Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phát triển đô thị bền vững ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.54 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Nguồn: Tăng trưởng và phát triển, />trien/40230853/157/ 29
Phát triển bền vững ( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia) 29
Phát triển đô thị bền vững ( />ben-vung.html) 29
Huy Lê, “Tuổi thọ trung bình con người sẽ vượt qua 100 tuổi”, Viện Khoa học Nghiên cứu
Nhân tài Nhân lực, 18/10/2009 29
Con người và thiên nhiên, http:// www.thiennhien.net/news/142/ARTICLE/8700/2009-06-
01.html 29
David C. Korten, People- Centered Development Forum, http:// www.pcdf.
Org/about.html 29
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hiện nay, thế giới đang phải đối mặt với những rủi ro chung
mang tính chất toàn cầu như: biến đổi khí hậu, hạn hán, bão lụt, động đất, cháy
rừng, hiện tượng băng tan, ô nhiễm môi trường. Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống của người dân trên toàn thế giới. Đó là chưa kể đến những
tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng là một
trong những nước bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Trước thực trạng trên, việc
hình thành một môi trường sống an toàn, khả năng chống chịu rủi ro của thiên tai và
phát triển bền vững theo thời gian là một xu hướng tất yếu của các đô thị trên toàn
thế giới. Mặc dù đô thị ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong xã hội văn minh,
nhưng sự hiểu biết của con người về đô thị và đô thị hóa vẫ còn ít ỏi. Và trong bối
cảnh đó, vấn đề phát triển đô thị bền vững vẫn còn nằm ở phía trước, đặt ra những
vấn đề cần giải quyết với thế giới quan khoa học.
2
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG
1. Phát triển:
Trong triết học Mác- Lênin, “Phát triển” được hiểu là khuynh hướng chung
của quá trình vận động của sự vật. Phát triển chính là sự vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay
thế cái lạc hậu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và kinh tế mở cửa như hiện nay, khi đang


có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu trong sản xuất, từ nông- công nghiệp sang
dịch vụ- thông tin, từ gia công sang lắp ráp, chế tạo… nhằm hướng đến một nền
kinh tế tri thức, thì khái niệm “Phát triển” cũng đã được nâng cấp lên một tầm mới.
Theo Lý thuyết tăng trưởng và phát triển (Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Kinh
tế Quốc dân), “Phát triển” là khái niệm có nội dung phản ánh rộng hơn so với khái
niệm tăng trưởng. Nếu như tăng về cơ bản chỉ là sự gia tăng thuần tuý về mặt lượng
của các chỉ tiêu kinh tế, xã hội…tổng hợp thì phát triển, ngoài việc bao hàm quá
trình gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là
những biến đổi về mặt chất của nền kinh tế- xã hội, mà trước hết là sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghịêp hoá, hiện đại hoá và kèm theo đó là việc
không ngừng nâng cao mức sống toàn dân, trình độ phát triển văn minh xã hội, thể
hiện ở hàng loạt các tiêu chí như: thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết
của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ môi trường, và khả năng áp dụng các thành
tựu khoa học- kĩ thuật vào phát triển kinh tế- xã hội Như vậy, Phát triển ngày nay
nên được hiểu như sự thay đổi mang tính cấu trúc, không những về lượng mà còn
về chất. Định nghĩa này cũng chính là tiền đề, cơ sở để hình thành nên một thuật
ngữ mới, chính là “Phát triển bền vững”.
2. Phát triển bền vững:
Thuật ngữ "Phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong
ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và
Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển
của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng
những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”.
3
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và
Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát
triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà
không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai ". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh

tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều
này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội phải
bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội -
môi trường.
Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi
trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi
một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong
việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi là
Hội nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp tại
Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo cũng như
các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc gia đã tổng kết lại
kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và đưa ra các quyết sách
liên quan tới các vấn đề về nước, năng lượng, sức khỏe, nông nghiệp và sự đa dạng
sinh thái.
Ở Việt Nam, vào những năm 1960, chủ trương của Đảng ta về phát triển kinh
tế ở miền Bắc là: “Phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách phát triển ưu tiên công nghiệp nặng một cách hợp
lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật; biến nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và
khoa học tiên tiến”. Thực chất đó là chủ trương phát triển bền vững về kinh tế và xã
hội.
Ngày nay, vấn đề phát triển bền vững được đặt ra cấp bách hơn do các mâu
thuẫn nảy sinh trong qua trình phát triển ngày càng sâu sắc và trầm trọng. Luận
4
thuyết phát triển bền vững đi từ nhận định rằng loài người không tôn trọng, không
bảo toàn môi trường môi sinh. Thiên nhiên bị hư hại, hệ sinh thái mất cân bằng, di
sản môi trường-môi sinh suy thoái khiến loài người bị đe dọa, tình trạng đói nghèo
trên thế giới nghiêm trọng, chênh lệch giầu nghèo giữa các nước gia tăng. Tài

nguyên thiên nhiên sút giảm và thiếu hụt. Vấn đề đặt ra là làm sao thỏa mãn yêu cầu
căn bản của con người, bảo đảm tương lai và an sinh cho các thế hệ về sau và đồng
thời bảo toàn môi trường-môi sinh. Phương cách giải quyết vấn đề này là phát triển
bền vững, tức là phát triển tổng hợp, toàn bộ về tất cả các phương diện môi trường,
môi sinh, kinh tế, xã hội và chính trị.
Từ nhận thức đúng đắn trên, dựa vào phương cách giải quyết, một số các
chính sách và nguyên tắc định hướng đã được nêu ra về phát triển bền vững, cụ thể
như sau:
• Về mặt xã hội, bền vững có nghĩa xã hội công bằng, cuộc sống an bình. Sự
phát triển bền vững cần đề phòng tai biến, không để có người sống ngoài lề xã hội
hoặc bị xã hội ruồng bỏ. Xã hội một nước không thể phát triển bền vững nếu có một
tầng lớp xã hội đứng ngoài công cuộc xây dựng và mở mang quốc gia. Thế giới sẽ
không có phát triển bền vững về mặt xã hội nếu cuộc sống hoặc tính mạng của một
phần nhân loại bị đe dọa vì bệnh tật, đói nghèo, thiên tai,… phát triển bền vững về
mặt xã hội còn có nghĩa con người có môi trường sống hài hòa, công bằng và có an
sinh.
• Về mặt kinh tế, cần phải phân biệt phát triển với tăng trưởng. Tăng trưởng
chú trọng tới vật chất và số lượng, tích lũy và bành trướng trong khi phát triển quan
tâm tới tiềm năng, phẩm chất, phục vụ con người một cách toàn diện, về vật chất
lẫn tinh thần. phát triển bền vững về mặt kinh tế nghịch với gia tăng sản xuất không
giới hạn, chinh phục thị trường bằng mọi cách, thương mại hóa bất cứ hàng hóa
hoặc dịch vụ nào, tìm lợi nhuận tối đa trong mọi hoàn cảnh. phát triển bền vững
kinh tế đòi hỏi phải cân nhắc ảnh hưởng bây giờ hay sau này của hoạt động và tăng
trưởng sản xuất lên chất lượng cuộc sống, cứu xét xem có gì bị hư hại, bị phí phạm.
Yếu tố kinh tế đóng một vai trò không thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó đòi
hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn
tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên
5
thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Khẳng định
sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ ngành kinh doanh , sản xuất nào cũng được

dựa trên những nguyên tắc đạo lý cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự
thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận
cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm
phạm những quyền cơ bản của con người.
• Về môi trường, phát triển bền vững có nghĩa phải bảo vệ khả năng tái sinh
của hệ sinh thái, nhịp độ gia tăng sử dụng tài nguyên có khả năng tái sinh phải thấp
hơn tốc độ tái sinh, việc sử dụng tài nguyên không có khả năng tái sinh phải tùy
thuộc khả năng sáng chế tư liệu thay thế. Sau cùng, mức độ ô nhiễm phải thấp hơn
khả năng tái tạo của môi trường, môi sinh. Yêu cầu bền vững về môi trường-môi
sinh buộc phải giới hạn sự tăng trưởng kinh tế. Cần phải thừa nhận rằng kinh tế chỉ
là một bộ phận của hệ sinh thái và phát triễn kinh tế phải bảo vệ môi trường-môi
sinh.
• Về chính trị, phát triển bền vững có nghĩa hết hợp và dung hòa các vấn đề
xã hội, kinh tế và môi trường để hệ thống tổ chức và sinh hoạt chính trị không có
căng thẳng, xáo trộn, có thể đi tới rối loạn hoặc đổ vỡ. Các định chế chính trị cần
phải phải tôn trọng và bảo vệ công bằng, khuyến khích các đối tượng thụ hưởng đối
thoại và tham gia trong tinh thần phù hợp với các nguyên tắc dân chủ tự do. Tính
quan liêu và bàn giấy phải được xóa bỏ vì nó trói buộc con người, đè nén xã hội,
cản trở mọi sự đổi thay, tiến bộ. Tôn trọng đạo lý cũng là một yêu cầu rất cần, gần
như một bắt buộc.
Phát triển bền vững trong thực tế là một dự án rất lớn rộng có những định đề
và cần một số điều kiện. Từ lý luận phát triển bền vững và những nguyên tắc định
hướng trên, để kinh tế-xã hội phát triển một cách bền vững cần có một số điều kiện.
Những điều kiện này nhiều khi không trùng hợp với nhau và cần phải dung hòa để
tìm sự cân bằng và hợp lý:
(1) Dân chủ : Tinh thần và các nguyên tắc dân chủ không phải là điều kiện
tiên quyết hoặc không có không được, tuy nhiên, khái niệm PTBV không thể phổ
biến và lưu truyền rộng rãi, rồi đem ra áp dụng nếu thiếu tinh thần dân chủ, nếu
không tôn trọng các nguyên tắc sinh hoạt dân chủ. Chẳng hạn làm sao bảo đảm
6

công bằng, đảm bảo các thế hệ tương lai có điều kiện để thỏa mãn yêu cầu phát
triển về sau nếu các tổ chức và các hoạt động không có sự tham gia bằng tham khảo
ý kiến, phát biểu lập trường, bày tỏ yêu cầu bởi tất cả các đối tượng thụ hưởng. Mỗi
cá nhân có quyền và yêu cầu xây dựng một cuộc sống an lành, xung quanh có môi
trường có chất lượng, có di sản sinh thái được bảo toàn. Quyền lợi cá nhân cần phải
hòa hợp với ích lợi của tập thể trong tinh thần dân chủ tự do.
(2) Công bằng và bình đẳng : Phát triển bền vững phụ thuộc rất nhiều vào
sự công bằng và bình đẳng. Tùy mức độ của nó, khác biệt giầu nghèo giữa các tầng
lớp dân chúng sẽ nhiều hay ít, các chương trình xóa đói giảm nghèo như do Ngân
Hàng Thế Giới và Qũy Tiền Tệ Quốc Tế đề xướng sẽ đạt được thành công tới mức
độ nào. Công bằng và bình đẳng ảnh hưởng khả năng và mức độ thỏa mãn yêu cầu
của các thành phần xã hội. Tình trạng vay nợ và khả năng hoàn nợ của các nước
chậm tiến tùy thuộc vào sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa các nước
trên thế giới. Có thêm công bằng và bình đẳng thì các nước nghèo sẽ có điều kiện
thuận lợi để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự chậm tiến và như vậy sẽ đóng góp
thỏa đáng cho phát triển bền vững trong nước và trên thế giới.
(3) Tinh thần liên đới phụ thuộc lẫn nhau : Phát triển bền vững của mỗi
quốc gia và phát triển bền vững thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Phát triển bền vững
của thế hệ về sau có liên hệ chặt chẽ với phát triển bền vững của thế hệ ngày nay.
Phát triển bền vững cá nhân cũng tùy thuộc phát triển bền vững quốc gia. Phát triển
bền vững thế giới liên hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường-môi sinh tại mỗi quốc gia.
Cộng đồng thế giới và dân tộc mỗi nước có quyền lợi chung để phòng chống ô
nhiễm, bảo toàn di sản sinh thái. Trong mọi lãnh vực, những quan hệ hợp tác quốc
tế, giao dịch và trao đổi ngày càng nhiều cho thấy sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau
giữc các nước. Nhằm giải quyết các thử thách lớn như xóa đói giảm nghèo, quản lý
tiến trình toàn cầu hóa, bảo vệ môi trường-môi sinh tinh thần liên đới là một điều
kiện chính.
(4) Quyền tự quản, tự quyết : Dự án phát triển bền vững không thể tiến
hành được nếu quyền tự quản, tự quyết của các quốc gia, các sắc tộc, các đoàn thể,
v.v. trong việc chọn lựa hướng đi không được thừa nhận và tôn trọng. Những khác

biệt trên thế giới về điều kiện khách quan, phương tiện hành động, năng lực phát
7
triển, yêu cầu sản xuất và tiêu dùng, v.v. đòi hỏi phải dung hòa các mục tiêu chung
và toàn cầu với quyền lợi dân tộc của mỗi quốc gia. Phát triển bền vững đòi hỏi
phải thiết lập những quan hệ đối tác thực tiễn và hợp lý để song song tiến hành
chiến lược chung về phát triển bền vững và thực hiện các kế hoạch quốc gia.
(5) Tinh thần trách nhiệm và gánh chịu : Dự án phát triển bền vững là
một công cuộc phức tạp, không đặt ra khuôn khổ và những quy tắc mẫu mực rõ rệt
có tính bắt buộc. Chính sách và chương trình phát triển bền vững chờ đợi các đối
tượng thụ hưởng thể hiện tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật tự giác, khả năng gánh
chịu hậu quả nếu xẩy ra. Vì sự liên hệ giữa kinh tế, xã hội và môi trường và ảnh
hưởng của nó lên tất cả các khía cạnh của cuộc sống, phát triển bền vững còn đòi
hỏi hành động phải có cân nhắc và cẩn trọng với mục đích chính là để tránh gây cho
môi trường-môi sinh những hậu quả không đảo ngược được. Phát triển bền vững
còn một điều kiện nữa là khả năng kiểm tra kết quả hoạt động và phương tiện phòng
ngừa và sửa chữa tai biến.
(6) Giáo dục, huấn luyện và thông tin : Dự án phát triển bền vững, các
chương trình bảo vệ môi trường-môi sinh không thể tiến hành, có hiệu lực và có kết
quả nếu quần chúng không nhận thức đúng mức về yêu cầu phát triển kinh tế-xã
hội, không ý thức được tầm quan trọng của các vần đề và thử thách thời đại và
không chấp nhận những bắt buộc hoặc điều kiện của phát triển bền vững. Giáo dục,
huấn luyện và thông tin là những yếu tố không kém quan trọng so với các điều kiện
trước của phát triển bền vững.
Trái ngược với hiểu biết phổ biến, phát triển bền vững không chỉ đơn thuần
được hiểu là sự phát triển được duy trì một cách liên tục mà hơn thế, phát triển ở
đây là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng thái bền vững trên mọi lĩnh vực. Phát
triển bền vững không được coi là một mục tiêu được đặt ra để đạt được mà đó là
một quá trình duy trì sự cân bằng cơ học, đòi hỏi tính công bằng, sự phồn vinh, chất
lượng cuộc sống và tính bền vững của môi trường tự nhiên. Như vậy, nội dung phát
triển bền vững nhấn mạnh việc giải quyết các mâu thuẫn giữa lợi ích trước mắt và

lợi ích lâu dài, giữa phát triển kinh tế- chính trị và phát triển xã hội, giữa phát triển
kinh tế và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống của con người.
8
3. Đô thị và phát triển đô thị bền vững.
Đô thị là một hình thức cư trú văn minh của con người trong một không
gian- vật chất nhất định, ở đó cư dân sống tập trung với mật độ cao, lao động chủ
yếu phi nông nghiệp, cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, kinh tế- xã hội phát triển, có
vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của một vùng hoặc cả nước.
Phát triển đô thị theo nghĩa rộng, là quá trình mở rộng quy mô, nâng cao
trình độ hiện đại của các đô thị hiện có, xây dựng các đô thị mới và hình thành hệ
thống đô thị trong vùng hay cả nước. Hiện nay trên thế giới có nhiều lý thuyết và
quan điểm khác nhau về phát triển đô thị: thành phố sống tốt, thành phố toàn cầu,
thành phố phát triển bền vững, thành phố thông minh hơn… và nhiều cách đánh giá
khác nhau. Tuy có nhiều điểm khác biệt, nhưng nhìn chung khi nói đến phát triển
đô thị người ta đều luôn đề cập đến một sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, môi
trường và xã hội một cách bền vững với mục tiêu cuối cùng là đời sống cư dân đô
thị phải khá giả hơn lên, sống tiện nghi hơn và hạnh phúc hơn. Tất cả những tiêu chí
này nên là cơ sở tham khảo để có thể đề ra một triết lý phát triển đô thị sao cho có
sự hài hòa phù hợp giữa tiêu chí văn minh hiện đại với đặc điểm văn hóa Việt Nam.
Phát triển đô thị bền vững là sự cụ thể hoá của khái niệm “Phát triển bền
vững” vào lĩnh vực phát triển đô thị. Trên thực tế, khái niệm “phát triển đô thị bền
vững” rất đa dạng. Về quản lý hành chính đô thị, người ta nhấn mạnh đến mối quan
hệ giữa cơ quan công quyền và người dân, về môi trường thì nhấn mạnh đến thái độ
ứng xử của thế hệ hiện tại trong việc khai thác tài nguyên để dành lại cho các thế hệ
mai sau. Chưa kể mỗi quốc gia tùy theo từng đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội ở mỗi giai đoạn lại đưa ra những định nghĩa cũng như các tiêu chí riêng của
mình. Tuy nhiên, vấn đề chúng ta đặt ra ở đây là phát triển bền vững được áp dụng
như thế nào trong bối cảnh phát triển đô thị?
Dù cùng xuất phát từ khái niệm “Phát triển bền vững” của Brundtland, nhiều
nhà khoa học, dưới sự chi phối của lĩnh vực hoạt động của mình, đã đưa ra nhiều

khái niệm khác nhau về phát triển đô thị bền vững.
 Các nhà sinh thái đưa ra các tiêu chuẩn để phát triển đô thị bền vững như
sau:
9
- Phát triển nhà ở theo chiều cao để tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu và mặt
bằng;
- Bảo tồn địa hình địa mạo tự nhiên;
- Tránh xây dựng thành phố trong thung lũng vì đất ở đấy phì nhiêu và dễ
lở;
- Bảo vệ và phát triển cây xanh đô thị;
- Khuyến khích tiết kiệm nước;
- Hạn chế sử dụng phương tiện di chuyển có động cơ;
- Tái sinh vật liệu phế thải.
 Các nhà ngân hàng chú trọng đến lĩnh vực tài chính. Theo họ, phát triển
đô thị bền vững có 4 tiêu chí:
- Đảm bảo và phát triển khả năng cạnh tranh của thành phố;
- Đảm bảo cuộc sống của cư dân tốt hơn;
- Nền tài chính lành mạnh ( nguồn thu, các chính sách tài chính, nguồn
lực );
- Quản lý đô thị tốt.
 Các nhà nghiên cứu và quản lý chú trọng đến đường lối:
- Lấy chỉ tiêu HDI để đánh giá đô thị chứ không dựa vào quy mô dân số ,
kinh tế hay xây dựng như trước đây;
- Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị;
- Sự phối hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và quản lý.
 Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiên nêu ra những kinh nghiệm xây dựng đô
thị theo yêu cầu phát triển bền vững dựa trên kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang
Đức như sau:
- Đánh giá đô thị dựa trên chỉ tiêu chất lượng cuộc sống;
- Phát triển đô thị gắn chặt với phân vùng;

- Thành phần tham gia vào quy hoạch đô thị không chỉ có chính quyền, mà
còn có người tiêu dùng, người dịch vụ, nhà doanh nghiệp và đại diện các tổ chức xã
hội và tôn giáo;
10
- Chức năng của đô thị có tính chất toàn diện về kinh tế, xã hội, văn hóa và
quản lý, trong đó chức năng quản lý bao trùm, làm điều kiện thực hiện các chức
năng khác.
Những khái niệm và những định nghĩa trên thật là phong phú, thể hiện tính
đa chiều của một đô thị. Vì vậy, những thành tựu khoa học được ứng dụng nhằm
phát triển đô thị đòi hỏi một sự cẩn trọng, phải có một tầm nhìn tổng hợp, phối hợp
hài hòa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, nối liền hiện tại với tương lai, để cho
đô thị xứng đáng là nơi “làm việc, sống, nghỉ ngơi”.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ
BỀN VỮNG
1. Một số quan điểm phát triển đô thị bền vững.
Như đã phân tích ở trên, khái niệm “Phát triển đô thị bền vững” không nằm
ngoài khái niệm phát triển bền vững. Nội dung của khái niệm phát triển bền vững
được lồng trong khung cảnh đô thị. Có nhiều lý thuyết về phát triển đô thị, trong đó,
trước đây quan đỉêm áp đảo là lấy sự tăng trưởng kinh tế làm mục đích cho sự phát
triển. Lý thuyết này chi phối quá trình phát triển kinh tế và quá trình đô thị hoá
trong một giai đoạn của lịch sử phát triển đô thị.
Chính vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà có sự tập trung sản xuất công
nghiệp và thương mại. Những điều kiện đáp ứng cho sự tập trung đó là sự phát triển
kết cấu hạ tầng,nhà ở, các dịch vụ cho sản xuất. Quá trình phát triển đô thị lấy tăng
trưởng kinh tế làm trọng tâm đã đem lại các tiến bộ về mặt xã hội. Theo số liệu của
Liên Hợp Quốc, phát triển kinh tế đã đem lại kết quả như sau:
- Tuổi thọ con người đang ngày càng cao lên, rõ nhất là từ cách đây nửa thế
kỷ (Theo Huy Lê, “Tuổi thọ trung bình con người sẽ vượt qua 100 tuổi”, Viện
Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực, 18/10/2009).
- Tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi trên thế giới đã giảm khoảng 1/3 kể từ năm

1990 (Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công bố vào tháng 5 năm 2009, Nguồn:
Con người và thiên nhiên, http://
www.thiennhien.net/news/142/ARTICLE/8700/2009-06-01.html).
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm.
- Tỷ lệ dân cư được dung nước sạch tăng.
11
- Tỷ lệ nạn mù chữ cho người lớn giảm.
Dù có những kết quả trên, nhưng phát triển đô thị lấy kinh tế làm trọng tâm
thì chỉ chú ý đến những yêu cầu xã hội phục vụ cho tăng trưởng, sẽ làm cho đô thị
phát triển không cân bằng, có thể đưa đến những hậu quả nghiêm trọng như môi
trường bị ô nhiễm, vùng ven đô bị tàn phá, giao thông hỗn độn, tội phạm gia tăng…
Những vấn đề trên thường được gọi là “khủng hoảng đô thị”. Cuộc “khủng hoảng
đô thị” bắt con người phải thay đổi quan điểm và chiến lược về phát triển đô thị.
Quan điểm phát triển đô thị có mục tiêu là phát triển con người, là phát triển xã hội
đô thị dần dần chiếm ưu thế, song song với nó là sự phát triển của khái niệm phát
triển đô thị bền vững.
Tuy cùng xuất phát từ khái niệm phát triển bền vững, nhiều nhà khoa học,
nhiều nhà quản lý dưới sự chi phối của lĩnh vực hoạt động của mình, đã đưa ra
nhiều quan điểm khác nhau về phát triển đô thị bền vững. Nhà sinh thái học nhấn
mạnh đến việc bảo vệ môi trường, các nhà tài chính nói đến sự lành mạnh, trong
sáng của tài chính đô thị, các nhà quản lý chú trọng đến sự phối hợp cùng phát triển
đồng bộ giữa các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội và quản lý. Dù xuất phát từ nhiều
góc độ khác nhau, nhưng tất cả đều chung một quan điểm về mục tiêu con người, là
phát triển vì chất lượng sống của con người, để con người sống xứng đáng với cuộc
sống vô cùng quý báu của chính họ và cũng đảm bảo cho chất lượng sống của thế
hệ tương lai.
Với quan điểm phát triển đô thị bền vững này, con người thị dân, không
những là mục tiêu cho phát triển mà còn là động lực phát triển, hoàn thiện mối quan
hệ giữa cá nhân, xã hội với tự nhiên.
Tổng hợp kết quả thảo luận của nhiều nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội

trên thế giới, David C. Korten- là một nhà kinh tế người Mỹ, nguyên là giáo sư tại
Đại học Harvard University Graduate School of Business- đã đưa ra câu trả lời về
xã hội toàn diện và xã hội bền vững như sau:
- Xã hội toàn diện phải đảm bảo mọi người dân được quyền tham gia vào
các quyết định liên quan đến cuộc sống của họ và được quyền, cơ hội để được công
nhận và tôn trọng các đóng góp cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
12
- Xã hội bền vững tôn vinh sự thống nhất và đa dạng của cuộc sống. Nó bao
trùm các nghĩa vụ tự nhiên của xã hội con người để bảo vệ hạnh phúc các thế hệ
tương lai của tất cả các loài bằng cách duy trì sự tự nhiên của trái đất và công nhận
quyền của các loài khác cũng chia sẻ trong không gian sinh thái của hành tinh (Theo
David C. Korten, People- Centered Development Forum, http:// www.pcdf.
Org/about.html).
Và con người đi đến kết luận về một đô thị tốt, đạt tiêu chuẩn ngày nay là
phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: Trong sạch, rõ ràng, hiệu quả trong quản lý, có
điều kiện lựa chọn nơi ở cho mọi loại thu nhập, có các cơ hội và việc làm đầy đủ, có
điều kiện giải trí và nghỉ ngơi tốt, có môi trường trong sạch, có môi trường an toàn,
hệ thống giao thông tốt, hệ thống giáo dục tốt, dịch vụ y tế tốt.
Chiến lược phát triển đô thị phải đối mặt với vấn đề điều chỉnh quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và tăng chất lượng sống của thị dân. Phát triển đô thị bền vững
là một tiến trình, qua đó các thành viên của đô thị làm tăng được khả năng của cá
nhân và của các thiết chế của mình như cơ cấu, luật lệ, tập quán, giá trị hình thành,
thái độ và mối quan hệ của con người trong xã hội. Điều đó giúp huy động, quản lý
các nguồn lực tạo ra những thành quả bền vững và được phân phối công bằng nhằm
cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với cuộc sống của họ.
Quan điểm trên được đưa ra chủ yếu đứng dưới góc độ xã hội, ngoài ra còn
rất nhiều các quan điểm khác nhau về phát triển đô thị bền vững, trong đó phải kể
đến như sau:
• Nhận thức đầy đủ vai trò của công tác quy hoạch.
Quy hoạch phải được ưu tiên đi trước một bước để định hướng và đảm bảo

tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo chỉnh trang đô thị
(Theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Quân).
Tất nhiên, quy hoạch được nói đến ở đây phải là quy hoạch bền vững. Một
quy hoạch mà theo như ông Chu Tiểu Bình, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quy
hoạch miền Tây Trung Quốc mô tả: “Quy hoạch bền vững phải là quy hoạch đúng
mức bao gồm tiêu dùng đúng mức, sử dụng nguồn tài nguyên đúng mức, khai thác
sử dụng cảnh quan thiên nhiên đi đôi với bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, điều chỉnh
quy mô dân số và mật độ dân số thích hợp”.
13
Ngoài ra, quy hoạch phải không lãng phí tài nguyên đất và các tài nguyên
khác của thành phố, xây dựng hệ thống giao thông tiết kiệm, lấy giao thông công
cộng là chính, nâng cao hệ số sử dụng đất.
Quy hoạch cũng phải duy trì sự cân bằng trong hệ sinh thái, đảm bảo các
hoạt động sản xuất và sinh hoạt của đô thị trong giới hạn phạm vi dung lượng cho
phép của môi trường, không để ô nhiễm rồi mới xử lý. Quy hoạch theo hướng lâu
dài phải có không gian dự trữ cho phát triển đô thị sau này, hạn chế khai thác các
nguồn tài nguyên không thể tái sinh.
Riêng quy hoạch thiết kế đô thị phải tính tới địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh
vật của khu vực quy hoạch. Còn quy hoạch vùng là để xây dựng mối quan hệ hợp
tác giữa các đô thị trong vùng, để mỗi địa phương có thể phát huy thế mạnh của
mình, không xây dựng chồng chéo.
• Xác định tầm quan trọng của phát triển nông thôn, ngoại thành.
Nông thôn nói chung và ngoại thành nói riêng là vành đai chịu ảnh hưởng
trực tiếp của nội thành và là diện tích đất dự trữ để mở rộng và phát triển của nội
thành. Các vị trí để phát triển đô thị mới là vùng nông thôn, ngoại thành còn trống
vắng đô thị.
Nông thông, ngoại thành là vành đai xanh, bảo vệ môi trường và cân bằng
sinh thái. Phát triển nông thôn ngoại thành góp phần làm giảm áp lực dân só cho đô
thị trung tâm.
Cần nhận thức và có giải pháp đúng đắn để người nông dân rời khỏi hoạt

động sản xuất nông nghiệp nhưng không rời quê, góp phần làm giảm áp lực dân số
cho đô thị lớn.
• Thống nhất quan điểm và nội dung quản lý phát triển đô thị bền
vững.
Quản lý phát triển đô thị bền vững là sự tác động bằng các cơ chế, chính sách
cảu các chủ thể quản lý vào các hoạt động hình thành và phát triển đô thị nhằm làm
cho qua trình phát triển đô thị diễn ra bền vững.
Chủ thể quản lý quá trình phát triển đô thị là các cấp chính quyênd Nhà
nước. Các cấp chính quyền can thiệp bằng quyền lực (bằng cơ chế, pháp luật, thông
qua pháp luật) vào quá trình hình thành và phát triển đô thị.
14
Trong bối cảnh đô thị hoá đã trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia, các
địa phương thì quản lý quá trình phát triển đô thị đang là nhiệm vụ của chính quyền
địa phương. Không nên quan niệm rằng quản lý phát triển đô thị chỉ có ở các chính
quyền đô thị vì nông thôn Việt Nam đang phát triển theo hướng xây dựng nông thôn
mới, mà thực chất là đô thị hoá.
Công cụ quản lý quá trình đô thị hoá là luật pháp và những văn bản dưới luật
như Nghị định, chỉ thị, quy định, nội quy…
Nhà nước mà đại diện là các chính quyền ở các cấp thông qua các tổ chức,
các sở, ban ngành chức năng có vai trò quản lý toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã
hội ở đô thị, bằng pháp luật, thông qua pháp luật yêu cầu các tổ chức, cá nhân phải
tôn trọng những quy định chung của xã hội.
Đối tượng quản lý là các hoạt động đô thị. Nhà quản lý mong muốn quản lý
trên mọi lĩnh vực hoạt động có liên quan đến hình thành và phát triển đô thị, nhưng
nguồn lực cho quản lý luôn luôn có hạn, vì vậy cần có sự lựa chọn và giới hạn. Hơn
nữa, quản lý là hoạt động mang tính kinh tế, người ta cần tính đến sự hiệu quả của
công tác quản lý. Thực tế, những lĩnh vực hoạt động được coi là trọng tâm quản lý
đô thị bao gồm: 1. Quản lý quá trình sử dụng đất đai và phát triển nhà ở; 2.Xây
dựng và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng; 3. Tập trung dân số và lao động; 4. Tăng trưởng
và phát triển kinh tế; 5. Tổ chức giao thông và thông tin; 6. Bảo vệ môi trường tự

nhiên; 7. Đảm bảo tốt an ninh xã hội; 8. Tăng cường tài chính cho đô thị hóa.
• Xây dựng mô hình quản lý hiện đại.
Ngày 22-2, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số
222/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Thành phố Hà Nội
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Để thực hiện các mục tiêu phát triển, giải pháp đầu tiên được xác định trong
Chiến lược là đổi mới mô hình quản lý đô thị gắn với hoàn thiện thể chế. Đặc biệt là
đổi mới mô hình tổ chức bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hiện đại, hiệu
lực, hiệu quả, chuyển chức năng từ tập trung quản lý sang cung cấp dịch vụ; từng
bước áp dụng mô hình chính quyền đô thị. Đồng thời xây dựng chính quyền điện tử
đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế tri thức và phù hợp với tiến trình xây dựng chính
phủ điện tử của cả nước. Trước mắt, xây dựng và thực hiện các chương trình mục
15
tiêu như phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, quy hoạch cán bộ, đào tạo nhân
tài lãnh đạo - quản lý, doanh nhân, chuyên gia trình độ cao và đội ngũ cán bộ công
chức, viên chức chuyên nghiệp… Chiến lược cũng xác định cần hình thành được
thể chế phát triển thích hợp, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và thể chế xã hội phát triển trên cơ sở kết hợp pháp trị và đức trị.
• Không ngừng đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ cán bộ.
Bộ máy quản lý Nhà nước đối với đô thị là một bộ phận cấu thành nên bộ
máy Nhà nước, bao gồm hệ thống UBND các Thành phố, quận, phường, xã, thị trấn
và các cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý tất cả các lĩnh vực của đô thị. Đô thị
ngày càng phát triển, vai trò của bộ máy quản lý Nhà nước không ngừng được nâng
cao. Vì vậy, việc tổ chức bộ máy một cách khoa học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ quản lý các cấp chính quyền là công tác cần được tiến hành bài bản và
thường xuyên. Thực trạng bộ máy quản lý của Việt Nam hiện nay tổ chức chưa
khoa học, hiệu quả chưa cao, cán bộ chưa được đào tạo bài bản.
• Hướng tới xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ bền vững.
Công tác quản lý cần trả lời các câu hỏi cho từng đô thị của cả hệ thống như:
sự phát triển đô thị của ta hiện tại đã bền vững chưa, lĩnh vực nào, ngành nào

chưa/không bền vững… Để trả lời những câu hỏi này cần có một hệ thống các tiêu
chí/chỉ tiêu có khả năng lượng hóa cao với mức độ, tỷ lệ chỉ tính thiếu bền vững
trong từng lĩnh vực, từng ngành. Việc xây dựng hệ thống tiêu chí là rất cần và có
thể thực hiện được, nhưng vấn đề vận dụng hệ thống đó vào thực tế thì không đơn
giản, vì cần có nhân lực và kinh phí. Nhưng nếu chỉ đánh giá vấn đề chung chung
thì không có biện pháp cụ thể.
2. Những nguyên tắc phát triển đô thị bền vững.
Phát triển đô thị bền vững với mục tiêu phát triển hài hoà trên cơ sở đảm bảo
sự phù hợp giữa quy mô đô thị và khả năng quản lý, duy trì sự cân bằng cung và
cầu trong dài hạn trên các thị trường đô thị, đảm bảo sự cân bằng về môi trường
sinh thái. Để đảm bảo những yêu cầu trên, Chính phủ đã có Quyết định số
10/1998/QĐ-TTg ngày 23/1/1998 phê duyệt định hướng Quy hoạch tổng thể phát
triển đô thị Việt Nam đến năm 2020. Trong quyết định nêu rõ: “Từng bước xây
dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ
16
thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý trên
địa bàn cả nước, đảm bảo cho mỗi đô thị, theo vị trí và chức năng của mình, phát
huy được đầy đủ các thế mạnh, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc”.
Phát triển đô thị phải phục vụ cho mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, giữ vững phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đảm bảo an ninh, quốc
phòng và bảo vệ môi trường sinh thái, việc hình thành và phát triển các đô thị trong
cả nước. Có 7 nguyên tắc phát triển đô thị bền vững:
- Phát triển hệ thống đô thị phải phù hợp với sự phân bố và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất cả nước, tập trung xây dựng cơ sỏ kinh tế kỹ thuật vững
chắc làm động lực phát triển cho từng đô thị.
- Bố trí hợp lý các đô thị lớn, trung bình và nhỏ, tạo ra sự phát triển cân đối
giữa các vùng lãnh thổ, kết hợp đẩy mạnh ĐTH nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
- Có cơ sở hạ tầng đồng bộ với trình độ thích hợp hoặc hiện đại , tùy thuộc
vào yêu cầu khai thác và sử dụng các khu vực đô thị.

- Phát triển ổn định, bền vững, và trường tồn; trên nguyên tắc tổ chức hợp
lý môi sinh và bảo vệ môi trường.
- Kết hợp cải tạo với xây dụng mới; coi trọng giữ gìn bản sắc văn hóa và
truyền thống dân tộc với việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới để tiến
lên hiện đại.
- Phát triển đô thị gắn với củng cố an nình quốc phòng và an toàn xã hội.
- Huy động mọi nguồn vốn để cải tạo và xây dựng đô thị nhưng phải coi trọng
việc giữ gìn trật tự kỷ cương, tăng cường kiểm soát sự phát triển đô thị theo đúng quy
hoạch và pháp luật.
Từ 7 nguyên tắc phát triển đô thị bền vững đã được đặt ra, cùng với mục tiêu
và Quyết định của Chính phủ nêu trên, ta cụ thể hoá thành các nguyên tắc như sau:
(1) Lấy con người làm trung tâm của sự phát triển
Phát triển nào mà không phải vì con người, huống hồ là phát triển đô thị.
Nhưng trong thời phong kiến người ta xây cả một thành phố, một cung điện vì một
ông vua, một mỹ nữ, và ngày nay điều đó không phải là đã hết. Việc phát triển hẳn
cả một thành phố, một khu công nghiệp đôi khi chỉ vì một ý đồ chính trị của một
17
nhóm người cần chứng minh một điều gì đó. Việc mở một con đường hay nắn lại cả
một khu phố vì nơi đó có nhà mình, anh em bà con là chuyện không lạ.
Ở đất nước chúng ta, có nhiều vị lãnh đạo muốn để lại dấu ấn lịch sử đã ra
những quyết định phát triển hết sức lạ lùng và có phần bất thường. Thêm vào đó
nữa là những ápphe, những khoản tiền ma quỉ có thể làm xuất hiện những công
trình tai hại cho người dân mà hậu quả và tai tiếng xấu của nó còn hành hạ các thế
hệ mai sau. Những hiện tượng tham nhũng trong các dự án phát triển, các công trình
xây dựng nhà ở, các công trình kỹ thuật ở TP.HCM rõ ràng cho thấy nhiều quan
chức quan tâm đến phát triển cho chính họ hơn là cho cộng đồng.
(2) Cân bằng giữa mục tiêu phát triển kinh tế và môi trường tự nhiên
Mỗi thành phố hiện đại và hoành tráng ở nơi này chính là kết quả của sự tước
đoạt tài nguyên ở nơi khác mang đến, có khi là ở các quốc gia khác. Sau khi sử
dụng hết công năng và lấy đi hết giá trị sử dụng cần thiết từ gỗ, dầu mỏ, than đá ,

người ta thải ra khói bụi, rác thải công nghiệp, nước bẩn mà người được thừa hưởng
chủ yếu là những người dân sống ở ngoại thành của một thành phố.
Đổi lại sự hoành tráng của đô thị là sự tàn tạ và héo mòn của bà mẹ thiên
nhiên vĩ đại. Chính vì thế mà một trong số các nguyên tắc quan trọng nhất được nêu
ra cho phát triển bền vững là: “Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các
nhu cầu của các thế hệ trong tương lai”.
(3) Cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và xã hội
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ ngày 1-7-1997 làm cho một loạt các
nước châu Á bị thụt lùi khoảng 5-7 năm. Khởi đầu từ Thái Lan, phản ứng dây
chuyền dẫn tới các nước Indonesia, Singapore, Hàn Quốc Thái Lan đã vay tiền
của IMF, của Mỹ nhằm tập trung phát triển các dự án hạ tầng kỹ thuật khổng lồ,
hàng trăm tòa cao ốc mọc lên ở trung tâm thành phố với kỳ vọng sẽ kiếm lời từ việc
cho thuê văn phòng, nhà ở, nhưng điều mong ước này không trở thành hiện thực mà
đưa đến thảm họa do đến kỳ trả nợ mà các công trình chưa đưa vào khai thác hoặc
khai thác không hiệu quả. Đây là một ví dụ cho việc mất cân đối giữa phát triển
kinh tế và xã hội.
18
Việt Nam là một quốc gia nghèo nhưng tiền vay nợ cũng đến gần 30 tỉ USD,
tính ra mỗi đầu người dân từ già đến trẻ phải nợ nước ngoài khoảng 300 USD. Một
ví dụ rất điển hình là chúng ta đang sử dụng vốn ODA không hiệu quả, rất nhiều dự
án lớn vay tiền của WB nhưng hiệu quả kém mà không biết đến bao giờ mới trả nợ
được. Người ta còn đưa rất nhiều ví dụ khác như duy kinh tế coi nhẹ văn hóa và xã
hội, đưa đến khoảng cách giàu nghèo, xung đột xã hội, mâu thuẫn tôn giáo ngày
một gia tăng do chỉ tập trung sự quan tâm vào “tăng trưởng, tăng trưởng và tăng
trưởng”.
(4) Phát triển hài hòa giữa con người với công nghệ - kỹ thuật
Công nghệ - kỹ thuật mang lại cho cuộc sống chúng ta nhiều điều tốt đẹp,
nhưng cũng mang lại thật nhiều phiền toái. Đường cao tốc là thủ phạm của việc chia
rẽ và cách ly các cộng đồng dân cư cho dù họ không sống ở các hòn đảo giữa biển

khơi. Điện thoại làm cho thông tin nhanh hơn nhưng quan hệ của con người lại lỏng
lẻo hơn.
Công nghệ thực phẩm tạo ra các loại thức ăn nhanh giúp chúng ta tiết kiệm
thời gian nhưng bữa cơm gia đình dường như biến mất. Computer làm cho thế giới
nhỏ lại nhưng cũng chính nó khiến cuộc sống tẻ nhạt hơn. Mặt trái của công nghệ -
kỹ thuật hiện đại ngày càng bộc lộ làm cho chúng ta phải suy nghĩ và thận trọng
hơn trong việc sáng tạo và sử dụng nó trong cuộc sống.
(5) Đảm bảo phát triển đa văn hóa và đời sống đạo đức, tinh thần của
các nhóm người khác biệt nhau
Hầu như tất cả các thành phố lớn đều mang màu sắc của đa văn hóa. Đây là
điểm được coi là quan trọng nhất và cũng là đặc điểm lớn nhất của đô thị hiện đại,
đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại toàn cầu hóa. Bất cứ một thành phố nào cũng có
sự đa dạng và khác biệt về tôn giáo, dân tộc, quan điểm chính trị, phong tục tập
quán, thói quen văn hóa. Nếu người cầm quyền không đảm bảo được quyền phát
triển đa văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra xung đột. Cuộc nổi dậy của người nhập cư ở
Pháp kéo dài ba tuần tháng 1-2005 với 9.000 xe hơi bị đốt là một ví dụ điển hình
cho trường hợp này.
19
(6) Đảm bảo an ninh, hòa bình, trật tự và ổn định xã hội
Một thành phố giàu có, đầy ắp hàng hóa, đầy đủ tiện nghi nhưng con người
sống trong nó luôn cảm thấy bất an, tính mạng bị đe dọa, rủi ro cao, cuộc sống bấp
bênh thì đó không thể gọi là thành phố phát triển bền vững dưới bất kỳ khía cạnh
nào. Thành phố bền vững phải có trật tự kỷ cương xã hội, tinh thần thượng tôn pháp
luật được đề cao.
(7) Đảm bảo sự tham gia dân chủ của người dân trong tiến trình phát
triển đô thị
Một thành phố muốn phát triển bền vững thì phải được người dân ủng hộ và
chung tay đóng góp ở các lĩnh vực và cấp độ khác nhau. Công cuộc phát triển đô thị
phải có sự đóng góp và chia sẻ của tất cả mọi người từ vị thị trưởng đến người đạp
xích lô, người bán hàng rong. Để việc “đồng tham gia” thành công phải có cơ chế rõ

ràng và các điều kiện đảm bảo cho cơ chế ấy vận hành về mặt pháp lý, diễn đàn, cơ
sở vật chất. Những chương trình làm xanh thành phố, giảm ngập lụt, giảm tắc nghẽn
giao thông, phòng chống tội phạm chỉ có hiệu quả khi mà người dân coi đó là công
việc của mình chứ không phải của những nhà chính trị.
(8) Công bằng xã hội trong đời sống kinh tế
Công bằng là một mục tiêu và tiêu chí quan trọng về khía cạnh xã hội của
phát triển đô thị bền vững. Chắc chắn là có mức thu nhập khác nhau, hình thành nên
các nhóm người giàu nghèo khác nhau trong một thành phố bất kỳ nào đó.
Nhưng trong một đô thị được coi là phát triển bền vững thì mọi người phải
được bình đẳng trong khi tiếp cận các cơ hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, tìm
kiếm việc làm, cải thiện đời sống, cư trú. Những người thuộc nhóm yếu thế hay “dễ
tổn thương” như người già cô đơn, trẻ em mồ côi, phụ nữ đơn thân, đông con, người
tật nguyền phải được quan tâm đúng mức. Mọi người trong xã hội phải được bảo
đảm bằng các loại quĩ phúc lợi xã hội để không bao giờ bị rơi xuống đáy xã hội trở
thành tội phạm hay tự tử.
(9) Đảm bảo hài hòa giữa các thế hệ
Trong một thành phố, nhất là những thành phố có nhiều tuổi, sẽ có rất nhiều
thế hệ chung sống với nhau. Không phải bao giờ và lúc nào mối quan hệ giữa các
20
thế hệ cũng tốt đẹp. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các thành phố chuyển đổi từ
một xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội hiện đại.
Các giá trị xã hội truyền thống và cổ truyền của thế hệ lớn tuổi rất dễ bị tổn
thương với những giá trị xã hội hiện đại mà thế hệ trẻ tiếp thu được từ bên ngoài.
Một ví dụ điển hình và dễ thấy nhất là sự đổ vỡ khi chuyển từ gia đình kép (nhiều
thế hệ, đông con) sang kiểu gia đình hạt nhân ở VN trong những năm qua.
(10) Phát triển không gian hợp lý
Qui hoạch đô thị thực chất là việc bố trí và phân bổ con người cùng với khối
lượng vật chất đồ sộ trên một bề mặt không gian ba chiều. Việc phân bổ này có thể
làm cho thành phố phát triển bình thường hay bất bình thường, làm cho hoạt động
sản xuất, sinh hoạt trở nên thăng bằng hay mất ổn định.

Việc qui hoạch và thiết kế đô thị sai lầm đã làm cho TP.HCM ngập nước
không chỉ vào mùa mưa mà cả vào mùa khô. Việc không tập trung phát triển giao
thông cách đây hơn 15 năm đã để lại hậu quả nghiêm trọng là các công sở, trường
học không muốn ra bên ngoài khiến cho mật độ trong khu vực trung tâm thành phố
ngày càng cao, phát triển kiểu nhà ống dọc theo trục đường khiến tai nạn giao thông
ngày càng trở nên khủng khiếp.
(11) Phát triển cân đối đô thị - nông thôn
Năm 2006 ở Trung Quốc được gọi là năm “phát triển nông thôn”, suy cho
cùng bài toán phát triển bền vững ở đô thị lại có nguồn gốc từ nông thôn. Sự phát
triển mạnh mẽ ở nông thôn không chỉ hỗ trợ cho đô thị phát triển như cung cấp
lương thực thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm công nghiệp do đô thị tạo ra, mà còn làm
giảm áp lực lên đô thị.
Một khi nông thôn phát triển mạnh thì người nhập cư về thành phố giảm, lực
lượng lao động thanh niên sẽ ở lại nông thôn, sự cân bằng trong phát triển giữa hai
khu vực là bài toán rất quan trọng cho sự phát triển bền vững. Chính phủ Việt Nam
đang cố gắng phát triển “điện, đường, trường, trạm, chợ” ở các vùng sâu, vùng xa
nhưng hiệu quả còn hạn chế do nhiều lý do khác nhau.
21
III. PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Đánh giá tình hình phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam hiện nay
Trong vòng 15 năm qua, với nỗ lực hoạt động của toàn xã hội, đô thị Việt
Nam đã có sự phát triển không ngừng và đạt nhiều thành tựu đáng kinh ngạc.
Hệ thống đô thị quốc gia đã có sự chuyển biến tích cực cả về lượng cũng như
về chất. Mạng lưới đô thị quốc gia đã và đang được phát triển, mở rộng từ 629 đô
thị (năm 1999), đến nay, cả nước có 755 đô thị, trong đó có hai đô thị loại đặc biệt
là Thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 30,5%, tăng bình
quân khoảng 3,4%/năm. Theo tổng điều tra dân số tháng 4/2009, cả nước có 85,8
triệu người, trong đó có 25,4 triệu dân đô thị, chiếm 29,6% dân số cả nước. Đến
tháng 8/2011, dân số đô thị tăng lên hơn 38 triệu người,chiếm hơn 43% dân số cả
nước, trong đó dân số nội thị là hơn 27 triệu người, chiếm hơn 31%.

Tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị trung bình đạt từ 12-15%, cao gấp 1,5-
2 lần so với mặt bằng chung trong cả nước. Năm 2007-2009 đạt khoảng từ 8 - 10%.
Hiện nay nguồn thu đô thị, nhất là của các thành phố lớn chiếm tỷ lệ 70% trong cơ
cấu GDP cả nước. Tại một số đô thị lớn, GDP bình quân đầu người đạt trên 1500
USD như Hà Nội khoảng 1500 USD/năm, Nha Trang 1779 USD/năm… Sự phát
triển kinh tế đô thị đã và đang tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động, góp
phần quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển chung của xã hội.
Sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã đem lại những nguồn lực quan
trọng cho việc xây dựng và cải tạo chỉnh trang diện mạo của các đô thị. Kiến trúc và
cảnh quan đô thị đã được các chính quyền đô thị quan tâm đầu tư phát triển với sự
xuất hiện ngày càng nhiều các quần thể kiến trúc, mảng đô thị hiện đại, ứng dụng
công nghệ thiết kế, xây dựng tiên tiến của thế giới. Tại nhiều đô thị đã và đang xuất
hiện các công trình kiến trúc cao tầng là những điểm nhấn kiến trúc đô thị có chất
lượng cao. Đi đôi với việc đầu tư xây dựng các khu đô thị mới hiện đại, đồng bộ thì
công tác cải tạo, chỉnh trang đô thị và bảo tồn các giá trị di sản kiến trúc đô thị đã
được coi trọng, góp phần duy trì và tạo dựng bản sắc của từng đô thị.
Chất lượng cuộc sống người dân đô thị đang từng bước được cải thiện thông
qua sự đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng tại các đô thị. Năm 1999, diện tích nhà ở bình
quân quân đầu người đạt 6m
2
đến nay đã tăng gấp đôi đạt 12 m
2
. Mô hình đầu tư
22
phát triển các khu đô thị mới đồng bộ đã được nghiên cứu nhân rộng tại nhiều địa
phương trong cả nước, sử dụng có hiệu quả quỹ đất dành cho phát triển đô thị, đồng
thời từng bước giải quyết nhu cầu rất lớn của xã hội về nhà ở. Hệ thống công trình
hạ tầng kỹ thuật và xã hội đô thị như hệ thống giao thông, cấp nước, thoát nước,
chiếu sáng, cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn, công trình phúc lợi công cộng
và nhà ở của các đô thị được đầu tư xây dựng, cải tạo và phát triển khá nhanh, tạo

nên bộ khung cơ bản để các đô thị phát triển. Về cấp nước sạch, thời điểm năm
1999 Việt Nam vẫn còn hơn 70% dân đô thị sử dụng nước không đảm bảo vệ sinh,
đến nay bình quân trên cả nước 73% dân cư đô thị đã được cấp nước sạch. Chất
lượng phục của giao thông công cộng tại các đô thị, các vùng và trên cả nước ngày
càng tốt hơn. Hiện nay nhiều địa phương đang tập trung nguồn vốn ODA để đầu tư
xây dựng và phát triển giao thông công cộng đô thị như dự án đường sắt trên cao tại
Hà Nội, dự án tầu điện ngầm tại thành phố Hồ Chí Minh, các tuyến giao thông
huyết mạch, tuyến vành đai các đô thị lớn, cầu qua sông v.v. Vấn đề cải thiện điều
kiện môi trường đô thị cũng đã được chính quyền đô thị quan tâm. Một số đô thị đã
có nhà máy hoặc trạm xử lý nước thải được đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động. Tỉ
lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt bình quân cả nước đạt khoảng 80%. Chúng ta đã
có 3 công nghệ trong nước xử lý chất thải rắn sinh hoạt đã được Bộ Xây dựng cấp
giấy chứng nhận: SERAPHINE, ANSINH-ASC, MBT-CD. Cấp điện và chiếu sáng
đô thị được cải thiện rõ rệt. 90% các tuyến đường trục chính cấp đô thị từ các đô thị
loại 3 trở lên được chiếu sáng. Dịch vụ cung cấp thông tin liên lạc phát triển nhanh
chóng phục vụ tích cực cho các yêu cầu đặt ra của sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong 15 năm qua, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn phát triển xã hội,
Quốc hội, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các Bộ ngành đã và đang từng bước hoàn
thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực xây dựng và phát triển
đô thị, trong đó nhiều văn bản Luật lần đầu tiên đã được nghiên cứu, xây dựng và
ban hành như Luật Xây dựng năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Kinh doanh
bất động sản năm 2006 và đặc biệt là Luật Quy hoạch đô thị vừa được Quốc hội
thông qua tháng 6 năm 2009. Các văn bản Luật và hệ thống văn bản dưới Luật đã
thường xuyên được rà soát, điều chỉnh để từng bước đi vào cuộc sống, góp phần
23
quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thông thoáng, hướng tới sự phát
triển bền vững hệ thống đô thị Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ của công tác phát
triển đô thị trong những năm vừa qua, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận
nhiều vấn đề còn tồn tại.

Theo định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam
đến năm 2020, quy mô đô thị từ mức 19 triệu người, diện tích 1.140km
2
năm 2000
sẽ tăng lên 30,4 triệu người và diện tích 2.432km
2
vào năm 2010, 40 triệu người và
diện tích 4.600km
2
(chiếm 45% dân số và 1,4% diện tích cả nước) vào năm 2020.
Có thể nhận thấy, Việt Nam có tốc độ đô thị quá nhanh. Theo lời Bộ trưởng Bộ
Xây dựng Nguyễn Hồng Quân, tính chung cả nước hiện nay cứ mỗi tháng lại có
thêm một khu đô thị mới. Với tốc độ phát triển như vậy, trong khi quản lý lại chưa
theo kịp, chắc chắn khiến chất lượng đô thị thấp. Ở Việt Nam, cả ba thành phố
Hà Nội, Thừa Thiên Huế và TPHCM đều có một ý nghĩa vô cùng quan trọng: một
là thủ đô, một là thành phố di sản và một là trung tâm kinh tế của cả nước. Thế
nhưng, một trong những điểm chung của cả ba thành phố đó là đang đứng trước
nguy cơ phát triển không bền vững.
Thứ nhất, công tác lập quy hoạch xây dựng đô thị nhìn chung đã được quan
tâm triển khai, nhưng vẫn bộc lộ nhiều thiếu sót. Trong cả nước đã có 9 đồ án quy
hoạch vùng được Chính phủ phê duyệt, 59/63 tỉnh, thành phố có quy hoạch vùng
tỉnh, phục vụ việc quản lý sự phát triển mạng lưới đô thị của các địa phương. Tất cả
các đô thị từ loại IV trở lên đều đã có quy hoạch chung xây dựng được phê duyệt.
Tuy nhiên, tỷ lệ phủ kín quy hoạch chi tiết tại các đô thị của cả nước còn thấp. Tỷ lệ
trung bình trong cả nước hiện nay là khoảng 45%, không đồng đều giữa các đô thị
và vùng miền. Điều đó có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư, bố trí nguồn lực
phát triển cũng như công tác quản lý xây dựng đô thị theo quy hoạch.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng và đô thị hoá cao tại phần lớn các đô thị đã dẫn
đến sự mất cân đối trong khả năng đáp ứng của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô
thị. Mặc dù việc cấp nước sạch đã được cải thiện đáng kể nhưng tỷ lệ thất thoát thất

thu nước bình quân vẫn cao 20– 30%, vừa gây thất thoát nguồn tài nguyên quan
trọng vừa giảm nguồn thu cho ngân sách.
24
KTS Phan Thị Mỹ Linh - Cục trưởng Cục phát triển đô thị - Bộ Xây dựng
đánh giá: “Nếu so sánh với GDP bình quân các khu vực đô thị của các nước Đông
Nam Á và châu Á thì tăng trưởng của đô thị Việt Nam còn thấp, kém cạnh tranh so
với các đô thị khu vực và thế giới”. Bà Linh chỉ ra rằng, hiện tượng ùn tắc, tai nạn
giao thông vẫn là mối lo ngại tại các đô thị lớn, tỷ lệ đất giao thông, tỷ lệ dân đô thị
được cấp nước còn thấp, thất thoát nước còn lớn, trong khi tình trạng ngập úng cục
bộ trong mùa mưa, ô nhiễm môi trường chậm được khắc phục…
Trong khi việc đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị còn nhiều vướng mắc thì
sự mọc lên “chóng mặt” các tòa cao ốc giữa nội đô, đã góp phần “đẩy” tình trạng
giao thông trên địa bàn thành phố vào tình trạng quá tải như hiện nay.Vào giờ cao
điểm như đầu buổi sáng, cuối buổi chiều, quan sát tại các điểm tiếp giáp giữa đường
giao thông và lối ra vào các tòa cao ốc, phương tiên giao thông luôn bị dồn nén cục
bộ. Ở Thành phố Hà Nội, chỉ khoảng 200m từ ngã tư Nguyễn Chí Thanh - Đê La
Thành đến ngã ba Nguyễn Chí Thanh - Huỳnh Thúc Kháng có đến 5 tòa cao ốc, tòa
cao nhất 31 tầng, tòa thấp nhất cũng đến 16 tầng. Trong đó, riêng tại tòa nhà 71
Nguyễn Chí Thanh - tòa nhà được coi là “khiêm tốn” về diện tích với chiều cao 26
tầng cũng đã có tới 200 căn hộ, đó là chưa kể đến một diện tích sàn lớn dùng cho
thuê văn phòng, trung tâm giao dịch… Những người dân sống quanh khu vực này
cho rằng, chính sự xuất hiện của các tòa cao ốc đã làm đảo lộn tình trạng giao thông
ở đây.
Tiến sĩ Khuất Việt Hùng, Viện trưởng Viện Quy hoạch và quản lý giao thông
vận tải cho rằng, tác động từ các toà cao ốc đối với giao thông là rất lớn, nhưng thực
tế này chưa được những nhà quy hoạch nhìn nhận đúng mức. Ông viện dẫn, trên thế
giới, với những công trình xây dựng từ 5.000 m
2
sàn trở lên đều có quy định đánh
giá về tác động giao thông. Vậy, những nhà quy hoạch của thành phố Hà Nội có

biết những quy định mang tính khoa học này?
Tác động từ các tòa cao ốc đối với tình trạng ùn tắc giao thông ở Hà Nội nói
riêng và các thành phố lớn nói chung là điều không khó nhìn thấy. Năm 2009,
Thành phố Hà Nội đã có Quyết định về việc ngừng cấp phép xây dựng nhà cao tầng
trong khu vực nội đô. Nhưng thực tế, nơi này, nơi kia vẫn có những tòa nhà cao
tầng mọc lên. Chính vì vậy, vấn đề quy hoạch đô thị sẽ còn gặp nhiều bất cập.
25

×