đại, nhận thức về con người đã có một bước tiến đáng kể,
triết học phản ánh những vấn đề mới mẻ do thực tiễn đặt ra. Hêghen, nhà triết
học tiêu biểu của triết học cổ điển Đức, có nhiều tư tưởng biện chứng thú vị:


4

Mỗi con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, khơng ai có thể
nhảy ra khỏi thời đại mình như nhảy ra khỏi cửa sổ, nhưng xuất phát điểm lại
được đặt trên nền tảng thế giới quan duy tâm khi tiếp cận và luận giải về con
người: chính sự vận động theo những qui luật khách quan của “ý niệm tuyệt
đối” đến mức độ nhất định nó sẽ tha hố thành giới tự nhiên, xã hội và con
người. “Ý niệm tuyệt đối” là thực thể tinh thần sinh ra vũ trụ và con người.
Đới với L.Phoiơbắc: phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm, tôn giáo và
giải thích nguồn gốc, bản chất con người theo quan điểm duy vật. Ơng cho rằng,
khơng phải chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chúa, mà chính con
người đã tạo ra chúa theo hình ảnh của con người; con người do sự vận động của
thế giới vật chất tạo nên, là kết quả của sự phát triển lâu dài của thế giới tự
nhiên; con người và tự nhiên thống nhất với nhau. Tuy vậy, khi nói đến tự nhiên
thì ơng là nhà triết học duy vật, nhưng khi bàn đến xã hội ông lại nhà triết học
duy tâm, L.Phoiơbắc rơi vào duy tâm khi phân tích bản chất con người. Con
người trong quan niệm của ông là con người chung chung, trừu tượng, phi lịch
sử, phi giai cấp; không thấy được bản chất xã hội và vai trị hoạt động thực tiễn
của con người. Vì vậy, mối quan hệ giữa người với người được ơng gói gọn
trong quan hệ tình u, tình bạn, được lý tưởng hố, để giải phóng con người thì
chỉ cần thay thế Kito giáo bằng tơn giáo của tình u.
Trong triết học phương Tây hiện đại, do ảnh hưởng của nền sản xuất thực
dụng tư bản, nhiều nhà khoa học tư sản đem đối lập và tách mặt sinh học khỏi
mặt xã hội. Phái duy sinh vật tuyệt đối hoá yếu tố sinh học trong sự phát triển
của con người. Họ tuyên truyền thuyết Đácuyn xã hội. Đại biểu trường phái này

là: Ph. Nítsơ, Trenherơlen, Klovenơ… mục đích là ngụy biện, bảo vệ cho chiến
tranh. Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của con người theo quan
điểm di truyền học, đó là cơ sở cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa
Phơrớt cho rằng, toàn bộ cái xã hội trong tâm lý học con người chỉ là mặt khác
nhau của giới tính, là sự biểu hiện quanh co của những đam mê bẩm sinh, dẫn
tới lối sống buông thả, theo đuổi dục vọng thấp hèn theo kiểu chủ nghĩa tự nhiên
ở châu Âu. Nhìn chung, các quan điểm triết học ngồi mác xít, nhất là trong triết


5

học Phương Tây hiện đại (như chủ nghĩa hiện sinh) về con người chưa thốt
khỏi tính chất siêu hình hoặc duy tâm thần bí, ngụy biện, có thiên hướng trọng
mặt tự nhiên trong giải thích bản chất con người, điều đó phản ánh một bên là
các nhà tư tưởng bất lực trước thực tại xã hội tư bản đầy tội ác, vơ nhân đạo,
phân hóa giàu nghèo, một bên là các học giả tư sản cổ xúy lối sống vị kỉ, thực
dụng, chạy theo đồng tiền, dục vọng thấp hèn bảo vệ chủ nghĩa tư bản mà quên
đi những thân phận nghèo đói, vơ gia cư, yếu thế trong xã hội.
2. Một số nội dung cơ bản trong triết học Mác - Lênin về con người
Con người văn minh (Homo sapiens) được hình thành trên những đồng cỏ
châu Phi khoảng 200000 - 25000 năm trước, có nơi nói 4 vạn năm (Trái đất hình
thành cách đây khoảng 4,55 tỉ năm), là hậu duệ của Homo erectus (người đứng
thẳng), là giống thay thế Homo neanderthalensis (2 triệu năm trước đây). Triết
học Mác - Lênin tiếp cận con người từ hoạt động lao động sản xuất, trong tính
tồn vẹn và khẳng định: Con người là những cá thể người trong một chỉnh thể
thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội. Là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, sáng
tạo ra tồn bộ nền văn hóa vật chất và tinh thần của xã hội.
Phương pháp tiếp cận đúng đắn khoa học nhất là: sự hình thành, phát triển
con người gắn với sản xuất vật chất. Ở góc độ sinh vật: Con người là một động
vật có tính xã hội với tất cả mọi nội dung văn hóa, lịch sử của nó, đó là cá thể

sinh học, có ý thức, tư duy, ngơn ngữ. Con người có mặt tự nhiên, vật chất, nhục
thể, sinh vật, tộc loại…, là sản phẩm phát triển lâu dài của thế giới vật chất.
Gồm các hiện tượng sinh lý, di truyền, thần kinh, điện - hoá và các quá trình
khác của cơ thể. Giới tự nhiên là tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại,
phát triển của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vơ cơ của con
người”. Bản tính tự nhiên của con người bao hàm tất cả bản tính sinh học, tính
lồi của nó. Con người phân biệt mình với các lồi động vật ngay từ khi nó bắt
đầu sản xuất ra những giá trị tư liệu sinh hoạt (tách khỏi tự nhiên). Sản xuất
không chỉ là phương tiện để duy trì sự sống mỗi cá nhân, mà cịn là phương thức
biểu hiện: nội dung sống (sống bằng cái gì, như thế nào, để làm gì, có mục đích,
ý nghĩa gì), hoạt động sáng tạo của con người.


6

Hoạt động lịch sử đầu tiên mang ý nghĩa sáng tạo chân chính của con
người là chế tạo ra cơng cụ lao động và con người bắt đầu lịch sử của mình từ
đó. Nhờ cơng cụ lao động - tư liệu của mọi tư liệu, sức mạnh vật chất đầu tiên
mà con người tách khỏi tự nhiên, tách khỏi loài vật với tư cách là một chủ thể
hoạt động thực tiễn xã hội. Đồng thời, bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con
người hoà nhập với tự nhiên, biến “tự nhiên thứ nhất” thành “tự nhiên thứ hai”,
“tự nhiên thứ ba”…, sáng tạo ra của cải, tri thức và các giá trị tinh thần. Con
người muốn sống, muốn thỏa mãn nhu cầu của mình thì phải lao động sáng tạo
và khơng ngừng sáng tạo. Ở góc độ xã hội: con người là một thực thể vật chất
đặc biệt có ý thức, có khả năng sáng tạo, có tinh thần, ngơn ngữ, ý thức, tư duy,
lao động, giao tiếp, v.v… Nội dung của ý thức và cuộc sống từng con người do
nhiều yếu tố, quan hệ xã hội quy định: gia đình, đất nước, giai cấp, dân tộc, quan
hệ với tự nhiên, với xã hội, ..., sự tác động của các quy luật tự nhiên, xã hội. Lao
động giúp con người tạo nên nền văn minh vật chất: các thành phố, hải cảng,
nhà cửa, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, hình thành nên các quan hệ xã hội. Lao

động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành, phát triển con người. Lao
động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên loài người: tứ chi thành hai chi,
não bộ phát triển, đôi tay mềm mại, linh hoạt. Khoa học đã chứng minh rằng,
con người là một tổ chức sinh vật có trình độ phát triển cao nhất trên hành tinh,
từ một lồi sinh vật có xương sống phát triển lên; là một nấc thang cao nhất
trong lịch sử tiến hố của các giống lồi. Trong lao động, qua lao động mà con
người biến đổi điều kiện tự nhiên bên ngoài; biến đổi “mặt tự nhiên” của con
người, cải tạo bản năng sinh học để hình thành, phát triển những phẩm chất xã
hội, tách mình khỏi giới tự nhiên thuần túy.
Con người lao động sản xuất cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất,
thỏa mãn nhu cầu của xã hội loài người, trong khi con vật hoàn toàn dựa, phụ
thuộc vào tặng phẩm của tự nhiên. Lao động đã cải tạo bản năng sinh học của
con người, bắt bản năng phục tùng lý trí, phát triển bản năng thành một trạng
thái mới về chất - bản năng xã hội. Quan hệ sinh sản: con vật mang yếu tố tự
nhiên (man rợ), con người có văn hóa, văn minh. Lao động là điều kiện chủ yếu


7

quyết định sự hình thành phát triển phẩm chất xã hội của con người. Trong lao
động tất yếu hình thành quan hệ xã hội, thông qua hoạt động giao tiếp hình
thành lên ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm, ý chí … Ph.Ăngghen khẳng định: “trên
ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động sáng tạo ra bản thân con người”. 1 Là
sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con
người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống
nhất với nhau đó là: Quy luật sinh học: Quy luật thích ứng, trao đổi chất, di
truyền biến dị tiến hoá... Quy luật tâm lý ý thức: hình thành, vận động trên nền
tảng sinh vật của con người như: Tình cảm, khát vọng, niềm tin, lý trí... Quy luật
xã hội: Chi phối các quan hệ xã hội giữa con người với con người. Hai mặt sinh
học và xã hội ln có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mặt sinh học là cơ sở tự

nhiên tất yếu, là điều kiện tiền đề của cải xã hội. Thiếu cái sinh vật, cái xã hội
không thể tồn tại và biểu hiện ra được. Song, cái sinh vật của con người bị biến
đổi bởi cái xã hội và mang tính xã hội. Ngược lại khi ra đời, cái xã hội có vai trị
quyết định, chế ước cái sinh vật và quy định bản chất xã hội của con người. Hai
mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành con người hoàn
chỉnh - con người tự nhiên - xã hội.
Thông qua việc phê phán tư tưởng của L.Phoiơbắc, C.Mác đã đưa ra luận
điểm (luận điểm thứ sáu) nổi tiếng về bản chất con người: “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” 2. Từ luận
điểm trên ta thấy: Trong xã hội, khơng có con người trừu tượng, phi lịch sử, phi
giai cấp, hoặc riêng biệt, đơn lẻ mà luôn tồn tại trong mơi trường, điều kiện,
hồn cảnh cụ thể (đối lập với con người chung chung, trừu tượng của Phơ bách).
Con người luôn sống trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định, gắn với
một thời đại lịch sử nhất định (tính hiện thực). Chính Heghen đã khẳng định:
Khơng ai nhảy ra khỏi thời đại của mình như nhảy ra khỏi cửa sổ. Tuy nhiên,
nền tảng, xuất phát điểm cho hệ thống triết học của ông là “ý niệm tuyệt đối”
1

1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.641.

2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tr. 11.


8

nên cái thời đại Heghen nói đến do sự tha hóa của “ý niệm tuyệt đối”, của “tinh
thần thế giới”, khơng phải thế giới hiện thực. Về tính hiện thực là để phân biệt

với con người trong đời sống của Phơbach: con người sống ẩn dật ở vùng nông
thôn nước Đức, không giao lưu xã hội, không biết sự vận động, biến đổi của xã
hội. Chỉ trong hiện thực, các quan hệ xã hội như: quan hệ giai cấp, dân tộc, thời
đại; quan hệ chính trị, kinh tế, cá nhân, gia đình, xã hội con người mới bộc lộ
tồn bộ bản chất xã hội của mình. Quan hệ xã hội quy định bản chất người gồm
cả: hiện tại-truyền thống. Bản chất con người được hình thành thơng qua thực
tiễn: sản xuất vật chất, chính trị xã hội, thực nghiệm khoa học và các quan hệ xã
hội, không phải từ quan hệ tình yêu, tình cảm nam nữ như Phơbách quan niệm.
Tổng hòa là sự thống nhất, tác động, chi phối, hịa hợp các quan hệ xã hội, cũng
có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại,
chính trị, văn hóa… khơng phải là sự cộng lại máy móc, giản đơn.
Quan hệ xã hội có ý nghĩa quyết định nhất đối với việc hình thành lên bản
chất con người đó chính là quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế. Xuất phát từ vai
trò của sản xuất vật chất, con người sống, tồn tại nhờ lao động, sản xuất, qua đó
hình thành các quan hệ xã hội. Từ vị trí, vai trị của con người trong quan hệ sản
xuất, đã hình thành các giai tầng khác nhau (giai cấp thống trị-bị trị), tác động
tới quá trình hình thành bản chất con người, khơng có bản chất con người chung
cho mọi giai cấp, mọi lịch sử. Các quan hệ xã hội khác đều trực tiếp hoặc gián
tiếp chịu sự quy định của quan hệ sản xuất như: chính trị, tư tưởng, văn hóa, . ...
Mỗi hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định
giữ vai trị chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất (cơng hữu hay tư hữu) đó là
cái xét đến cùng tác động, chi phối, tạo nên bản chất con người từng giai đoạn
lịch sử. Bản chất con người thời cơng hữu: cộng đồng, đồn kết, tương trợ đối
lập, thời tư hữu: cướp bóc, đàn áp, lợi ích riêng. Quan hệ sản xuất là quan hệ
kinh tế-vật chất quyết định các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hóa..., có ý nghĩa
trực tiếp, to lớn, mạnh mẽ nhất tới sự hình thành bản chất con người. Đánh giá
bản chất con người thơng qua mối quan hệ với lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất.
Cần phân biệt bản chất người và sự thể hiện bản chất người: những hành vi bộc



9

lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản
chất không theo đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua
hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, kinh nghiệm và nhận thức khoa
học, lợi ích trước mắt và lâu dài, bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức, giữa
di truyền tự nhiên và văn hóa xã hội.
Bản chất con người ln vận động, biến đổi cùng sự phát triển của xã hội.
Bởi vì các quan hệ xã hội luôn luôn vận động, phát triển cùng sự phát triển của
xã hội nên bản chất con người tất yếu cũng có sự biến đổi phát triển. Bản chất
con người được hình thành phát triển là một q trình lâu dài, khơng dừng lại,
theo xu hướng ngày càng hồn thiện. Q trình đó là một q trình con người
khơng ngừng hồn thiện khả năng tồn tại của mình và thích ứng trước các lực
lượng mới nảy sinh của tự nhiên và xã hội (thiên tai, dịch bệnh, tồn cầu hóa, trí
tuệ nhân tạo, mạng xã hội...).
Trong xã hội có giai cấp, bản chất con người mang tính giai cấp sâu sắc,
khơng có con người chung chung, tách khỏi các quan hệ giai cấp. Mỗi con người
trong hoạt động xã hội đều phản ánh, thể hiện bản chất xã hội của một giai cấp
nhất định, khơng có con người “siêu giai cấp” hay phi giai cấp, xuyên qua mọi
lịch sử mang bản chất chung cho mọi giai tầng trong xã hội. Con người là sản
phẩm của lịch sử nhưng lại là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Khơng có thế giới tự
nhiên (phần tự nhiên để con người sống và phần tự nhiên của chính con người),
khơng có hồn cảnh xã hội thì khơng tồn tại con người (nguồn gốc, sự biến đổi).
Vì vậy, con người là kết quả sự tiến hoá lâu dài của thế giới hữu sinh, là sản
phẩm của lịch sử. Khi trở thành con người trong xã hội và đứng độc lập với tự
nhiên thì con người ln là chủ thể của phần tự nhiên được con người khai thác và
tạo ra lịch sử xã hội của mình. Thơng qua lao động sản xuất con người đáp ứng nhu
cầu tồn tại và còn thúc đẩy xã hội phát triển qua các giai đoạn lịch sử. Qua thực tiễn
và nhận thức con người luôn vươn tới làm chủ tự nhiên, xã hội và làm chủ bản thân
mình. Về vai trị là chủ thể sáng tạo lịch sử, đó là sáng tạo ra mọi của cải vật chất,

tinh thần, đồng thời sáng tạo ra cả bộ óc và tư duy của mình. Thơng qua đó con
người tạo ra lịch sử của mình - là lịch sử của thực thể có ý thức, tự giác hoạt động.


10

Như vậy, bản chất con người không phải trừu tượng mà là hiện thực,
không phải tự nhiên mà là lịch sử, khơng phải cái vốn có cá nhân mà là tổng hòa
các quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác.
Để tìm hiểu được bản chất của con người, phải đi từ các mối quan hệ xã
hội hiện thực với các điều kiện xã hội cụ thể mà con người sống trong đó. Từ đó
kiên quyết đấu tranh, bác bỏ và chống lại quan điểm siêu hình, duy tâm, phản
động của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc thượng đẳng, thuyết
Đácuyn xã hội, thuyết Mantuyt về sự hình thành con người, cũng như những yếu
tố tác động đến bản chất con người, sự tồn tại và mối quan hệ giữa con người
với nhau. Để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, thì phải làm cho
hồn cảnh, điều kiện con người sinh sống ngày càng mang tính “người” nhiều
hơn. Đó là mơi trường tự nhiên hài hịa, bền vững, mơi trường xã hội nhân văn,
nhân đạo, bình đẳng, vì sự tiến bộ và coi trọng phẩm giá con người.
II. VẤN ĐỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Lý luận về con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin là
nền tảng lý luận cho việc phát huy vai trò của con người trong cách mạng và
trong sự nghiệp Đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh, do yêu
cầu khách quan của sự phát triển lịch sử - xã hội Việt Nam, tiếp thu văn hóa và
các giá trị truyền thống của dân tộc, gia đình, tinh hoa văn hóa của nhân loại,
trong đó có lý luận về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã vận dụng sáng
tạo và phát triển lý luận về con người phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội Việt
Nam hiện đại. Việc phát huy vai trò nhân tố con người ở Việt Nam trong điều

kiện hiện nay đã được Đảng ta chú trọng nhấn mạnh trong các kỳ đại hội Đảng,
trong các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương, trong các chủ trương, chính
sách, quản lý và điều hành sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung.
1. Về chiến lược con người trong sự nghiệp Đổi mới ở Việt Nam
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, chiến lược con người là một bộ
phận hợp thành chiến lược kinh tế-xã hội. Mục tiêu của chiến lược con người là
phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, trong đó ưu tiên đạo


11

đức cách mạng, coi đức là gốc. Do vậy, phải: “Phát huy tối đa nhân tố con
người, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự
phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện, gắn kết chặt chẽ,
hài hịa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”3.
Đào tạo ra những người công dân và những cán bộ tốt, kế tục xứng đáng
sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong chiến lược con người, xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là công việc phải đặt lên hàng đầu, “cơng việc
gốc của Đảng”, cịn cơng tác cán bộ để sử dụng con người được coi là “then
chốt của then chốt”. Do vậy, phải đào tạo được những con người biết làm việc,
làm người, làm cán bộ. Đặc biệt, quan tâm đến giáo dục- đào tạo thế hệ trẻ, chủ
nhân tương lai của đất nước, đó là: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách,
năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự
hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội
cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ”4.
Trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng, có sự kết hợp giữa lợi ích vật
chất và lợi ích tinh thần, trong đó coi trọng phát huy vai trị động lực chính trịtinh thần. Để phát huy vai trò nhân tố con người, cần tổ chức mọi hoạt động trên
cơ sở khoa học, chú trọng tuyên truyền giáo dục, biểu dương, động viên kịp thời
các hành động tích cực của con người như giúp đỡ nhau trong dịch bệnh Covid
19, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ. Đảng và Nhà nước đã thi hành các chính

sách xã hội hướng tới con người, phát động các phong trào cách mạng, thông
qua đấu tranh cách mạng để phát huy nhân tố con người, kết hợp tổ chức các
chương trình thiện nguyện, các hoạt động hướng tới người nghèo, người yếu thế
trong xã hội, kêu gọi sự đoàn kết, giúp đỡ nhau tương thân tương ái, lá lành đùm
lá rách, lá rách ít đùm bọc lá rách nhiều, chung lưng đấu cật trong hồn cảnh
dịch bệnh khơng có lương thực thực phẩm, khơng có cơng ăn việc làm. Đồng
thời phát hiện, khắc phục các nhân tố tiêu cực, chống chủ nghĩa cá nhân, tham ơ,
tham nhũng, suy thối tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
3
4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H.2021,tr.47.
Sđd, Tr.43-44.


12

chuyển hóa”, xa rời, hồi nghi, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, thiếu niềm tin
vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp Đổi mới.
Mơ hình con người xã hội chủ nghĩa là con người kế thừa, phát triển
những giá trị truyền thống và giá trị cách mạng lên tầm cao mới. Nhân cách con
người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát là
Đức và Tài, tức là phẩm chất và năng lực. Trong đó, đạo đức là cái gốc của
người cách mạng: Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì tài
giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân.
Phẩm chất và năng lực con người Việt Nam được biểu hiện ở các đặc
trưng: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; trung thành với Tổ quốc, nhân dân và
Đảng; có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; có đạo lý
truyền thống con người Việt Nam: nhân ái, bao dung, hiếu thảo, khiêm tốn,
trung thực, giản dị, đồn kết cộng đồng, dễ thích nghi; dũng cảm, mưu trí sáng

tạo; u lao động; có ý thức tổ chức kỷ luật; ham học hỏi, cầu tiến bộ; có năng
lực chun mơn tốt; có tri thức hiện đại; có đời sống văn hố - tinh thần lành
mạnh, phong phú và có khả năng hội nhập trong đời sống xã hội hiện đại.
Phẩm chất và năng lực con người Việt Nam gắn với nhiệm vụ cách mạng
và từng giai đoạn lịch sử cụ thể, được khái quát thành mơ hình nhân cách cụ thể
như nhân cách đảng viên, nhân cách người cán bộ, quân nhân, công an, phụ nữ,
nông dân, công nhân, thanh niên, học sinh, nhi đồng... Đó là mơ hình nhân cách
của những người làm những chức trách, nhiệm vụ khác nhau.
Động lực phát huy nhân tố con người trong đổi mới đất nước, trước hết là
quan tâm đến lợi ích của con người. Quan tâm lợi ích con người, thoả mãn nhu
cầu ngày càng cao của con người chính là hiện thực hố quan điểm coi con
người vừa là mục đích, vừa là động lực phát triển của cách mạng Việt Nam. Mục
đích chủ nghĩa xã hội là vì tự do, hạnh phúc con người, thoả mãn nhu cầu ngày
càng cao của con người cả vật chất và tinh thần. Quan tâm lợi ích con người để
con người trở thành chủ thể tích cực xây dựng xã hội mới.
Đòi hỏi kết hợp giáo dục giá trị và đổi mới hồn thiện chính sách xã hội.
Định hướng giá trị- lợi ích cho con người: “Từng bước vươn lên khắc phục các


13

hạn chế của con người Việt Nam, xây dựng con người Việt Nam thời đại mới,
gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” 5. Chỉ có
trên cơ sở quan niệm giá trị đúng đắn, phù hợp với lợi ích chân chính, con người
mới có nhận thức và hành động đúng đắn. Định hướng giá trị – lợi ích cịn để
khắc phục sự lệch chuẩn giá trị trong quá trình phát triển kinh tế thị trường hiện
nay, làm cho con người có mục tiêu, lý tưởng, có hồi bão phấn đấu đúng đắn,
góp phần tích cực vào sự phát triển xã hội. Thực hiện chính sách xã hội nhằm
kết hợp hài hồ các lợi ích, điều chỉnh quan các hệ xã hội. Các chế độ, chính
sách, pháp luật nhà nước phải được cụ thể hố để thực sự trở thành cơng cụ thực

hiện cơng bằng xã hội, từng bước hiện thực hóa các giá trị xã hội chủ nghĩa vào
thực tiễn đời sống xã hội như phong trào xây dựng nông thôn mới hiện nay, các
chính sách an sinh xã hội trong hồn ảnh khó khăn, dịch bệnh, bảo hiểm y tế
tồn dân, hỗ trợ học phí cho trẻ em đến trường.
Thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội. Dân chủ hố đời sống xã
hội là một q trình xây dựng những tiền đề, điều kiện cho mọi hoạt động của
con người được thực hiện trên cơ sở dân chủ, bảo đảm cho giá trị dân chủ xã hội
chủ nghĩa được thể hiện đầy đủ trong đời sống xã hội nhằm phát huy tính tích
cực, tự giác, sáng tạo của con người. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng
cường dân chủ, giải phóng mọi năng lực sáng tạo nhằm ổn định chính trị xã hội,
tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi... Đảng ta khẳng định: “đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả
hệ thống chính trị”6, “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hịa
các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; khơng ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thân
của nhân dân”7.
Đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục đào tạo, thực sự coi giáo dục đào
tạo là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam, phục
5

Sđd, tập 1, tr.43.
Sđd, tập 1, tr.28.
7
Sđd, tập 1, tr.166.
6


14


vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Đảng ta khẳng định: “Đổi mới căn
bản toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học
tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức
tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân” 8. Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục
là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, trên nền
tảng phát triển nhân cách con người Việt Nam vừa “hồng”, vừa “chun”. Tiếp
tục đổi mới tồn diện cơng tác giáo dục đào tạo phù hợp với yêu cầu của đất
nước đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Bên cạnh đó, Đảng ta rất chú
trọng vai trị của văn hóa xã hội chủ nghĩa trong sự hình thành bản chất con
người, trong thực hiện mục tiên xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, những
hiện tượng lai căng lối sống hưởng thụ, trần tục của phương Tây, phai nhạt văn
hóa dân tộc, băng hoại đạo đức xã hội, chạy theo đồng tiền... đã được Hội nghị
văn hóa tồn quốc năm 2021 chỉ ra, phê phán và có những giải pháp khắc phục.
2. Phát huy nhân tố con người trong lĩnh vực quân sự
Quân sự là một lĩnh vực đặc biệt của đời sống xã hội, tiêu điểm của cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc; nơi thường xuyên diễn ra cuộc đọ sức
quyết liệt giữa các bên tham chiến, tuân theo quy luật thép của chiến tranh:
“mạnh được yếu thua”. Cuộc đối đầu giữa con người với con người nhằm mục
đích tiêu diệt sinh mạng của nhau, ln diễn ra cuộc đấu trí, khai thác triệt để
nhân tố con người nhằm phát huy cao nhất sức mạnh nhân tố tinh thần, nhân tố
chủ quan trong tạo ra sức mạnh tổng hợp cao nhất để chiến thắng đối phương.
Do đó, để phát huy nhân tố con người trong xây dựng quân đội và hoạt
động quân sự chúng ta phải qn triệt tư tưởng qn sự mác-xít ln chủ động
trong xây dựng nền tảng kinh tế, chế độ chính trị - xã hội mới tốt đẹp, tạo nền
tảng kinh tế - xã hội vững mạnh. Đồng thời xây dựng tiềm lực quân sự mạnh, đi
đôi với phát triển khoa học kỹ thuật quân sự tiên tiến, nhanh chóng ứng dụng
những thành tựu của Cách mạng 4.0 trong lĩnh vực quân sự để hiện đại hóa con
người, vũ khí trang bị. Chủ động xây dựng tiềm lực quốc phòng, sức mạnh qn
sự mạnh đủ sức ứng phó với các tình huống chiến tranh có thể xảy ra, khơng để
8


Sđd, tập 1, tr.295-296.


15

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa bị bất ngờ trong mọi tình huống.
Nhận rõ ưu thế nhân tố chính trị tinh thần của quân đội cách mạng, để chủ
động xây dựng trận địa chính trị, tư tưởng vững mạnh đủ sức đấu tranh ngăn
chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của kẻ thù, do đó, đối với
Quân đội ta hiện nay phải hết sức coi trọng bồi dưỡng, đào tạo cán bộ chính trị,
chính trị viên, để họ thực sự là những “viên gạch hồng” 9, thực sự tinh nhuệ về
chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống “phi chính trị hóa
Quân đội”, ngăn chặn, loại bỏ mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong đời sống xã hội và môi trường quân sự. Thường xuyên kết hợp tốt giáo
dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc với giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng làm cho mọi cán bộ, chiến
sĩ quân đội và toàn thể nhân dân giác ngộ sâu sắc lịng u nước, đồn kết, thống
nhất quyết tâm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Động lực phát huy nhân tố con người trong xây dựng Quân đội trước hết
là quan tâm đến lợi ích của con người, lợi ích quân nhân. Chính sách xã hội là
động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi, nghĩa
vụ cơng dân, kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa
đời sống vật chất và tinh thần, giữa đáp ứng yêu cầu trước mắt với chăm lo lợi
ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội; đối với qn nhân, cần
có chính sách hậu phương quân đội thực sự thiết thực, hiệu quả và công bằng,
nhất là trong thời dịch bệnh Covid 19 kéo dài, đảm bảo cho cán bộ, chiến sĩ có
niềm tin vững chắc, đồng thuận, yên tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ. Chính

sách xã hội có vị trí rất quan trọng đối với các lực lượng vũ trang. Mục tiêu và
nhiệm vụ của chính sách xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho
cán bộ, chiến sỹ và hậu phương của họ, qua đó động viên mọi người hăng hái
tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc chăm lo đời sống và đãi
9

Phát biểu của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc khi đồng chí về thăm và làm việc tại Trường Sĩ Quan Chính
trị, nhân dịp kỉ niệm ngày truyền thơng Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944-22/12/2021).


16

ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần đối với qn đội phải thơng qua hệ thống
chính sách của nhà nước. Chăm sóc, đãi ngộ đối với quân đội phải được xây
dựng trên cơ sở nhận thức đúng vị trí, vai trị của qn đội trong sự nghiệp bảo
vệ tổ quốc. Chính sách đó phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước, phải thực sự cơng bằng và trở thành địn bẩy động viên cán bộ chiến sỹ
trong quân đội tích cực tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
KẾT LUẬN

Tóm lại, quan điểm triết học Mác - Lênin về con người và phát huy nhân
tố con người là toàn diện, phong phú và sâu sắc. Tồn bộ mục đích cao nhất và
bao trùm nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin là giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, và giải phóng con người. Tư tưởng về con người và phát huy nhân tố con
người đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên
một tầm cao mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm triết
học Mác - Lênin vì con người và phát huy nhân tố con người có ý nghĩa khoa
học và cách mạng to lớn trong sự nghiệp Đổi mới đất nước và trong xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.



17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học (Dùng cho đào tạo thạc sĩ
và NCS ngành kĩ thuật), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2018.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2021.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 20, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1994;
5. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội 1994;



×