Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

An ninh lương thực của việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.97 KB, 22 trang )

An ninh lƣơng thực của Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập Kinh tế Quốc tế
Vietnam’s food security in the context of international economic integration
NXB H. : ĐHKT, 2012 Số trang 100 tr. +


Lê Anh Thực


Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội; Trƣờng Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế; Mã số: 60 31 07
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Hội
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Phân tích rõ nội hàm của an ninh lƣơng thực hiện nay; chỉ ra những yếu tố tác
động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đến an ninh lƣơng thực quốc gia. Phân
tích, đánh giá tình hình an ninh lƣơng thực ở Việt Nam thời gian qua. Dự báo và đề xuất
một số định hƣớng giải pháp: Thúc đẩy sản xuất và nâng cao năng suất trong sản xuất nông
nghiệp; Ổn định diện tích đất canh tác; Chú trọng việc đào tạo nghề, tạo việc làm cho ngƣời
nông dân bị mất đất nông nghiệp; Chủ động đề phòng, khắc phục những ảnh hƣởng của biến
đổi khí hậu và dịch bệnh; Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn; Tăng cƣờng năng lực dự trữ
lƣơng thực và cải thiện hiệu quả chuỗi cung ứng nông nghiệp; Nâng cao nhận thức của
ngƣời dân nói chung và nông dân nói riêng về an ninh lƣơng thực góp phần đảm bảo an ninh
lƣơng thực của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Keywords: Kinh tế đối ngoại; An ninh lƣơng thực; Hội nhập kinh tế; Việt Nam

Content.

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu


Ngƣời xƣa nói: “Dân dĩ thực vi tiên” - tức dân lấy ăn làm đầu, cái ăn hay lƣơng thực luôn là nhu cầu
thiết yếu trƣớc tiên của con ngƣời. Đảm bảo lƣơng thực cho ngƣời dân luôn là vấn đề trƣớc mắt cũng
nhƣ lâu dài cho mọi quốc gia, trong mọi thời đại. Bƣớc sang những thập niên đầu của thiên nhiên kỷ
thứ 3, trong bối cảnh toàn cầu hóa (TCH) và hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT), nhiều quốc gia
vẫn đang phải đối mặt với vấn đề đảm bảo an ninh lƣơng thực - nhân tố hàng đầu đảm bảo ổn định
và phát triển xã hội, một nội dung quan trọng trong an ninh kinh tế quốc gia. An ninh lƣơng thực
ngày càng “nóng” lên, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia và cộng đồng thế giới khi thế giới mới
trải qua cuộc khủng hoảng lƣơng thực năm 2008 và hiện nay giá lƣơng thực lại đang có xu hƣớng
tăng lên. Với 1/5 dân số thế giới trong diện đói nghèo ở nhiều quốc gia, nhất là các nƣớc đang phát
triển với biểu hiện là không đáp ứng đƣợc nhu cầu lƣơng thực hiện vẫn là vấn đề lớn của thế giới
hiện nay.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ là hai mặt của quá trình phát triển thế giới,
có tác động ảnh hƣởng đến các quốc gia, các lĩnh vực của thế giới, trong đó có an ninh lƣơng thực ở
cấp độ quốc gia và toàn cầu. Chính bối cảnh hiện nay, đòi hỏi các quốc gia cần phải giải bài toán an
ninh lƣơng thực trong sự tác động ảnh hƣởng tổng thể của quá trình phát triển thế giới.
Quá trình hình thành dân tộc Việt Nam gắn liền với sản xuất lúa nƣớc lâu đời, hình thành nên một
quốc gia nông nghiệp và ông cha ta đã đúc kết một chân lý: “phi nông bất ổn”. Đảng ta từ khi ra đời,
lãnh đạo cách mạng đã rất quan tâm đến vấn đề nông nghiệp và nông dân, đến đảm bảo lƣơng thực
cho nhân dân. Quá trình đổi mới hơn 25 năm qua, nƣớc ta đã thu đƣợc nhiều thành tựu to lớn trên các
lĩnh vực, trong đó nổi bật là thành tựu xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc gia
đồng thời duy trì vị thế của nƣớc xuất khẩu gạo hàng đầu góp phần đảm bảo an ninh lƣơng thực của
thế giới. Tuy nhiên, đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc gia còn có những hạn chế, nhƣ an ninh lƣơng
thực còn thiếu bền vững khi còn có sự chênh lệch về tiếp cận lƣơng thực giữa các nhóm và giữa một
số vùng của đất nƣớc; sản xuất lƣơng thực chịu tác động từ tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu và
các cú sốc từ thị trƣờng lƣơng thực thế giới; yêu cầu phát huy lợi thế so sánh từ địa vị quốc gia xuất
khẩu gạo hàng đầu để gia tăng năng suất và thu nhập cho ngƣời sản xuất lƣơng thực .v.v…Trong bối
cảnh đó, một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam cần phải đƣợc giải quyết thấu đáo, đặc biệt trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ hiện nay:
1) Tại sao an ninh lương thực lại là vấn đề cấp bách đối với mọi quốc gia trong bối cảnh hiện nay?
2) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến an ninh lương thực thế giới nói chung và an ninh lương thực

của Việt Nam nói riêng?
3) Tình hình an ninh lương thực của Việt Nam hiện nay như thế nào?
4) Việt Nam cần phải làm gì để đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế?
Những vấn đề trên đang đặt ra cho Việt Nam những câu hỏi cần lời giải đáp. Do đó, nghiên cứu một
cách hệ thống về lý luận an ninh lƣơng thực, về thực trạng an ninh lƣơng thực thế giới và Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, từ đó đƣa ra
kiến nghị, giải pháp góp phần đảm bảo an ninh lƣơng thực của Việt Nam là vấn đề cần thiết và cấp
bách.
Xuất phát từ các lí do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “An ninh lương thực của Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” để làm luận văn Cao học ngành Kinh tế đối ngoại.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
An ninh lƣơng thực đƣợc nhiều chính phủ, các tổ chức quốc tế và các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nƣớc quan tâm dƣới các góc độ và cấp độ khác nhau: 1) Trong Báo cáo phát triển con ngƣời
năm 1994 của Liên Hợp quốc (UNDP) với chủ đề: “Những khía cạnh mới của an ninh con người” đã
tiếp cận an ninh con ngƣời với nội hàm bao gồm an ninh lƣơng thực. 2) Báo cáo phát triển con
ngƣời năm 2005 của Liên Hợp quốc (UNDP) với chủ đề: “Hợp tác quốc tế trong thời điểm quyết
định: viện trợ, thương mại và an ninh trong một thế giới không bình đẳng” đã chỉ ra những cản trở,
bất bình đẳng của thƣơng mại trong nông nghiệp hiện nay đối với các nƣớc đang phát triển, từ đó tác
động đối với sản xuất lƣơng thực và đảm bảo thực hiện mục tiêu an ninh lƣơng thực trên thế giới. 3)
Trong Báo cáo phát triển thế giới năm 2008 của Ngân hàng thế giới với tiêu đề: “Tăng cường nông
nghiệp cho phát triển” đã chỉ ra vai trò của nông nghiệp với đảm bảo an ninh lƣơng thực, các giải
pháp phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần đảm bảo an ninh lƣơng thực ở cả
cấp độ toàn cầu, quốc gia và hộ gia đình. 4) Các học giả Trung Quốc, Vƣơng Dật Châu và cộng sự
(1999) trong cuốn sách “An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa” đã đề cập đến nội dung của an
ninh lƣơng thực dƣới góc độ là bộ phận quan trọng của an ninh kinh tế, đề ra tác động của toàn cầu
hóa đối với an ninh lƣơng thực của Trung Quốc. 5) Các nhà nghiên cứu Việt Nam nhƣ Nguyễn Xuân
Thắng và cộng sự (2006) trong cuốn sách: “Chênh lệch phát triển và an ninh kinh tế ở ASEAN” trên
cơ sở hệ thống khái niệm an ninh kinh tế theo cách tiếp cận phi truyền thống đã chỉ ra biểu hiện và
cấu thành của an ninh kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa gắn với nhiều tiêu chí trong đó có làm rõ

nội hàm của an ninh lƣơng thực, dấu hiệu chính để xác định an ninh lƣơng thực, hệ thống giám sát
đảm bảo an ninh lƣơng thực và nguyên nhân của bất ổn an ninh lƣơng thực. 6) Trong quyển sách
“Kinh tế Việt Nam năm 2008” và 7) Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội (8/2008) của các
tác giả Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ƣơng, đã đề cập đến sản xuất lúa gạo và vấn đề an
ninh lƣơng thực ở Việt Nam, trong đó khái quát thành tựu của Việt Nam trong sản xuất và tiêu thụ
lúa gạo thời kỳ đổi mới, thực trạng của sản xuất lúa gạo hiện nay gắn với yêu cầu đảm bảo an ninh
lƣơng thực, đề xuất giải pháp đối với sản xuất lúa gạo gắn với đảm bảo an ninh lƣơng thực trong hội
nhập WTO. 8) Trong quyển sách “Thành viên WTO thứ 150 – bài học từ các nước đi trước” của
Nguyễn Văn Thanh đã phân tích những tác động đƣợc – mất trong lĩnh vực nông nghiệp khi là thành
viên WTO là các quốc gia đang phát triển. Một số bài viết bằng Tiếng Anh trong thời gian gần đây
đề cập đến an ninh lƣơng thực của Việt Nam trong mối quan hệ với phát triển nền kinh tế, nhƣ 9)
Nguyen Van Ngai (2010): “food security and economic development in Vietnam”; 10) Kazunari
Tsukada (2007): “Vietnam: food security in a rice – exporting country”, đề cập đến vấn đề mà Việt
Nam phải đối mặt, đó là vừa phải đảm bảo gạo an toàn cho thị trƣờng trong nƣớc vừa phải cải thiện
thu nhập cho ngƣời nông dân trồng lúa bằng việc gia tăng xuất khẩu gạo, từ đó phân tích và rút ra bài
học từ thực tế Việt Nam. Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng tải trên các trang web ở trong và ngoài
nƣớc của các tác giả đề cập đến nội dung liên quan đến an ninh lƣơng thực.
Những tài liệu nêu trên thật sự bổ ích, sẽ đƣợc tác giả nghiên cứu sử dụng làm cơ sở khoa học
cho việc triển khai đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích tình hình an ninh lƣơng thực của thế giới và Việt
Nam trong bối cảnh TCH và HNKTQT từ đó đƣa ra giải pháp, kiến nghị đảm bảo an ninh lƣơng thực
của Việt Nam.
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Phân tích rõ nội hàm của an ninh lƣơng thực hiện nay; chỉ ra những yếu tố tác động của toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đến an ninh lƣơng thực quốc gia .
- Phân tích, đánh giá tình hình an ninh lƣơng thực ở Việt Nam thời gian qua.
- Dự báo và đề xuất một số định hƣớng giải pháp góp phần đảm bảo an ninh lƣơng thực của
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài luận văn là an ninh lƣơng thực của Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: từ năm 1998 đến nay. Đây là mốc thời gian Việt Nam hội nhập sâu rộng vào khu
vực và thế giới.
- Về không gian và nội dung:
+ An ninh lƣơng thực, an ninh năng lƣợng, các cân đối vĩ mô… là các nội dung của An ninh kinh
tế. Luận văn chỉ tìm hiểu một khía cạnh của an ninh kinh tế đó là an ninh lƣơng thực, nhƣng cũng có
phân tích mối liên hệ của các nội dung của an ninh kinh tế.
+ Do an ninh lƣơng thực là vấn đề toàn cầu không chỉ là quốc gia, nên luận văn khái quát tình
hình an ninh lƣơng thực trên thế giới, chỉ ra các tác động của bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế đối với an ninh lƣơng thực. Đi sâu phân tích thực trạng an ninh lƣơng thực của Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác
– Lênin để nghiên cứu an ninh lƣơng thực trong sự vận động, phát triển và liên hệ với các yếu tố tác
động ảnh hƣởng của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; đánh giá về an ninh lƣơng thực trên
quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển; tìm ra bản chất của an ninh lƣơng thực quốc gia
để chủ động đề ra giải pháp ứng phó.
Sử dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống để nghiên cứu an ninh lƣơng thực của Việt Nam trong
an ninh lƣơng thực của thế giới, trong sự tƣơng tác, liên quan từ các yếu tố tác động của bối cảnh
toàn cầu và các yếu tố liên quan trong nƣớc.
Luận văn cũng sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ: phân tích tài liệu, số liệu; phƣơng pháp so
sánh; phƣơng pháp thống kê số liệu; phƣơng pháp tổng hợp; phƣơng pháp trao đổi với chuyên gia.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ khái niệm an ninh kinh tế, trong đó có khái niệm an ninh lƣơng thực ở các cấp độ.
- Luận giải sự cần thiết phải đảm bảo an ninh lƣơng thực trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp góp phần đảm bảo an ninh lƣơng thực của Việt Nam.

7. Bố cục của luận văn

Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về an ninh lƣơng thực trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chƣơng 2: Tình hình an ninh lƣơng thực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chƣơng 3: Dự báo và một số giải pháp đảm bảo an ninh lƣơng thực của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƢƠNG 1 .
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ AN NINH LƢƠNG THỰC TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm và vai trò của an ninh lƣơng thực
1.1.1. Khái niệm an ninh kinh tế và an ninh lƣơng thực
1.1.1.1. Khái niệm an ninh kinh tế
Bối cảnh quốc tế trong thập niên cuối của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI, với sự phát
triển nhƣ vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, xu thế hợp tác, phát triển gia tăng và
nhất là xu hƣớng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ đã làm cho vấn đề an ninh kinh
tế ngày càng trở nên cấp thiết đối với mọi quốc gia, dân tộc.
Hiện có nhiều dịch nghĩa về an ninh kinh tế theo các hƣớng và góc độ khác nhau. Các quan niệm trên
có điểm chung là đều chỉ ra yêu cầu về sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế quốc gia nhƣ
là đặc trƣng biểu hiện của an ninh kinh tế. Vấn đề an ninh kinh tế chắc chắn đã chiếm vị trí trung tâm
trong lĩnh vực an ninh quốc tế và an ninh quốc gia hiện nay, và sẽ chỉ đạo hƣớng đi của an ninh quốc
tế trong thế kỷ sau cũng nhƣ việc chế định chiến lƣợc an ninh của các nƣớc.
1.1.1.2. Khái niệm an ninh lương thực
Theo Tổ chức Nông nghiệp và Lƣơng thực thuộc Liên Hợp quốc (FAO) (2002) trong Trade reform
and security food, hiện nay có đến hơn 200 định nghĩa về an ninh lƣơng thực, mỗi cách tiếp cận đều
đƣa ra một quan niệm về an ninh lƣơng thực [17]. Vì thế khái niệm này đƣợc diễn giải theo nhiều
cách khác nhau. Các nhà nghiên cứu cho rằng, bất cứ khi nào quan niệm an ninh lƣơng thực đƣợc đề
cập đến trong tiêu đề của một nghiên cứu thì nên đƣa ra các định nghĩa rõ ràng hoặc ngầm định cho
sát với thực tế.
An ninh lƣơng thực là một khái niệm với nhiều cấp độ tiếp cận, nhiều cách nhìn khác nhau. Xuất
phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn với cách tiếp cận an ninh lƣơng thực ở cấp độ quốc
gia, trên cơ sở kế thừa các quan niệm về an ninh lƣơng thực của các học giả và tổ chức trong và

ngoài nƣớc, luận văn thống nhất quan niệm về an ninh lương thực của Việt Nam là việc có đầy đủ, ổn
định lương thực cho toàn dân trên phạm vi toàn quốc cả trước mắt và lâu dài để không ai bị đói và
mọi người đều được hưởng cuộc sống năng động và khoẻ mạnh.
1.1.2. Quan hệ giữa an ninh lƣơng thực, an ninh kinh tế và an ninh quốc gia
Khi đề cập đến nội hàm của an ninh kinh tế, đa số các học giả hiện nay đều xác định một trong
những bộ phận quan trọng là an ninh lƣơng thực.
Bên cạnh đó, an ninh lƣơng thực và an ninh quốc gia cũng giống nhƣ hai anh em song sinh. Khủng
hoảng lƣơng thực: giá lƣơng thực tăng cao, nguồn cung lƣơng thực không đủ, lập tức ảnh hƣởng tới
đời sống sinh hoạt hàng ngày của mọi ngƣời. Sự thiếu đói về lƣơng thực, dẫn đến sự phản đối của
nhiều tầng lớp dân chúng, ảnh hƣởng đến an ninh, chính trị quốc gia.
Nhƣ vậy, có thể nói rằng an ninh lƣơng thực đã, đang và sẽ là bộ phận quan trọng của an ninh kinh
tế. Việc xác định rõ vị trí, vai trò của an ninh lƣơng thực trong nội hàm của an ninh kinh tế quốc gia
sẽ giúp nhận diện, đánh giá toàn diện và sâu sắc sự cần thiết của an ninh lƣơng thực quốc gia trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đồng thời thấy đƣợc nội dung và các yếu tố tác động đến
an ninh lƣơng thực quốc gia hiện nay.
1.1.3. Vai trò của an ninh lƣơng thực đối với đời sống xã hội
1.1.3.1. Vai trò an ninh lương thực với đáp ứng nhu cầu tồn tại của con người và giảm đói nghèo
trên thế giới
Xã hội đang phát triển nhƣ vũ bão với nhiều vật dụng hiện đại ra đời phục vụ cho nhu cầu của con
ngƣời, nhƣng ngƣời ta có thể thiếu các phƣơng tiện hiện đại nhƣng ngƣời ta không thể làm gì với cái
dạ dày trống rỗng. Lƣơng thực nhƣ là một phƣơng tiện thiết yếu bậc nhất để duy trì sự tồn tại của con
ngƣời. Lƣơng thực phải đƣợc cung cấp đều đặn, đầy đủ cho mọi ngƣời nếu muốn sống, hoạt động và
phát triển.
Một trong những mục tiêu hàng đầu của Tuyên bố Thiên nhiên kỷ của Liên Hợp quốc (2003) là xóa
bỏ tình trạng nghèo và đói cùng cực của con ngƣời.
1.1.3.2. Vai trò của an ninh lương thực với tăng trưởng kinh tế
Vấn đề an ninh lƣơng thực và tăng trƣởng kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Xét về mục tiêu
chính sách của các chính phủ, an ninh lƣơng thực đƣợc coi nhƣ một chuỗi liên tục từ mức độ vi mô
về đảm bảo dinh dƣỡng cho ngƣời dân đến mức vĩ mô là đảm bảo cung cấp đầy đủ lƣơng thực cho
thị trƣờng trong nƣớc và khu vực. Ổn định an ninh lƣơng thực theo cả hai góc độ (vi mô, vĩ mô) giúp

thúc đẩy triển vọng tăng trƣởng kinh tế hiệu quả hơn, giảm đói nghèo.
1.1.3.3. Vai trò ổn định chính trị - xã hội của an ninh lương thực
Thế giới đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và kinh tế tri thức. Nhƣng cuộc khủng
hoảng kinh tế đang tiếp diễn và đặc biệt cuộc khủng hoảng lƣơng thực thế giới năm 2007 – 2008 đã
cho thấy tầm quan trọng của lƣơng thực.
Việc bảo đảm an ninh lƣơng thực không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế hay nhân đạo mà còn có vai
trò quan trọng đối với sự ổn định chính trị xã hội của mỗi quốc gia cũng nhƣ toàn thế giới. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, một đất nƣớc, một khu vực mà không bảo đảm an ninh lƣơng thực sẽ tạo
ra hệ luỵ lan tỏa không nhỏ đối với các nƣớc và các khu vực khác.
1.2. Nội dung của an ninh lƣơng thực
Để đảm bảo anh ninh lƣơng thực, cần phải thực hiện đồng bộ các nội dung, đó là bảo đảm tính sẵn
có của lương thực, sự ổn định, khả năng tiếp cận của người dân và sự an toàn, chất lượng của lương
thực được sử dụng. Những nội dung của anh ninh lƣơng thực trên đây đƣợc Thủ tƣớng Nguyễn Tấn
Dũng khẳng định tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) diễn ra vào ngày 29/1/2010 tại Davos về chủ
đề An ninh lƣơng thực. Cụ thể:
1.2.1. Sự sẵn có về lƣơng thực
Sự sẵn có (availability) lƣơng thực đƣợc hiểu là: sản lƣợng lƣơng thực, diện tích trồng trọt, các chỉ
tiêu về xuất và nhập khẩu lƣơng thực đƣợc đảm bảo. Tức là đảm bảo nguồn cung lƣơng thực đầy đủ
mọi nơi, mọi lúc.
Điều này liên quan đến việc nỗ lực trong việc bảo vệ diện tích đất trồng cây lƣơng thực, có chính
sách bảo đảm lợi ích cho ngƣời sản xuất lƣơng thực để họ an tâm sản xuất; tăng cƣờng đầu tƣ để tăng
sản lƣợng và chất lƣợng lƣơng thực; tạo thuận lợi cho thƣơng mại nông sản, xây dựng hệ thống phân
phối lƣơng thực ổn định
1.2.2. Sự tiếp cận với lƣơng thực
Sự tiếp cận (access) nguồn lƣơng thực đƣợc hiểu là: tỉ lệ tiếp cận lƣơng thực cơ bản trong tổng dân
số, thiếu lƣơng thực cơ bản trong nhóm nghèo, giá lƣơng thực cơ bản cao và tăng, lƣơng thực đƣợc
lƣu thông, phân phối đến các vùng trong nƣớc.
Điều này liên quan đến việc tạo các cơ hội việc làm, thu nhập và có hỗ trợ thích hợp để bảo đảm khả năng tiếp
cận với lƣơng thực của ngƣời dân; thận trọng trong việc sử dụng lƣơng thực vào mục đích khác;
1.2.3. Sự ổn định của lƣơng thực

Sự ổn định (stability) của lƣơng thực là: phải có hệ thống phân phối ổn định. Cung và cầu lƣơng thực
trên thị trƣờng ổn định, nghĩa là giá lƣơng thực và các xu hƣớng khác trên thị trƣờng không tăng
(giảm) mạnh (ví dụ giá gạo cao liên tục hay kho dự trữ giảm báo hiệu những yếu tố không tốt đến sự
ổn định về cung lƣơng thực)
Điều này liên quan đến các cố gắng của từng quốc gia trong việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phối
hợp hành động chung trong khu vực và toàn cầu để đảmbảo sản và cung ứng lƣơng thực ổn định.
1.2.4. Sự an toàn, chất lƣợng của lƣơng thực đƣợc sử dụng
Sự an toàn, chất lƣợng của lƣơng thực đƣợc sử dụng thể hiện qua độ dinh dƣỡng của lƣơng thực, chất
lƣợng và vệ sinh lƣơng thực, tỷ lệ suy sinh dƣỡng và thiếu chất do lƣơng thực.
1.3. Các nhân tố tác động đến an ninh lƣơng thực
1.3.1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1.1. Khía cạnh toàn cầu hoá nông nghiệp đối với an ninh lương thực
+ Vai trò, đặc điểm của toàn cầu hóa nông nghiệp
Thứ nhất: Toàn cầu hóa nông nghiệp hiện nay đang ở giai đoạn đầu, những diễn biến tiếp theo của nó
đầy bất định, chông gai và khó dự đoán.
Thứ hai: Ở nhiều nƣớc, toàn cầu hóa nông nghiệp thƣờng song hành hoặc dẫn đến thị trƣờng hóa
hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp, trái ngƣợc với những khu vực sản xuất kinh doanh khác,
nơi cơ chế kinh tế thị trƣờng thƣờng đi trƣớc một bƣớc so với toàn cầu hóa.
Thứ ba: Thị trƣờng nông sản quốc tế có những tính chất rất đặc thù so với các loại thị trƣờng hàng
hóa khác, dẫn tới tự do hóa thƣơng mại nông sản có nhiều điểm khác biệt so với quá trình tự do hóa
thƣơng mại nói chung.
Thứ tư: Hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp gắn liền với những vấn đề văn hóa, xã hội, môi
trƣờng rất to lớn.
Thứ năm: Một đặc điểm đáng chú ý nữa của toàn cầu hóa nông nghiệp là giai đoạn toàn cầu hóa nông
nghiệp hiện nay đang hàm chứa quá nhiều điều vô lý và bị chỉ trích nặng nề.
1.3.2.2. Những cơ chế tác động chính của toàn cầu hóa kinh tế đối với nông nghiệp, nông thôn.
Nông nghiệp và nông thôn thế giới, ở các nƣớc giàu cũng nhƣ các nƣớc nghèo, đang đứng trƣớc
những khả năng thay đổi sâu rộng và toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế là một nguyên nhân quan
trọng dẫn tới sự thay đổi này. Và cũng phải nói rằng những sự thay đổi của nông nghiệp, nông thôn
có liên quan, tác động to lớn đến an ninh lƣơng thực.

Theo Đặng Kim Sơn và Hoàng Thu Hoà (2002), trong Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp và
nông thôn, đã chỉ ra cơ chế chủ chốt nhất lan truyền những ảnh hƣởng của toàn cầu hóa kinh tế đến
nông nghiệp và phát triển nông thôn là tự do hóa các thị trƣờng nông sản quốc tế, tự do hóa đầu tƣ và
cuộc cạnh tranh toàn cầu ngày càng khắc nghiệt. Trong đó nhân tố quan trọng là tự do hoá các thị
trƣờng nông sản quốc tế hiện nay.
1.3.2. Các nhân tố liên quan đến việc sản xuất và cung ứng lƣơng thực
1.3.2.1. Các nhân tố tác động đến sự sẵn có lương thực
- Thứ nhất, diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên thế giới đang có xu hƣớng giảm nhanh.
- Thứ hai, từ ba thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đến nay, thế giới có nhiều tiến bộ nhảy vọt về khoa học và
công nghệ, nhƣng nhiều nƣớc, nhiều vùng đã không chú ý tới việc tiếp tục đầu tƣ vào sản xuất nông
nghiệp nói chung, sản xuất lƣơng thực nói riêng.
- Thứ ba, khí hậu là một trong những yếu tố tác động đến sản lƣợng lƣơng thực.
1.3.2.2. Nhóm nhân tố tác động đến sự tiếp cận lương thực
Thứ nhất, thị trƣờng nông sản thế giới bị bóp méo vì chính sách trợ cấp nông nghiệp của các nƣớc
công nghiệp phát triển.
- Thứ hai, việc nhiều nƣớc xuất khẩu lƣơng thực, khởi đầu là Ấn Độ (cuối năm 2007), sau đó Ai Cập,
Campuchia, Mêxico, … (quý I/2008) thời gian vừa qua hạn chế xuất khẩu càng khiến giá lƣơng thực
tăng cao.
1.3.2.3. Nhóm nhân tố tác động đến sự ổn định của lương thực
- Thứ nhất, sức ép dân số và thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng, trong khi nguồn cung ứng lƣơng
thực bị đe dọa.
- Thứ hai, các nhu cầu về lƣơng thực không chỉ tăng do dân số tăng, mà còn do nhu cầu của các
ngành kinh tế khác.
1.3.2.4. Nhóm nhân tố tác động đến sự an toàn, chất lượng của lương thực
Thứ nhất, việc ứng dụng công nghệ sinh học, chọn tạo giống lúa và lƣơng thực đảm bảo dinh dƣỡng.
Thứ hai, áp dụng quy trình sản xuất hiện đại, an toàn và thân thiện môi trƣờng trong việc tạo
ra các sản phẩm lƣơng thực sạch, không chứa nhiều hóa chất, đảm bảo chất lƣợng vệ sinh thực phẩm
cho ngƣời tiêu dùng, không gây hại cho sức khỏe của ngƣời dùng.
Thứ ba, các chính sách của các quốc gia trong việc quản lý an toàn lƣơng thực, thực phẩm và
chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân thông qua phòng chống suy dinh dƣỡng ở bà mẹ và trẻ em.


CHƢƠNG 2. TÌNH HÌNH AN NINH LƢƠNG THỰC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

2.1. Khái quát về tiềm năng sản xuất lƣơng thực của Việt Nam và chủ trƣơng, chính sách của
Nhà nƣớc về an ninh lƣơng thực quốc gia
2.1.1. Khái quát về tiềm năng sản xuất lƣơng thực của Việt Nam
Việt Nam vốn là quốc gia nông nghiệp, có truyền thống trồng lúa nƣớc lâu đời ở khu vực. Hiện
chúng ta có nhiều tiềm năng lợi thế về sản xuất lƣơng thực, nhất là lúa gạo. Ngƣời nông dân Việt
Nam có truyền thống cần cù, chịu khó, đƣợc đánh giá là ham học hỏi, tích cực ứng dụng thành tựu
khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất nông nghiệp - là nguồn lực quan trọng nhất cho sản xuất
lƣơng thực, đảm bảo an ninh lƣơng thực nƣớc ta.
Diện tích gieo trồng lúa cả năm không ngừng đƣợc mở rộng, từ 5,6 triệu ha (năm 1980), đến nay là
khoảng 7,3 triệu ha. Mỗi vùng sinh thái nông nghiệp của nƣớc ta đều có những thế mạnh nhất định trong
việc sản xuất lƣơng thực, thực phẩm. Các thế mạnh ấy đang ngày càng đƣợc phát huy tốt hơn nhờ sản
xuất đi đôi với bảo quản và chế biến sản phẩm, nhờ sự trao đổi, lƣu thông lƣơng thực, thực phẩm hàng
hoá giữa các vùng. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm lƣơng thực, thực phẩm số một. Đồng
bằng sông Hồng là vùng trọng điểm số hai về lƣơng thực, thực phẩm. Ngoài hai vùng trọng điểm trên,
các vùng khác cũng có những thế mạnh khác nhau về sản xuất lƣơng thực, thực phẩm.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của nền kinh tế hiện nay góp phần gắn sản xuất với thị
trƣờng thế giới, phân tán rủi ro, thu hút nguồn vốn đầu tƣ để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao thu nhập cho ngƣời sản xuất lƣơng thực.
2.1.2. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam về an ninh lƣơng thực
Qua thực tiễn hoạch định và chỉ đạo thực hiện đƣờng lối đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế và xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, Đảng ta nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển nông
nghiệp, đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc gia, xoá đói giảm nghèo bền vững. Mục tiêu phát triển
nông nghiệp trong Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 – 2010 là: “đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn”. Sau đó, Hội nghị Trung ƣơng 3 (khóa IX) đã
ban hành 3 nghị quyết quan trọng liên quan trực tiếp đến nông nghiệp, nông thôn: 1) Nghị quyết
“Đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010”; 2) Nghị quyết “Tiếp tục

đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tƣ nhân”. Hội nghị Trung
ƣơng 7 (khóa X) tiếp tục ban hành nghị quyết về “Nông nghiệp, nông thôn và nông dân”.
Cụ thể hoá đƣờng lối của Đảng về đảm bảo an ninh lƣơng thực, Chính phủ và các cơ quan liên quan
đã ban hành nhiều chính sách quan trọng góp phần đảm bảo an ninh lƣơng thực nhƣ: Chính sách đất
trồng lúa; Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng vùng trồng lúa; Chính sách thương mại gạo; Chính
sách hỗ trợ nông dân sản xuất lúa
2.2. Tình hình an ninh lƣơng thực của Việt Nam
2.2.1. Thành tựu an ninh lƣơng thực Việt Nam
2.2.1.1. Sự sẵn có lương thực
Với những chủ trƣơng và chính sách cụ thể của Nhà nƣớc đầu tƣ cho phát triển sản xuất nông
nghiệp, tăng sản lƣợng nhằm đảm bảo an ninh lƣơng thực, trong những năm vừa qua Việt Nam tiếp
tục đạt đƣợc những thành tích đáng ghi nhận về sản lƣợng lƣơng thực.
Lƣơng thực không những đủ hàng ngày mà còn đƣợc dự trữ ở trong dân và dự trữ của Nhà
nƣớc. Nhiều loại lƣơng thực, thực phẩm không những đáp ứng đƣợc nhu cầu ở trong nƣớc, mà còn xuất
khẩu với khối lƣợng lớn, đứng thứ hạng cao trên thế giới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, từ 1989
đến hết tháng 6/2011, Việt Nam đã xuất khẩu đƣợc xấp xỉ 81 triệu tấn, thu về đƣợc trên 24,2 tỷ USD.
Nƣớc ta đã góp phần đảm bảo nguồn cung lƣơng thực cho nhiều nƣớc trong khu vực và trên thế giới.
2.2.1.2. Sự tiếp cận lương thực
- Về tiêu dùng lƣơng thực: nhƣ đã nêu trên đây, do sản lƣợng lƣơng thực tăng nhanh hơn đáng kể tốc
độ tăng dân số, nên sản lƣợng lƣơng thực bình quân đầu ngƣời của Việt Nam đã tăng liên tục, từ 445
kg/ngƣời/năm năm 2000 lên 513kg/ngƣời/năm vào năm 2010. Ngay cả với những năm thiên tai diễn
ra nghiêm trọng, lƣơng thực vẫn đƣợc phân phối cho những vùng khó khăn kịp thời, đảm bảo lƣơng
thực cho hầu hết nhân dân. Sản lƣợng nhiều loại cây, con đã đáp ứng đủ nhu cầu.
- Về khả năng tiếp cận lƣơng thực: Tăng trƣởng kinh tế liên tục trong nhiều năm qua đã giúp cải
thiện đáng kể thu nhập của ngƣời dân. Thu nhập tăng là điều kiện quan trọng hàng đầu để ngƣời dân
dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với nguồn lƣơng thực: chi tiêu nói chung và chi tiêu cho lƣơng thực
nói riêng của ngƣời dân đã đƣợc cải thiện.
- Về lƣu thông, phân phối lƣơng thực: Thị trƣờng lƣu thông lƣơng thực ngày càng đƣợc mở rộng cả
về quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia, đảm bảo lƣu thông thuận lợi giữa các vùng, các
khu vực, kể cả các vùng núi, vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh

lƣơng thực quốc gia và từng địa phƣơng. Sự phát triển nhanh và rộng khắp của hệ thống chợ, siêu thị,
trung tâm thƣơng mại tạo điều kiện cho ngƣời dân thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nguồn lƣơng
thực, phục vụ đời sống bản thân, gia đình.
2.2.1.3. Sự ổn định lương thực
Sản lƣợng lƣơng thực hàng năm gần đây tăng cao hơn tốc độ tăng dân số, chẳng hạn giai
đoạn 2001 – 2008, sản lƣợng lƣơng thực có hạt tăng 3,7% cao hơn 3 lần tốc độ tăng dân số trong
cùng thời kỳ . Mặt khác, nhà nƣớc và cả ngƣời dân có tỷ lệ dự trữ lƣơng thực nhất định hàng năm là
ổn định. Hai nhân tố trên góp phần quan trọng đảm bảo nguồn cung lƣơng thực ổn định.
Trong khi, cầu về lƣơng thực trong thời gian qua về lƣơng thực đƣợc đánh giá là không có sự đột
biến tăng hay giảm, nên đã góp phần làm cho giá lƣơng thực cơ bản ổn định (ngoại trừ năm 2008).
Những yếu tố về sự mở rộng thị trƣờng lƣơng thực, đảm bảo lƣơng thực đƣợc vận chuyển
rộng khắp đến các vùng cũng góp phần quan trọng đảm bảo sự ổn định của lƣơng thực một cách
thƣờng xuyên.
Đối với những vùng bị thiên tai, nhà nƣớc có sự cứu trợ, hỗ trợ kịp thời về lƣơng thực, đã
giúp bình ổn thị trƣờng lƣơng thực.
2.2.1.4. Sự an toàn, chất lượng lương thực
Cùng với sự gia tăng thu nhập, nhu cầu tiêu dùng gạo của ngƣời dân Việt Nam đang có xu hƣớng
giảm xuống. Trong khi đó, tỷ lệ thịt, cá, trái cây… trong bữa ăn hàng ngày của ngƣời dân tăng lên.
Ngƣời dân đã chú trọng hơn đến chất lƣợng dinh dƣỡng, độ an toàn của lƣơng thực, qua đó nâng cao
chất lƣợng cuộc sống toàn diện của mình.
Thời gian qua nhà nƣớc và ngƣời dân đã có sự quan tâm đến vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm. Nhà
nƣớc đã chú ý đến việc tuyên truyền về sức khỏe dinh dƣỡng; tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra
an toàn, chất lƣợng lƣơng thực, thực phẩm trên thị trƣờng góp phần đảm bảo chất lƣợng, an toàn
lƣơng thực, đảm bảo an ninh lƣơng thực.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Sản lượng lương thực có thể giảm xuống, hạn chế sự sẵn có lương thực
Hạn chế về sự sẵn có lƣơng thực do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân cơ bản:
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, lại đang bị thu hẹp nhanh chóng.
- Ảnh hưởng của tình trạng biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh.
- Nguyên nhân cơ bản của sự giảm sút sản lượng trong tương lai, cũng có thể coi là hạn chế của an ninh

lương thực, đó là lợi nhuận từ sản xuất nông nghiệp nói chung, trong đó có người trồng lúa giảm.
2.2.2.2. Hạn chế trong tạo điều kiện cho người dân, nhất là người nghèo, tiếp cận lương thực
Theo số liệu thông kê của Tổ chức Oxfam (2012), có khoảng 8,7% số hộ gia đình ở nông thôn không
đƣợc đảm bảo về an ninh lƣơng thực, tỷ lệ thiếu đói lƣơng thực cục bộ, theo mùa là 6,7%. Đây là hạn
chế cơ bản của an ninh lƣơng thực Việt Nam, nhất là trong điều kiện chúng ta là nƣớc đứng đầu thế
giới về xuất khẩu gạo.
Một nghịch lý là nghèo đói tập trung chủ yếu ở nông thôn, nơi tạo ra lƣơng thực. Và thực tế cho thấy
là giảm nghèo đang chậm lại và có dấu hiệu không bền vững do tỷ lệ tái nghèo cao. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến điều này, có nguyên nhân từ vòng luẩn quẩn của đói nghèo của ngƣời sản xuất lƣơng
thực, sản xuất lúa đã đƣợc chỉ ra ở trên. Có nguyên nhân từ sự phát triển kinh tế đất nƣớc, chính sách
xóa đói giảm nghèo chƣa bền vững;
Sự tiếp cận lƣơng thực của ngƣời dân hạn chế còn do những hạn chế sau:
- Hạn chế trong kết cấu hạ tầng, đầu tư phục vụ sản xuất lương thực.
+ Về kết cấu hạ tầng.
+ Về đầu tƣ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
2.2.2.3. Hạn chế trong quản lý, điều tiết thị trường lương thực, đảm bảo sự ổn định của giá cả và
thị trường lương thực
Có một thực tế đã xảy ra là ngƣời dân Đồng bằng sông Cửu Long mua gạo ngoài chợ với giá luôn
cao hơn giá gạo xuất khẩu. Đây là một vấn đề bất cập đƣợc đặt ra cho các nhà quản lý.
Trong cuộc khủng hoảng lƣơng thực năm 2008, các doanh nghiệp kinh doanh lƣơng thực nhà nƣớc
rơi vào tình trạng “cạn kiệt hầu bao” do ngân hàng chậm giải ngân thì thậm chí các nhà đầu tƣ chứng
khoán đã nhận ra sự hấp dẫn của thị trƣờng lúa gạo. Nhiều đơn vị không có chức năng kinh doanh
lƣơng thực, thực phẩm cũng nhảy vào mua gạo, thuê thêm các kho chứa hàng ở Đồng bằng sông Cửu
Long để tích trữ gạo. Một số thị trƣờng bán lẻ gần nhƣ lệ thuộc vào 3-5 đầu mối cung cấp. Khi các
đầu mối này ghim hàng lập tức đã tạo nên cơn sốt giá. Sở dĩ họ có thể thao túng thị trƣờng gạo nội
địa là vì các doanh nghiệp kinh doanh lƣơng thực nhà nƣớc “bận lo” xuất khẩu mà quên thị trƣờng
nội địa. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết họ không cạnh tranh đƣợc với tƣ thƣơng, nguyên
nhân là do bản thân họ phải chịu 5% thuế giá trị gia tăng khi thu múa lúa gạo nguyên liệu, còn tƣ
thƣơng thì không.
Nhƣ vậy, chuyện thiếu gạo hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng nhƣ ở những địa phƣơng khác

chỉ là “ảo”. Chính sự đầu cơ của các tƣ thƣơng cùng với những thông tin thiếu minh bạch là nguyên nhân
chính dẫn đến giá lƣơng thực, thực phẩm tăng đột biến trong thời gian qua, đặc biệt là giá gạo.
2.2.2.4. Hạn chế trong đảm bảo an toàn, chất lượng lương thực
Trong khi nƣớc ta không còn là quốc gia có nạn đói tràn lan, thặng dƣ sản xuất lúa gạo ngày
càng tăng thì an ninh dinh dƣỡng – đảm bảo an toàn, chất lƣợng lƣơng thực tiêu dùng của ngƣời dân
chƣa đƣợc đảm bảo. Nƣớc ta vẫn đối mặt với “nạn đói tiềm ẩn”, ngƣời dân hàng ngày vẫn đối mặt
với tình trạng thiếu vitamin A, mất cân bằng dinh dƣỡng. Gần 1/3 trẻ em nông thôn còi cọc, có chiều
cao rất thấp so với lứa tuổi. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng và bà mẹ nuôi con bú thiếu chất còn cao. Cứ
5 trẻ em có một em bị suy dinh dƣỡng. Tỷ lệ trẻ suy dinh dƣỡng khá phổ biến, không chỉ ở vùng sâu,
vùng xa, vùng nghèo và khó khăn mà ngay cả các vùng sản xuất lƣơng thực lớn nhất nƣớc nhƣ đồng
bằng sông Cửu Long.
Nguyên nhân cơ bản là thiếu chăm sóc y tế và chế độ ăn uống không đảm bảo cân bằng về
dinh dƣỡng.
2.3. Cơ hội và thách thức đối với việc đảm bảo an ninh lƣơng thực của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
2.3.1. Các cơ hội đảm bảo an ninh lƣơng thực từ toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Mở rộng thị trƣờng lƣơng thực, gia tăng ảnh hƣởng về ổn định thị trƣởng lƣơng thực toàn cầu
Tiếp cận thị trường của các nƣớc thành viên WTO, chiếm trên 90% khối lƣợng và giá trị thƣơng mại
thế giới, tạo điều kiện mở rộng thị trƣờng cho nông sản Việt Nam, nhất là lúa gạo. Phù hợp với mục
tiêu chiến lƣợc của ngành nông nghiệp trong 10 năm tới là phát triển một nền nông nghiệp bền vững,
có khả năng cạnh tranh và hƣớng ra xuất khẩu, từ đó góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, tăng
thu nhập cho ngƣời trồng lúa.
Hệ thống chính sách trong nước: Hệ thống pháp lý sẽ đƣợc điều chỉnh theo hƣớng phù hợp với
thông lệ quốc tế sẽ tạo ra môi trƣờng kinh doanh trong nƣớc bình đẳng, khuyến khích đƣợc mọi
thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp tƣ nhân vừa và nhỏ tham gia đầu tƣ vào ngành nông
nghiệp. Thu hút đƣợc nhiều nhà đầu tƣ, thƣơng mại nƣớc ngoài.
Tạo sức ép khá lớn cho các nhà sản xuất, kinh doanh hàng nông sản trong nƣớc phải điều chỉnh
sản xuất theo hƣớng phát huy lợi thế cạnh tranh hoặc phải áp dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh.
Đây vừa là thách thức vừa là động lực, cơ hội để mọi thành phần kinh tế trong ngành nông nghiệp

vƣơn lên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Giải quyết tranh chấp thương mại: WTO là diễn đàn đấu tranh lại các đối xử bất công trong
thƣơng mại
Áp dụng công nghệ mới và chi phí sản xuất lƣơng thực thấp hơn. Phát huy lợi thế của nƣớc
xuất khẩu gạo.
2.3.2. Thách thức đối với Việt Nam trong đảm bảo an ninh lƣơng thực
2.3.2.1. Chính sách của các nước lớn
Tự do hóa nông nghiệp đang là vấn đề tranh cãi lớn trong vòng đàm phán hiện nay của WTO giữa
các cƣờng quốc với các nƣớc đang phát triển và giữa Mỹ với châu Âu.
Mỹ và một số cƣờng quốc muốn các nƣớc khác chấm dứt hoặc hạn chế đến mức thấp nhất trợ cấp
cho nông nghiệp, đồng thời nhanh chóng hạ thấp thuế quan và giảm hẳn hàng rào phi thuế quan đối
với nông sản, nhƣng chính họ lại không làm nhƣ thế.
Các nƣớc đang phát triển, ngoài phần phát huy nội lực, cần có thêm nguồn đầu tƣ từ nƣớc ngoài để
phát triển nông nghiệp.
2.3.2.2. Những thách thức mang tính toàn cầu
+ Biến đổi khí hậu.
+ Tác động của thị trƣờng thế giới.
+ Tác động của chính sách năng lƣợng toàn cầu.
+ Thách thức từ khủng hoảng an ninh lƣơng thực thế giới.
“Phi nông bất ổn”, “Thực túc binh cƣờng”, "Nhất sĩ nhì nông. Hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”
… là những tổng kết từ thực tế cuộc sống của ông cha ta. Soi rọi kinh nghiệm đó vào tình hình khủng
hoảng lƣơng thực dẫn đến bất ổn xã hội tại nhiều nƣớc đang phát triển ở châu Á, châu Phi thời gian
qua càng thấy vai trò, vị trí quan trọng của nông nghiệp trong việc đảm bảo an ninh lƣơng thực, nền
tảng đảm bảo an ninh kinh tế, an ninh quốc gia.
2.3.2.3. Thách thức từ sự bất cập của các chính sách liên quan an ninh lương thực hiện nay
+ Chính sách dân số.
Vấn đề đảm bảo an ninh lƣơng thực vẫn tiếp tục đặt ra không ít vấn đề cần giải quyết. Dân số nƣớc ta
đông, trong đó có đến 73% sống ở địa bàn nông thôn, đất canh tác không nhiều. nếu tính theo đầu ngƣời
thì ở mức thấp nhất thế giới. Dân số Việt Nam là 74,7 triệu ngƣời năm 1998. Đến năm 2006, dân số đã
tăng lên khoảng 84,15 triệu ngƣời và năm 2007 khoảng 86 triệu ngƣời, là nƣớc đông dân thứ 13 trên thế

giới. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, đến năm 2024, nƣớc ta sẽ vƣợt 100 triệu dân, đạt 100,5 triệu
ngƣời. Với đà tăng dân số nhanh nhƣ vậy sẽ góp phần không nhỏ làm trầm trọng thêm những khó khăn
trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, an ninh lƣơng thực… đang diễn ra hàng ngày.
+ Chính sách cơ cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp – nông thôn.
Có thể nói, nông nghiệp chƣa nhận đƣợc sự đầu tƣ đúng mức với tầm quan trọng về kinh tế - xã hội
đối với đất nƣớc. Tiềm năng to lớn của lĩnh vực nông nghiệp trong việc xóa đói giảm nghèo đã bị
suy giảm, chính sách vĩ mô tập trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ dẫn tới tỉ lệ lãi suất, lạm
phát ở mức cao.
Theo dự báo từ nay đến năm 2025, Việt Nam có thể lấy từ 10 – 15% diện tích đất nông nghiệp và các
loại đất khác để phục vụ phát triển công nghiệp. Việc mất đi một phần rất lớn quỹ đất trồng do biến
đổi khí hậu cùng với việc đô thị hóa và công nghiệp hóa sẽ đặt Việt Nam trƣớc một thách thức rất
nghiêm trọng trong việc bảo đảm an ninh lƣơng thực.
CHƢƠNG 3. DỰ BÁO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH LƢƠNG THỰC
CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1. Dự báo an ninh lƣơng thực trong những năm tới
3.1.1. Tình hình an ninh lƣơng thực thế giới và dự báo về an ninh lƣơng thực toàn cầu
3.1.1.1. Tình hình an ninh lương thực thế giới gần đây
Vấn đề an ninh lƣơng thực lại "nóng" trên toàn cầu những ngày gần đây, trong bối cảnh giá lƣơng
thực đã tăng mạnh trở lại. Trong khi đó, nạn đói đang tiếp tục đe dọa hàng triệu ngƣời nghèo trên thế
giới, nhất là tại các nƣớc khu vực Sừng châu Phi và Trung Ðông. Ngân hàng Thế giới (WB) trong
báo cáo "Giám sát giá lƣơng thực" công bố mới đây cảnh báo tình trạng giá lƣơng thực đang tăng
nhanh trở lại trong những tháng gần đây, nhất là trong tháng 6 và tháng 7 năm 2012.
Hạn hán tồi tệ nhất trong vòng hơn nửa thế kỷ đã xảy ra ở những khu vực trồng ngũ cốc chính của
Hoa Kỳ, trong khi khô hạn cũng xảy ra ở Biển Đen và cả Australia, một số khu vực Nam Á…khiến
ngƣời ta lo ngại sản lƣợng ngũ cốc, trong đó có lúa mì, năm nay sẽ bị tổn hại lớn. Thị trƣờng dấy lên
lo ngại Nga và Ấn Độ có thể tái hạn chế xuất khẩu ngũ cốc nhƣ hồi 2008 - điều đã từng châm ngòi
cho cuộc khủng hoảng lƣơng thực, gây bạo loạn ở nhiều quốc gia trên thế giới.
3.1.1.2. Dự đoán tình hình an ninh lương thực toàn cầu
a) Về lúa gạo
Trong khi nhu cầu thị trƣờng gạo trên thế giới có thể dự đoán khá chính xác bởi các chuyên gia thì

nguồn cung lại đang rất khó xác định. Chuyên gia Tom Slayton của Diễn đàn quản lý rủi ro phát triển
nông nghiệp (FARMD) nhận định: “Những nƣớc xuất khẩu gạo nhiều lại mập mờ và bí mật về chính
sách. Điều này gây nguy cơ biến động giá gạo trong thời gian tới, ảnh hƣởng xấu đến bức tranh
thƣơng mại gạo toàn cầu”.
Những tháng cuối năm, thị trƣờng lúa gạo thế giới có nhiều yếu tố hậu thuẫn giá tăng nhẹ. Đáng chú
ý nhất là 3 yếu tố sau:
Lạm phát giá đang có dấu hiệu quay trở lại, bằng chứng là chỉ số CPI tăng tại nhiều quốc gia. Giá
lƣơng thực và nguyên liệu thức ăn chăn nuôi vì thế cũng sẽ chịu ảnh hƣởng tăng theo.
Về nguồn cung, duy chỉ tồn trữ ở Thái Lan ít thay đổi, còn tại Ấn Độ và nhiều quốc gia nhập khẩu
khác nhƣ Indonesia hay Philippine đều giảm khá nhiều. Việt Nam và Thái Lan đều đã thu hoạch
xong vụ lúa chính. Nguồn cung sắp tới sẽ ít có khả năng tăng mạnh, đặc biệt chính phủ Thái lan có
thể sẽ thực hiện chƣơng trình can thiệp mới từ tháng 10, sẽ vét tiếp toàn bộ lƣợng cung mới ở thị
trƣờng Thái.
Trong khi đó, Ấn Độ lại đang vào mùa mƣa bão nên sẽ có một lƣợng gạo không nhỏ bị hƣ hỏng. Do
đó, lƣợng gạo mà nƣớc này xuất khẩu từ nay đến cuối năm cũng rất khó xác định. Ở thị trƣờng châu
Mỹ, cho đến giờ Chính phủ Mỹ vẫn chƣa công bố sản lƣợng gạo mới nhất.
Về nhu cầu, Indonesia có thể sẽ gia tăng nhập khẩu trong những tháng cuối năm. Philippine có thể
cũng sẽ nhập khẩu thêm nhƣng với khối lƣợng không lớn. Trung Quốc nhiều khả năng duy trì tiến độ
nhập khẩu ở mức vừa phải. Ngoài ra, một số khu vực châu Phi sẽ phải tăng nhập khẩu do thiên tai
ảnh hƣởng xấu tới vụ mùa trong nƣớc.
b) Về lúa mì
Lúa mì vẫn có khả năng tăng giá, mặc dù không mạnh nhƣ thời gian qua. Số liệu về thu hoạch ở Mỹ,
Canada và châu Âu đang có xu hƣớng giảm, các nƣớc có truyền thống xuất khẩu nhƣ Kazakhstan,
Ucraina gần đây đã công bố có thể xuất khẩu ra thị trƣờng thế giới giảm 30% so với năm ngoái.
Trong khi đó, Bắc Phi, Trung Cận Đông và Thổ Nhĩ Kỳ với dân số tăng sẵn sàng mua ngày càng
nhiều.
Mặc dù Bộ Nông nghiệp Nga khẳng định không có lý do gì để hạn chế xuất khẩu lúa mì, song thị
trƣờng vẫn đồn đoán về khả năng nƣớc này sẽ phải hạn chế xuất bởi nguồn cung ở nƣớc này đang
dần cạn kiệt.
Tổ chức Ngũ cốc Quốc tế (IGC) dự báo tiêu thụ lúa mì toàn cầu trong vụ 2012-2013 giảm, nhƣng

không giảm mạnh nhƣ sản lƣợng.
Theo dự báo của FAO, trong vụ 2012-2013, nhu cầu lúa mỳ làm thức ăn chăn nuôi sẽ giảm nhiều.
Trong khi đó, nhu cầu làm lƣơng thực và nhu cầu sử dụng trong sản xuất công nghiệp lại tăng.
3.1.2. Dự báo an ninh lƣơng thực của Việt Nam
Do lợi thế về vị trí địa lý, Việt Nam có thể trồng lúa trên khắp địa bàn cả nƣớc trong thời gian 12
tháng của một năm, không chỉ một vụ mà có thể trồng tới ba vụ (vụ lúa đông xuân, lúa hè thu, và lúa
mùa). Tuy nhiên, thóc gạo hàng hóa tập trung chủ yếu ở hai vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và
đồng bằng Sông Hồng; ở các vùng còn lại, sản xuất lúa gạo chỉ đủ hoặc chƣa đủ cho nhu cầu tiêu
dùng tại chỗ. Trong điều kiện đó, sản xuất lúa gạo gắn với an ninh lƣơng thực trên quy mô cả nƣớc
(tầm quốc gia) phụ thuộc vào tính ổn định và bền vững của sản xuất lúa gạo ở hai vùng Đồng bằng
Sông Cửu long và đồng bằng Sông Hồng, vừa có chức năng cung cấp cho nhu cầu của nội vùng, vừa
đáp ứng nhu cầu bị thiếu hụt ở các vùng khác, đặc biệt là hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên và cung
cấp nguồn gạo cho dự trữ quốc gia và xuất khẩu. Vì vậy, kết cấu hạ tầng từ hai vùng sản xuất lúa gạo
chính đến các vùng khác cũng quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc gia.
Tổng diện tích lúa cả năm đã giảm tới trên 465 nghìn ha, bình quân mỗi năm giảm trên 66 nghìn ha,
chủ yếu ở hai vùng sản xuất lúa chính của cả nƣớc. Xu hƣớng này nếu tiếp diễn sẽ ảnh hƣởng xấu
đến sản lƣợng lúa ở hai vùng này, cũng nhƣ ảnh hƣởng đến sản lƣợng lúa gạo, an ninh lƣơng thực
trong nƣớc và khối lƣợng xuất khẩu gạo nhƣ hiện nay.
Theo dự báo về dân số và khả năng sản xuất lúa gạo của Việt Nam đã có hiện nay thì cân đối cung
cầu về thóc gạo từ nay tới năm 2020 đƣợc luận cứ nhƣ sau:
- Dân số đạt 85,2 triệu ngƣời vào năm 2007, và với mức tăng bình quân nhƣ hiện nay (1,2%/năm) thì
đến năm 2010 sẽ là 88,5 triệu ngƣời, năm 2015 là 93,6 triệu ngƣời, và năm 2020 là 98,6 triệu ngƣời.
- Mức tiêu dùng gạo trên đầu ngƣời trong nƣớc sẽ giảm do tăng tiêu dùng thịt, sữa và rau, củ quả
theo nhịp tăng của thu nhập dân cƣ, nhƣng nhu cầu gạo cho chăn nuôi, công nghiệp chế biến sẽ vẫn
tăng lên, vì vậy tổng lƣợng thóc gạo tiêu dùng trong nƣớc thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục tăng.
Dựa trên những luận cứ trên đây, Dự thảo lần 9 Đề án “Chiến lƣợc an ninh lƣơng thực quốc gia đến
năm 2020” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn soạn thảo đã dự kiến cân đối cung cầu thóc
gạo đến năm 2010, 2015, 2020.
An ninh lƣơng thực quốc gia đƣợc giữ vững với cân đối cung cầu về thóc gạo cho các mục tiêu sử
dụng trong nƣớc vẫn sẽ đƣợc đảm bảo và có dƣ khá nhiều: 5,4 triệu tấn vào năm 2010, 5,1 triệu tấn

vào năm 2015, và 3,3 triệu tấn vào năm 2020. Số thóc dƣ thừa này sẽ là nguồn để nƣớc ta tiếp tục
xuất khẩu, nhƣng khối lƣợng giảm dần. Mức cung (sản lƣợng thóc) sẽ (phải) tăng lên 37,2 triệu tấn
vào năm 2015 và 38,5 triệu tấn vào năm 2020.
3.2. Quan điểm định hƣớng và giải pháp bảo đảm an ninh lƣơng thực của Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa
3.2.1. Quan điểm định hƣớng về an ninh lƣơng thực của Việt Nam
Để đảm bảo an ninh lƣơng thực cho Quốc gia, Đảng và Nhà nƣớc ta đã chủ trƣơng và thực
hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, thường xuyên tuyên truyền cho nhân dân có ý thức cộng đồng về vấn đề an ninh
lương thực.
Thứ hai, các cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế huy động đặc thù về lương thực khi có lũ, lụt,
thiên tai và tình huống xấu xảy ra đối với tất cả các thành phần kinh tế. Đặc biệt chú trọng đến các
vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa thƣờng bị chia cắt do khó khăn về thông tin,
giao thông vận tải.
Thứ ba, mỗi địa phương tiếp tục rà soát lại quy hoạch đất đai với tiêu chí đầu tiên là mang tính
khoa học cao.
Thứ tư, thường xuyên chủ động dự báo bám sát tình hình lương thực khu vực và thế giới để có
chính sách lương thực quốc gia phù hợp, vừa phát huy lợi thế so sánh góp phần tăng trưởng kinh tế
thời kỳ hội nhập quốc tế vừa bảo đảm ổn định xã hội.
3.2.2. Một số giải pháp nhằm đảm bảo an ninh lƣơng thực của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế
3.2.2.1. Thúc đẩy sản xuất và nâng cao năng suất trong sản xuất nông nghiệp
a) Tích cực đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
Trƣớc hết cần chú trọng áp dụng các quy trình công nghệ cao trong chọn tạo, phát triển và kỹ thuật
thâm canh tổng hợp các giống lúa có năng suất cao, chất lƣợng cao, chống chịu tốt sâu bệnh và các
điều kiện bất thuận. Bởi lúa là cây lƣơng thực quan trọng hàng đầu.
Để thực hiện đƣợc giải pháp hạn chế không sử dụng đất trồng lúa cho mục đích đô thị hóa và xây
dựng các khu công nghiêp (KCN) trên đất trồng lúa.
Để bảo đảm giữ vững an ninh lƣơng thực quốc gia, về lâu dài cần nghiên cứu, thực hiện một hệ
thống các giải pháp tích cực, đồng bộ từ sản xuất đến quản lý thị trƣờng trong nƣớc, đặc biệt trong

khâu điều hành xuất khẩu gạo.
Giải quyết tốt quan hệ giữa Nhà nƣớc, doanh nghiệp xuất khẩu gạo với nông dân trồng lúa trong
phân phối lợi nhuận do xuất khẩu gạo đạt giá cao. Khắc phục tình trạng bất hợp lý nhƣ lợi nhuận
xuất khẩu gạo tăng do giá cao, doanh nghiệp đƣợc lợi nhiều, nhƣng thu nhập của nông dân trồng lúa
không tăng tƣơng ứng, do giá đầu vào nhƣ phân bón, thuốc trừ sâu, thuê máy, công lao động còn
tăng cao và nhanh hơn giá bán lúa cho doanh nghiệp.
b) Nâng cao năng suất trong sản xuất nông nghiệp
- Thứ nhất, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, thay đổi giống cây, con truyền thống bằng
những giống cây, con mới với cơ cấu mới, để sản xuất đủ lƣơng thực, thực phẩm cho toàn xã hội.
- Thứ hai, thay đổi công cụ sản xuất và quy trình sản xuất, áp dụng các công cụ cải tiến, các máy móc
hiện đại… nhằm làm giảm hao phí lao động cho các khâu trong sản xuất nông nghiệp. Sắp xếp lại
công tác quản lý và phục vụ sản xuất để giảm hao phí lao động cho một đơn vị công việc trong chăn
nuôi, trồng trọt, tạo điều kiện giải phóng lao động nông nghiệp để chuyển sang phát triển các ngành
kinh tế khác.
- Thứ ba, điều chỉnh quy hoạch sản xuất lƣơng thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, tăng
năng suất đi đôi với nâng cao chất lƣợng nguồn lƣơng thực. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung
lúa hàng hóa và ngô làm thức ăn chăn nuôi; tận dụng điều kiện thích hợp của các địa bàn khác để sản
xuất lƣơng thực có hiệu quả. Nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo. Có chính sách bảo đảm lợi
ích của ngƣời sản xuất lƣơng thực. Hình thành các vùng rau, quả có giá trị cao gắn với phát triển cơ
sở bảo quản, chế biến.
- Thứ tƣ, phát triển và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng phƣơng
pháp nuôi công nghiệp gắn với chế biến sản phẩm; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp.
- Thứ năm, tăng cƣờng tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh
học kết hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng tạo và sử dụng giống cây, con có năng suất, chất
lƣợng và giá trị cao. Đƣa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận
chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi, trồng và chế biến
các sản phẩm nông nghiệp. Hạn chế việc sử dụng hóa chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một
số khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cƣờng đội ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của
cán bộ khuyến nông.
3.2.2.2 . Ổn định diện tích đất canh tác

Việc ổn định diện tích đất nông nghiệp là nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo an ninh
lƣơng thực quốc gia hiện nay. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của diện tích đất canh tác nông
nghiệp, mới đây Chính phủ đã chính thức yêu cầu các địa phƣơng hạn chế tối đa việc chuyển đổi đất
nông nghiệp nhằm đảm bảo an ninh lƣơng thực. Theo đó, Chính phủ đã yêu cầu rà soát, kiểm tra đất
đai trên toàn quốc. Trong đó, chú trọng việc quản lý chặt chẽ đất nông nghiệp nói chung, đất trồng
lúa nƣớc nói riêng.
Các địa phƣơng cần hạn chế và tiến tới chấm dứt không sử dụng đất lúa, nhất là đất lúa thuộc diện
"bờ xôi, ruộng mật" để làm công nghiệp. Bên cạnh đó, không xét duyệt quy hoạch chuyển đổi đất
trồng lúa nƣớc sang sử dụng vào mục đích sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp ở những địa phƣơng có
điều kiện sử dụng các loại đất khác. Trƣờng hợp cần thiết phải chuyển đổi đất nông nghiệp, đặc biệt
là đất trồng lúa nƣớc, sang mục đích sử dụng khác, hoặc khi thực hiện các dự án có ảnh hƣởng đến
khu vực đất sản xuất nông nghiệp liền kề, cần phải có các giải pháp sử dụng đất tiết kiệm và bảo đảm
tính khả thi, an toàn cho sản xuất nông nghiệp. Cần xây dựng một bản đồ diện tích đất trồng lúa và
coi đó là vùng bất khả xâm phạm.

3.2.2.3. Chú trọng việc đào tạo nghề, tạo việc làm cho người nông dân bị mất đất nông nghiệp
Trên góc độ quản lý vĩ mô, Nhà nƣớc cần làm tốt các công việc sau đây:
- Có phƣơng án đào tạo, giải quyết việc làm cho ngƣời dân có đất bị thu hồi để họ chuyển đổi nghề
nghiệp. Phƣơng án đào tạo phải gắn với phƣơng án sử dụng, bố trí việc làm cho ngƣời dân sau khi
đƣợc đào tạo.
- Có chế tài cụ thể bắt buộc quy định trách nhiệm, nghĩa vụ đối với các đơn vị sử dụng đất trong việc
giải quyết việc làm cho ngƣời nông dân bị mất đất.
- Khuyến khích phát triển mạnh các nghề thủ công truyền thống, các nghề phi nông nghiệp ở nông
thôn.
Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để giải quyết có hiệu quả lao động,
việc làm ở nông thôn, tăng cƣờng đầu tƣ kết cấu hạ tầng, khuyến khích kinh tế tƣ nhân phát triển, mở
rộng khu vực dịch vụ ở nông thôn, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến… Tất cả các giải pháp
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều phải hƣớng vào việc thực hiện mục tiêu tạo việc làm cho ngƣời lao
động nông thôn. Bên cạnh các giải pháp về kinh tế, Nhà nƣớc cần đầu tƣ có hiệu quả vào các chƣơng
trình xóa đói giảm nghèo, chƣơng trình xúc tiến việc làm, xuất khẩu lao động…

3.2.2.4. Chủ động đề phòng, khắc phục những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và dịch bệnh
Biến đổi khí hậu là hiện tƣợng tự nhiên, tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Khắc
phục và giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu đang là nhiệm vụ quan trọng của các cấp, các ngành
và toàn xã hội. Để thực hiện đƣợc điều này, cần thực hiện tốt các công việc sau đây:
- Tăng cƣờng đầu tƣ của Nhà nƣớc cho công tác bảo vệ môi trƣờng, nâng cao năng lực nghiên cứu
khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trƣờng, đánh giá các yếu tố môi trƣờng trên toàn quốc, khắc
phục tình trạng ô nhiễm và tăng cƣờng đa dạng sinh học…
- Hoàn thiện hệ thống tổ chức các cơ quan nghiên cứu về biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai;
hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật hệ thống trạm dự báo khí hậu, tăng cƣờng hoạt động giám sát về
biến đổi khí hậu.
- Cần thúc đẩy việc trồng và bảo vệ rừng. Quy hoạch lại các vùng sản xuất, thích nghi hoạt động sản
xuất với biến đổi khí hậu.
- Cần nâng cao nhận thức của ngƣời dân về tác động của biến đổi khí hậu, từ đó ngƣời dân tự động
bảo vệ môi trƣờng, góp phần làm trong sạch môi trƣờng nói chung và giảm thiểu tác hại của biến đổi
khí hậu nói riêng.
3.2.2.5. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn
Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn đƣợc coi là bƣớc đột phá trong xây dựng nông thôn mới. Nhà nƣớc
cần tăng cƣờng đầu tƣ phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, đồng thời cần có chính sách phù hợp để huy
động sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Các chính sách và biện pháp cụ thể bao gồm:
- Tăng đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu
quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nƣớc, vốn rừng gắn với bảo vệ môi trƣờng.
- Chú trọng điện khí hóa, cơ giới hóa ở nông thôn. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với
vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công và dịch vụ; liên kết nông
nghiệp – công nghiệp – dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nƣớc.
- Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thủy lợi ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, bảo
đảm tƣới, tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp (kể cả cây công nghiệp, nuôi, trồng thủy
sản) và đời sống nông dân.
- Chú trọng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thƣơng mại ở nông thôn, đặc biệt là hệ thống các chợ,
trung tâm thƣơng mại, kho chứa, bến bải, cảng… nhằm tăng cƣờng hiệu quả của hệ thống phân phối
lƣơng thực, thực phẩm cũng nhƣ các đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp.

3.2.2.6. Tăng cường năng lực dự trữ lương thực và cải thiện hiệu quả chuỗi cung ứng nông nghiệp
Đảng và Nhà nƣớc nên chủ động hơn trong khâu dự trữ lƣơng thực bằng việc tập hợp các chuyên gia
nông nghiệp giỏi có kinh nghiệm trong dự báo những biến động của tình hình nông nghiệp trong
nƣớc và thế giới, mở các hội thảo có chất lƣợng bàn về an ninh lƣơng thực và những vấn đề liên quan
đến nhu cầu lƣơng thực toàn cầu.
Để đảm bảo thị trƣờng không gặp phải những đợt sốt giá lƣơng thực ảo nhƣ thời gian vừa qua, Chính
phủ cần có sự hỗ trợ đầu tƣ cho nông dân tăng cƣờng năng lực dự trữ lƣơng thực. Thời gian dự trữ
lúa gạo của các nông hộ không dài nhƣng nông dân rõ ràng bị hạn chế về kho chứa và nhu cầu tiền
mặt để hoàn trả các khoản nợ chi phí sản xuất. Một hệ thống tín dụng tốt ở nông thôn có thể giúp cho
việc này. Ngoài ra, cần cải thiện hiêu quả của chuỗi cung ứng nông nghiệp, bao gồm cả giảm thuế
nhập khẩu đầu vào cho vật tƣ nông nghiệp, và giảm thuế đối với thƣơng mại nông sản trong nƣớc.
3.2.2.7. Nâng cao nhận thức của người dân nói chung và nông dân nói riêng về an ninh lương thực
Nông dân là lực lƣợng chính trong sản xuất nông nghiệp nhƣng trên thực tế nhận thức của họ về an
ninh lƣơng thực còn rất hạn chế. Phần lớn ngƣời dân đều hiểu một cách đơn giản lƣơng thực là thóc,
gạo, đảm bảo an ninh lƣơng thực là đảm bảo không thể thiếu thóc, gạo. Chính vì vậy, nông dân chỉ
quan tâm làm sao để sản xuất nhiều lƣơng thực, tăng thu nhập, cải thiện đời sống mà không hiểu đầy
đủ khái niệm và các đặc trƣng cơ bản của an ninh lƣơng thực là gì. Ý thức đối với vấn đề sản xuất
lƣơng thực, thực phẩm sạch, an toàn cũng chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc nâng cao
nhận thức về an ninh lƣơng thực cho nông dân là hết sức cần thiết. Cần khắc phục tính chất tự cấp, tự
túc và tự phát trong sản xuất nông nghiệp, xu hƣớng chạy theo lợi nhuận, mong muốn đạt đƣợc năng
suất, sản lƣợng cao bằng mọi giá… Tăng cƣờng các hoạt động để ngƣời nông dân quan tâm nhiều
hơn tới chất lƣợng của sản phẩm và sức cạnh tranh cũng nhƣ độ an toàn của lƣơng thực.
KẾT LUẬN
Luận văn đã làm rõ quan niệm an ninh lƣơng thực của quốc gia trong mối quan hệ với an ninh kinh
tế; vai trò của an ninh lƣơng thực cũng nhƣ nội dung của an ninh lƣơng thực; những tác động của
toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đến an ninh lƣơng thực quốc gia.
Luận văn phân tích thực trạng an ninh lƣơng thực của Việt Nam trong thời gian qua. Khẳng định
những thành tựu trong đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc gia qua các nội dung: sự sẵn có lƣơng thực,
tiếp cận lƣơng thực của ngƣời dân, sự ổn định của lƣơng thực và tiêu dùng lƣơng thực đảm bảo an
toàn, chất lƣợng. Đồng thời cũng chỉ ra nhiều hạn chế của an ninh lƣơng thực. Luận văn cũng đã nêu

lên các cơ hội và nhất là thách thức mà Việt Nam phải đối mặt để đảm bảo an ninh lƣơng thực bền
vững trong thời gian tới.
Luận văn cũng đã trình bày dự báo tình hình an ninh lƣơng thực của thế giới và dự báo về an ninh
lƣơng thực Việt Nam trong giai đoạn các năm 2015, 2020. Nêu các định hƣớng lớn và hệ thống các
giải pháp đảm bảo an ninh lƣơng thực.
Do hạn chế về thời gian và trình độ, luận văn chƣa đi sâu phân tích các nội dung của việc đảm bảo an
ninh lƣơng thực gắn với phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam; chƣa đi sâu, phân tích nghiên cứu
kinh nghiệm đảm bảo an ninh lƣơng thực của một số quốc gia tiêu biểu, để rút ra các bài học kinh
nghiệm cho việc xây dựng chiến lƣợc an ninh lƣơng thực của Việt Nam.
Trong thời gian tới, tác giả mong muốn sẽ đƣợc tiếp tiếp tục nghiên cứu vấn đề an ninh lƣơng thực ở
cấp độ cao hơn. Do đó, một số vấn đề cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu là: An ninh lƣơng thực của Việt
Nam trong tổng thể an ninh quốc gia; Những tác động từ hội nhập kinh tế quốc tế đến an ninh lƣơng
thực, an ninh kinh tế quốc gia; Nghiên cứu kinh nghiệm đảm bảo an ninh lƣơng thực của một số quốc
gia tiêu biểu, để rút ra các bài học kin nghiệm cho việc xây dựng chiến lƣợc an ninh lƣơng thực của
Việt Nam.

References.
Tiếng Việt
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2008), Tuần tin kinh tế - xã hội, số 10.
2. Vƣơng Dật Châu và cộng sự (1999), An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
3. Chính phủ Nƣớc CHXHCNVN (2009), Nghị quyết số 63/NQ CP về đảm bảo ANLT quốc gia.
4. Chƣơng trình phát triển Liên hợp quốc (2005), Báo cáo phát triển con người 2005, Nxb Thế
giới, Hà Nội, 2006.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Ngân hàng Thế giới (2008), Báo cáo phát triển thế giới 2008, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
8. Chu Tiến Quang (2008), “Sản xuất lúa gạo gắn với đảm bảo An ninh lƣơng thực”, Tạp chí
thông tin và dự báo kinh tế xã hội, số 3.
9. Đặng Kim Sơn và Hoàng Thu Hòa (2002), Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp và nông

thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Thanh (2007), Thành viên WTO thứ 150 – bài học từ các nước đi trước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Xuân Thắng và cộng sự (2006), Chênh lệch phát triển và an ninh kinh tế ở ASEAN,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Tổng cục Thống kê (2011), Tình hình kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
13. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ƣơng (2008), Kinh tế Việt Nam 2008, Nxb Tài
chính, Hà Nội.
14. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ƣơng (2008), Đảm bảo an ninh lương thực trên thế
giới và ở Việt Nam, Hà Nội
15. Viện Kinh tế Thế giới (2001), An ninh kinh tế ASEAN và vai trò của Nhật Bản, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.

Tiếng Anh
16. FAO (2002), Trade reform and security food, Rome.
17. Kazunari Tsukada (2007), Vietnam: food security in a rice – exporting country”
18. Nguyen Van Ngai (2010), “food security and economic development in Vietnam”

Các trang Web
19. .
20. .
21. http://www. fao.vn.
22. http://www. undp.vn.
23.
24. .
25. .
26.
27.
28. .

29. .




×