Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính tiền tệ và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.59 KB, 17 trang )

Phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á
với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài
chính - tiền tệ và bài học cho Việt Nam



Lê Vân Anh



Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: TS. Võ Trí Thành
Năm bảo vệ: 2007


Abstract: Khái quát những vấn đề lý luận chung về khủng hoảng tài chính-tiền tệ và vai
trò của IMF trong hệ thống tài chính quốc tế nói chung và đối với khủng hoảng tài chính-
tiền tệ nói riêng. Phân tích quan điểm và chính sách hỗ trợ của IMF và đánh giá sự phối
hợp giữa các chính phủ Châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính tiền
tệ. Từ đó rút ra bài học cho Việt Nam về việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính
tiền tệ trong quá trình phát triển đặc biệt là trong quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập
kinh tế quốc tế

Keywords: Chính sách; Khủng hoảng kinh tế; Quỹ tiền tệ quốc tế; Tiền tệ; Tài chính


Content

MỞ ĐẦU


1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Sự thay đổi của
các thị trường tài chính cùng với mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước và những
điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF) là một trong những tổ chức tài chính quốc tế lớn đã có những đối sách, chương trình điều
chỉnh cơ cấu được coi là phương thuốc “điều trị” hay “cẩm nang” cho các cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ. Tuy nhiên những chính sách, chương trình hỗ trợ này của IMF khi thực thi ở mỗi
nước, có nước làm theo, có những nước chỉ làm một phần, thậm chí đi ngược lại và được thể hiện
trong sự khác biệt giữa các mức kết quả. Trong bối cảnh ấy, việc xem xét lại khủng hoảng tài chính
- tiền tệ và vai trò của IMF, xem xét lại bản thân tính thích hợp của chính sách ấy cả về lý luận và
thực tiễn, cách xử lý những bất đồng trong hoạch định chính sách cũng như cách thức phối hợp
thực thi chính sách giữa các chính phủ Châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài
chính - tiền tệ là rất có ý nghĩa.
Sau 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển
mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Với thế và lực mới, trên con đường phát triển của mình, Việt
Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế. Đi cùng với quá trình này,
Việt Nam cũng có thể phải đối mặt với những rủi ro tài chính, bất ổn tài chính do quá trình tự do
hoá thương mại và tự do cán cân thanh toán quốc tế đem lại. Trên cơ sở phân tích khái quát những
dấu hiệu, diễn biến, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á (1997-1998), đề
tài tập trung đánh giá sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc
phục khủng hoảng, qua đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng
tài chính - tiền tệ. Mặc dù khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa xảy ra ở Việt Nam, song nghiên cứu
những vấn đề của quốc tế lại có ý nghĩa hết sức thiết thực trong việc phòng ngừa khủng hoảng, đặc
biệt những bất ổn và rủi ro tài chính vẫn còn tiềm ẩn trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu rộng vào sân chơi quốc tế. Xuất phát từ lý do đó, học viên chọn đề tài “Phối hợp chính sách
giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ và
bài học cho Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á và các chính sách hỗ trợ của Quỹ tiền tệ

quốc tế (IMF) là một trong những vấn đề đƣợc đặc biệt quan tâm của các nhà nghiên cứu
trong nhiều năm nay. Liên quan đến chủ đề này, có một số công trình nghiên cứu trong và
ngoài nƣớc, tiêu biểu nhƣ sau:
- Võ Tá Hân, Trần Quốc Hùng, Vũ Quang Việt (2000), Châu Á từ khủng hoảng nhìn về
thế kỷ 21, NXB TP. HCM.
- Võ Trí Thành (chủ biên) (2004), Thị trường tài chính Việt Nam: thực trạng, vấn đề và
giải pháp chính sách, NXB Tài chính.
- Nguyễn Thiện Nhân (2002), Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1999:
Nguyên nhân, hậu quả và bài học với Việt Nam, NXB ĐHQG TP.HCM.
- GS.TS. Hồ Xuân Phương, TS. Vũ Đình Ánh (2003), Giải pháp phòng ngừa khủng hoảng tài
chính - tiền tệ ở Việt Nam, NXB Tài chính.
- G.Corsetti, P.Pesenti, N.Roubini (1998), “What caused the Asian currency and
financial crisis?”
- Nhiều tác giả (2007), Ten Years after the Asian Financial Crisis: Vulnerabilities of
East Asisa, Bangkok Conference, 26-27 February 2007.
- IMF Vietnam Country Report No. 06/421 (November 2006).
Các công trình trên đây mặc dù có đề cập và phân tích nhiều vấn đề khác nhau của cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á và chính sách hỗ trợ của IMF. Tuy nhiên, xoay quanh vấn
đề này vẫn còn một số câu hỏi chưa có câu trả lời thoả đáng như: Liệu những chính sách của
IMF nhằm khắc phục khủng hoảng có thật sự là phương thuốc chung cho mọi quốc gia? Sự phối
hợp thực thi chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng
tài chính - tiền tệ ra sao? Và bài học nào được rút ra cho Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện
Việt Nam hội nhập sâu rộng vào các tổ chức quốc tế khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở khái quát hoá những vấn đề lý luận chung về khủng hoảng tài chính - tiền tệ
và vai trò của IMF trong hệ thống tài chính quốc tế nói chung và đối với khủng hoảng tài chính -
tiền tệ nói riêng, đề tài đánh giá sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF
trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ để từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong
quá trình phát triển, đặc biệt là trong quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế.

 Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể
như sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về khủng hoảng tài chính - tiền tệ và vai trò của
IMF trong hệ thống tài chính quốc tế và đối với các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ.
- Phân tích quan điểm và chính sách hỗ trợ của IMF nhằm khắc phục khủng hoảng, các
chính sách khắc khục khủng hoảng của một số chính phủ châu Á và đánh giá kết quả
phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng
hoảng tài chính - tiền tệ.
- Rút ra bài học cho Việt Nam trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính -
tiền tệ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với
IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998.
- Phạm vi nghiên cứu:
Dưới góc độ Kinh tế chính trị, luận văn giới hạn trong việc nghiên cứu về sự phối hợp chính sách
giữa các chính phủ châu Á (tập trung vào 4 nước Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc) với IMF
trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ giai đoạn 1997-1998. Đây là những nước đều ở khu vực
châu Á, đã từng xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong quá trình mở cửa, tự do hoá thương mại, tự
do hoá tài chính và tự do cán cân thanh toán quốc tế, đều được IMF hỗ trợ khi có khủng hoảng, nhưng
lựa chọn chính sách, phản ứng chính sách và kết cục của khủng hoảng lại không giống nhau. Trên cơ
sở đó, đề tài rút ra bài học về việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong quá trình
Việt Nam mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp cơ bản của Kinh tế Chính trị là phƣơng pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Những phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong luận văn
là: phƣơng pháp phân tích tổng hợp, hệ thống; phƣơng pháp lôgíc kết hợp với lịch sử;
phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, phƣơng pháp thống kê học để xử lý số liệu và phƣơng
pháp nghiên cứu so sánh kết hợp với phƣơng pháp nghiên cứu dự báo đƣợc đặc biệt chú ý

khi làm rõ những vấn đề cụ thể của Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Ngoài việc hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về
các mô hình khủng hoảng tài chính và làm rõ vai trò của IMF đối với hệ thống tài chính
quốc tế nói chung cũng nhƣ khủng hoảng tài chính - tiền tệ nói riêng, luận văn có những
đóng góp mới nhƣ sau:
- Đánh giá sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc
khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
- Rút ra một số bài học và định hƣớng vận dụng cho Việt Nam trong việc ngăn
ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng:
 Chương 1: Khủng hoảng tài chính - tiền tệ và vai trò của IMF
 Chương 2: Phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc
phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998
 Chương 3: Một số bài học về ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN

Chương 1
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ VAI TRÒ CỦA IMF

1.1 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
1.1.1 Nhận dạng bản chất khủng hoảng tài chính - tiền tệ
Khi xảy ra hiện tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh
toán về số lượng, thời hạn, chủng loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính.
Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù: Khủng hoảng ngân hàng; Khủng hoảng nợ
quốc gia; Khủng hoảng tiền tệ; Khủng hoảng thị trường chứng khoán; Khủng hoảng cán cân

thanh toán/ Cán cân vãng lai/ Cán cân vốn; Khủng hoảng khả năng/ tính thanh khoản; Khủng
hoảng ngân sách.
Đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất hiện thêm
nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.1.2 Các mô hình khủng hoảng cơ bản
1.1.2.1 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được P. Krugman (1979) xây dựng và chủ yếu đặc
trưng cho các cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai trong điều kiện tỷ giá cố định bị các hoạt động
đầu cơ tấn công. Mô hình này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số nước
châu Mĩ La tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong những năm 1990.
1.1.2.2 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld (1994 và 1995) xây dựng. Khủng hoảng
dạng này còn được gọi là khủng hoảng tự phát sinh (self-fulfilling crisis), có thể xảy ra ở những nước
có mức độ yếu kém về tài chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định của
Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảo vệ tỷ giá quá tốn kém. Biến thể khác của mô hình khủng
hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ tình trạng thông tin không hoàn hảo và mất đối xứng. Mô hình này
có thể thấy trong cuộc khủng hoảng của Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1992-1993.
1.1.2.3 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999) xây dựng, đặc trưng
cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Khủng hoảng tài khoản
vốn thường dẫn đến khủng hoảng “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng.
Việc tự do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho
cuộc khủng hoảng kép: (i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai; và (ii)
Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng quá lớn. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á 1997-1998 được
coi là ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ còn có tính chất lan truyền
mạnh mẽ đối với nhiều nước trong khu vực và toàn thế giới, do đó không chỉ đòi hỏi nỗ lực của
Chính phủ quốc gia mà còn cần có sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế mà trước hết là những tổ
chức tài chính quốc tế lớn, có chức năng bảo vệ sự ổn định lâu dài hệ thống tài chính - tiền tệ thế

giới như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
1.2 VAI TRÒ CỦA IMF TRONG HỆ THỐNG TÀI CHÍNH QUỐC TẾ VÀ ĐỐI VỚI
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
1.2.1 Vài nét về IMF
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là một tổ chức chuyên trách của hệ thống Liên Hiệp Quốc
được thành lập theo Hiệp định năm 1945 để giúp tăng cường sức mạnh của nền kinh tế thế giới.
Trụ sở chính của Quỹ được đặt tại Washington D.C và do 184 nước thành viên trên toàn cầu điều
hành.
IMF là một thể chế trung tâm của hệ thống tiền tệ quốc tế - hệ thống của các thanh toán quốc
tế và tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia để cho phép việc giao dịch kinh doanh giữa các
nước diễn ra một cách trôi chảy. Quỹ giám sát hệ thống này và đưa ra khuôn khổ thể chế toàn cầu,
thông qua đó các nước hợp tác về các vấn đề tiền tệ quốc tế.
Các mục đích của IMF gồm thúc đẩy sự phát triển cân bằng thương mại thế giới, ổn định các tỷ
giá hối đoái, tránh việc phá giá tiền tệ cạnh tranh và hiệu chỉnh có trật tự các vấn đề khó khăn về cán
cân thanh toán.
1.2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
IMF được thành lập vào tháng 7 năm 1944 tại một hội nghị của Liên Hiệp Quốc được tổ
chức tại Bretton Woods, bang New Hampshire của Mỹ, khi đại diện của 44 quốc gia đã nhất trí về
một khuôn khổ cho sự hợp tác kinh tế để tránh lặp lại những chính sách kinh tế góp phần vào cuộc
Đại Suy thoái trong những năm 1930. Ngày 27/12/1945 điều lệ thành lập IMF đã được 29 nước đầu
tiên nhất trí ký kết. IMF bắt đầu hoạt động vào ngày 1/3/1947 và tiến hành cho vay khoản đầu tiên
vào ngày 8/5/1947.
Số lượng thành viên năm 2005 đã tăng gấp 4 lần so với con số năm 1945 khi IMF mới
được thành lập.
1.2.1.2 Nguồn vốn của IMF
Nguồn vốn của IMF chủ yếu là từ đóng góp cổ phần (hoặc vốn) của các nước thành viên
khi họ gia nhập IMF, hoặc sau các cuộc kiểm điểm định kỳ để tăng cổ phần đóng góp.
Hiện nay, năm quốc gia có hạn mức cổ phần đóng góp lớn nhất là Mỹ, Nhật Bản, Đức,
Anh và Pháp. Đặc biệt, 10 nước công nghiệp phát triển hàng đầu đã chiếm hơn 50% tổng số vốn,
đồng thời theo quy định, các quyết định lớn của IMF chỉ được thông qua khi chiếm được ít nhất

85% số phiếu bầu. Các nước đang phát triển chiếm khoảng 40% quyền bỏ phiếu, cũng có quyền
phủ quyết rất lớn đối với các chính sách của IMF. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận được
rằng Mỹ và các nước công nghiệp hoá, những nước nắm giữ hầu hết cổ phần của IMF chính là
người quyết định các chính sách của IMF.
1.2.1.3 Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có:
Ban Các Thống đốc (Board of Governors) là nơi tập hợp tất cả đại diện của các nước
thành viên, cũng là Ban có quyền lực cao nhất quản lý và giám sát IMF.
Các chính sách chủ chốt ban hành ra có liên quan đến hệ thống tiền tệ quốc tế được một
uỷ ban của các Thống đốc được gọi là Uỷ ban Tài chính và Tiền tệ Quốc tế (IMFC) xem xét hai
lần mỗi năm.
Một Uỷ ban hợp tác liên kết giữa Ban Các Thống đốc của IMF và WB được gọi là Uỷ
ban Phát triển tư vấn báo cáo đến các Thống đốc về các chính sách phát triển và các vấn đề khác
có liên quan đến các nước đang phát triển
Ban Giám đốc điều hành bao gồm 24 giám đốc điều hành, có Chủ tịch là Tổng Giám đốc
điều hành. Ban Giám đốc điều hành chọn ra Tổng Giám đốc điều hành và 3 Phó Giám đốc điều
hành khác trợ giúp.
IMF có khoảng 2.700 cán bộ nhân viên đến từ 140 nước trên thế giới, phần nhiều trong
số đó làm việc trụ sở chính tại Washington D.C. Một số nhỏ cán bộ làm việc tại các văn phòng
khu vực và văn phòng địa phương trên khắp thế giới.
1.2.1.4 Sự khác biệt giữa Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới

IMF tập trung chủ yếu vào việc các nước cần làm gì để đạt được và duy trì sự ổn định kinh
tế và tài chính tổng thể là điều rất cần thiết cho một sự tăng trưởng kinh tế khoẻ mạnh. WB được
thành lập để thúc đẩy sự phát triển kinh tế dài hạn và giảm nghèo, cũng như giúp tài trợ các dự
án cụ thể. IMF thường được kêu gọi đầu tiên là để giúp một nước gặp khủng hoảng tài chính,
trong khi WB là một nguồn lớn nhất thế giới về hỗ trợ phát triển. Hai tổ chức này hợp tác trên
một số vấn đề, đặc biệt là giảm nghèo tại các nước có thu nhập thấp.
1.2.2 Vai trò của IMF
Như vậy, IMF chịu trách nhiệm đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính và tiền tệ quốc

tế, hệ thống thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền, thúc đẩy thương mại giữa
các nước. IMF tìm cách duy trì ổn định và phòng ngừa khủng hoảng kinh tế; hỗ trợ giải quyết
khủng hoảng một khi xảy ra; thúc đẩy phát triển và giảm đói nghèo. Quỹ sử dụng 3 chức năng
chính là giám sát, hỗ trợ kỹ thuật và cho vay để thực hiện các mục tiêu này.
1.2.2.1 Tư vấn chính sách và giám sát kinh tế vĩ mô
Giám sát là hình thức cố vấn chính sách thường niên của IMF đối với các nước thành
viên. Với chức năng này, IMF chủ yếu có vai trò tư vấn, giúp phân tích tình hình kinh tế của một
nước thành viên và cảnh báo những vấn đề thực tế hoặc tiềm ẩn bắt nguồn từ các chính sách của
những nước này, và duy trì toàn bộ thành viên được thông báo về các diễn biến này.
1.2.2.2 Trợ giúp tài chính
Trợ giúp tài chính thường là việc IMF cung cấp ngoại tệ chuyển đổi để tăng cường dự trữ
ngoại tệ của nước thành viên đang gặp khó khăn, nhưng chỉ khi có cam kết của chính phủ cải
cách các chính sách kinh tế, đặc biệt là cải cách cơ cấu và cán cân thanh toán và tăng trưởng theo
hướng bền vững.

1.2.2.3 Hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo
IMF cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo chủ yếu trong 4 lĩnh vực sau:
 Củng cố khu vực tài chính và tiền tệ thông qua việc tư vấn về quy định điều tiết, giám
sát và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, các hoạt động quản lý ngoại hối, hệ thống thanh toán bù
trừ, cũng như cơ cấu và sự phát triển của các Ngân hàng Trung ương;
 Hỗ trợ các chính sách và quản lý tài khoá vững mạnh thông qua tư vấn về các chính
sách, quản lý thuế và hải quan, lập ngân sách, quản lý chi ngân sách, thiết kế hệ mạng lưới an
sinh xã hội, và quản lý nợ trong và ngoài nước;
 Biên soạn, quản lý và phổ biến các dữ liệu thống kê và cải tiến chất lượng của dữ liệu.
 Soạn thảo và rà soát khuôn khổ luật pháp về kinh tế và tài chính.

Chương 2
PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU Á VỚI IMF TRONG VIỆC
KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 1997-1998


2.1 KHÁI QUÁT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ CHÂU Á 1997-1998
VÀ CHÍNH SÁCH CỦA IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG
2.1.1 Khái quát về cuộc khủng hoảng
2.1.1.1 Bối cảnh kinh tế các nước châu Á trước khủng hoảng
Trong hơn hai thập niên vừa qua, các nước Đông Á và Đông Nam Á đã tăng trưởng nhanh
và liên tục (khoảng 7-8% mỗi năm so với 2% ở các nước công nghiệp hoá), thu hút sự chú ý của
giới kinh doanh và đầu tư quốc tế, và đều có một số điểm giống nhau, được các nhà kinh tế nêu
thành khái niệm “mô hình phát triển Đông Á”.
Sở dĩ các nước Đông Á có được sự phát triển “thần kỳ” này là do trong suốt thời gian từ
thập kỷ 1960 đến đầu thập kỷ 1990, các nước này đã lợi dụng được tình hình kinh tế và chính trị
thế giới thuận lợi cho công cuộc phát triển của mình. Tuy nhiên, từ cuối thập kỷ 1980 đến đầu
những năm 1990, tình hình biến chuyển theo chiều hướng bất lợi cho các nước trong khu vực:
Kết thúc chiến tranh lạnh cùng với quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã làm thay đổi cơ
bản môi trường kinh doanh thế giới. Trong suốt những năm 1990, nền kinh tế Nhật bị ngưng trệ,
và đặc biệt từ giữa thập kỷ 1990, Trung Quốc đã vươn lên cạnh tranh sản xuất và xuất khẩu hàng
hoá với các nước Đông Á vốn coi đó là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của mình.
2.1.1.2 Những dấu hiệu trước khi khủng hoảng xảy ra
 Tình trạng mất cân đối trong cán cân vãng lai và một số vấn đề liên quan đến nền tảng
kinh tế vĩ mô, thể hiện ở những dấu hiệu: Thâm hụt cán cân vãng lai; tỷ lệ đầu tư cao nhưng hiệu
quả thấp (hệ số ICOR cao); tỷ lệ tiết kiệm cao nhưng lại chủ yếu được huy động vào ngân hàng
rồi đem cho vay lại hơn là thông qua thị trường cổ phiếu nên hệ số nợ trên vốn của các doanh
nghiệp lớn; tự do hoá tài khoản vốn không theo lộ trình trong khi giám sát các khoản vay nợ
kém, dẫn đến dòng vốn nước ngoài lớn, đặc biệt là vốn ngắn hạn phần lớn có tính chất đầu cơ;
tăng trưởng xuất khẩu giảm; những vấn đề bất ổn định chính trị và tính không nhất quán trong
thực thi chính sách kinh tế vĩ mô; tình trạng tham nhũng, móc ngoặc, vấn đề thiếu minh bạch
trong quản lý, v.v.
 Tình trạng yếu kém của hệ thống tài chính, biểu hiện ở: tỷ lệ cho vay quá mức lớn, tỷ lệ nợ
xấu cao, sự yếu kém trong hoạt động ngân hàng.
 Mất cân đối trong nợ nƣớc ngoài, biểu hiện ở: nợ nước ngoài lớn, chủ yếu liên quan
đến các ngân hàng trong nước; nợ nước ngoài so với tổng tài sản có của khu vực NH và phi NH

ở mức xấu nghiêm trọng; nợ ngắn hạn trên tổng nợ nước ngoài lớn, tỷ lệ dự trữ ngoại hối so với
nợ ngắn hạn nước ngoài lớn; tỷ lệ cung tiền rộng M2 so với dự trữ ngoại hối ở mức cao đáng
nguy hiểm; hệ thống kế toán, thống kê không đúng chuẩn mực thế giới.
2.1.1.3 Diễn biến cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á khởi đầu từ Thái Lan, sau đó lan sang các
nước láng giềng khác như Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc, v.v. Không dừng lại đó, cuộc
khủng hoảng còn lan sang các khu vực khác như Nga, Brazil, ảnh hưởng đến Mĩ, Nhật và một số
khu vực khác.
2.1.1.4 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998, xét trên cả cấp độ quốc gia, khu
vực và công ty, chính là sự tác động qua lại giữa 3 nhóm nguyên nhân: từ phía chính sách quản
lý vĩ mô của chính phủ, từ phía các nhà đầu tư trong nước và từ phía các nhân tố bên ngoài vượt
khỏi tầm kiểm soát khu vực.
 Sự bất cập trong chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ
Thứ nhất, sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành tỷ giá khiến các đồng bản tệ bị định
giá cao giả tạo trong một thời gian dài so với đồng USD.
Thứ hai, chính sách tự do hoá các hoạt động kinh tế không được tiến hành đồng bộ với việc
tăng cường giám sát hoạt động của các doanh nghiệp và các định chế tài chính.
Thứ ba, có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế (cơ cấu dòng chảy vốn nước ngoài), khiến
cán cân thương mại và cán cân vãng lai của các nước Đông Á thâm hụt nặng nề.
 Sai lầm của các nhà đầu tư trong nước
Là những người trực tiếp thực hiện các quyết định đầu tư, các nhà đầu tư trong nước của
khu vực châu Á phải là người chịu trách nhiệm hàng đầu về số phận doanh nghiệp do họ làm chủ
từ cả ba phía: cơ cấu vốn vay, cơ cấu đầu tư và kỹ năng thích ứng thị trường.
 Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước trong khu vực
 Chính sách tiền tệ của các nước lớn cả trong và ngoài khu vực châu Á;
 Ảnh hưởng của những hoạt động đầu cơ tiền tệ đã thổi phồng các cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ và làm gia tăng khả năng lây nhiễm;
 Sự tham gia của một số nước mới mà đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường
xuất khẩu của các nước Đông Nam Á với giá thành sản xuất thấp;

 Đặc tính biến đổi nhanh chóng của tương quan cung - cầu và vòng đời sản phẩm trên
thị trường quốc tế;
 Thiếu vắng cả một cơ chế giám sát, phối hợp và trợ giúp mang tính khu vực giữa các
nước thuộc khu vực châu Á nói chung và Đông Á nói riêng.
Tuy nhiên, xét cho đến cùng, những nguyên nhân từ phía bản thân các nước bị khủng
hoảng mới là lý do chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng đó. Do vậy để giải quyết một cách triệt
để cuộc khủng hoảng, bản thân mỗi nước phải tự giải quyết những vấn đề của riêng mình trước
khi đổ lỗi cho các tác nhân bên ngoài.
2.1.2 Quan điểm của IMF và các chính sách hỗ trợ
2.1.2.1 Quan điểm, nhận định của IMF về cuộc khủng hoảng
Theo nhận định của IMF và một số nhà phân tích, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ
châu Á thực chất vẫn là do nguyên nhân bên trong mỗi quốc gia, song tính chất của cuộc khủng
hoảng lại mang tính quốc tế sâu sắc, có sức lan toả rộng rãi.
2.1.2.2 Nội dung các chính sách hỗ trợ của IMF
IMF đã phản ứng nhanh bằng cách hỗ trợ tài chính khẩn cấp cho các nước bị ảnh hưởng
mạnh nhất như Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippines. Tuy nhiên, để nhận được khoản tín
dụng này, các nước bị khủng hoảng phải chấp nhận “giải pháp cả gói” do IMF đưa ra như sau:
+ Phá giá nội tệ; áp dụng ngay phương thức tỷ giá hối đoái linh hoạt;
+ Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm hạn chế áp lực đối với cán cân thanh toán
bằng cách nâng cao lãi suất để thu hút ngoại tệ và tiền gửi;
+ Giảm nhu cầu ngoại tệ bằng cách giảm tốc độ phát triển thông qua việc cắt giảm các dự
án đầu tư lớn;
+ Duy trì chính sách tài chính lành mạnh, thực hiện cân bằng ngân sách nhà nước;
+ Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ để giữ mức lạm phát thấp.
Đóng vai trò hạt nhân và là trung tâm trong những chương trình do IMF hỗ trợ đó là cải
cách cơ cấu tài chính một cách mạnh mẽ và sâu rộng, nhằm xoá bỏ những đặc điểm yếu kém
của nền kinh tế gây cản trở cho sự phát triển (như độc quyền, hàng rào thương mại, tính chất
không minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp…) và nhằm cải thiện tính hiệu quả của các
định chế tài chính trung gian cũng như tính lành mạnh của hệ thống tài chính.
Ngoài ra IMF còn bước đầu hỗ trợ bằng quá trình công khai hoá đầy đủ tất cả các dữ liệu

kinh tế và tài chính quan trọng trên trang chủ, những dự định thư giải trình các kế hoạch cải cách
kinh tế của các nước, trên cơ sở đó IMF cung cấp những số liệu, dự báo tin cậy và kịp thời cho
các quốc gia đã bị khủng hoảng nhưng đang trong quá trình cải cách và các quốc gia có nguy cơ
khủng hoảng. IMF cũng ra sức phối hợp với các định chế tài chính quốc tế khác như WB, ADB
cũng như các nhà tài trợ song phương và đa phương nhằm tập trung hỗ trợ cho các chương trình
cải cách kinh tế ở những quốc gia chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Ngoài ra,
IMF cũng nỗ lực thúc đẩy các quốc gia trong việc quản lý nhà nước và chống tham nhũng.
2.2 CHÍNH SÁCH KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG CỦA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU Á
TRÊN CƠ SỞ HỖ TRỢ CỦA IMF
Dưới sự hỗ trợ của IMF cả về tài chính, kỹ thuật và tư vấn, giám sát, các nước trong khu vực
đều tìm mọi cách để thoát nhanh ra khỏi khủng hoảng. Mặc dù thời điểm xuất phát và cách thức tiến
hành khác nhau, song nổi bật vẫn là những chính sách, biện pháp chung được áp dụng:
2.2.1 Huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nƣớc
Trước những khó khăn nặng nề do cuộc khủng hoảng tài chính gây ra thì sự cứu trợ tài
chính của cộng đồng quốc tế, đặc biệt IMF là biện pháp cần thiết tạo điều kiện cho các nước có
thể thoát nhanh ra khỏi cuộc khủng hoảng. Trong chừng mực nhất định, IMF vẫn là tổ chức có
những tác động tích cực để cải thiện hệ thống tài chính cũng như kinh tế các nước bị khủng
hoảng.
2.2.2 Cải thiện hệ thống tài chính quốc gia
Do “uống thuốc” của IMF và do những thúc bách từ bên trong, các nước bị khủng hoảng
trong khu vực đều coi việc tăng năng lực tài chính và lành mạnh hoá khu vực tài chính là điều
kiện tiên quyết cho ổn định và phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, mỗi nước đều có mối quan tâm riêng đến việc khắc phục các hậu quả xã hội
của khủng hoảng: ổn định giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, trợ giúp thất nghiệp, đào tạo
lại nhân lực…
2.3 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ
CHÂU Á VỚI IMF TRONG VẤN ĐỀ KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH - TIỀN TỆ
2.3.1 Đánh giá hiệu quả của chính sách
2.3.1.1 Sự khác biệt về các mức kết quả trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền

tệ ở các nước Đông Á
Có thể thấy rằng khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô
nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số
nước châu Á. Nhiều ngân hàng, doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống
dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Tuy nhiên, trong số ba nước chịu tác động nặng nề nhất thì có thể thấy Hàn Quốc là nước
thực thi bài bản nhất phương thuốc của IMF. Tiến trình cải cách ở Hàn Quốc có sự lãnh đạo rõ
ràng và nhất quán của người lãnh đạo chính trị cao nhất, có chương trình hành động và áp lực
của Chính phủ, vì vậy cải cách đã diễn ra một cách tương đối khẩn trương và tiến xa nhất so với
các nước trong khu vực.
Kinh nghiệm của Malaysia được nhiều người coi đó là một thành công vì vừa giữ được
ổn định trong nước, vừa khôi phục hệ thống ngân hàng, vừa hạn chế dòng chảy vốn ngắn hạn có
tính chất đầu cơ, vừa thu hút được nhiều FDI, trong khi vẫn tránh khỏi việc phải lệ thuộc quá
nhiều vào IMF.
Indonesia là nước được coi là minh chứng rõ nét cho thấy phương thuốc của IMF không
những tỏ ra vô hiệu lực mà còn đẩy Indonesia vào một cuộc khủng hoảng xã hội và chính trị sâu rộng
hơn.
Về phần Thái Lan, mặc dù có nhiều tiến bộ, song tình trạng mất ổn định chính trị, bạo động
gia tăng và cuộc đảo chính gần đây, được coi là kết quả sau cuộc khủng hoảng năm 1997 là những
dấu hiệu cho thấy khả năng phục hồi hoàn toàn của Thái Lan là chưa thể tính đến nếu như tiến trình
bầu cử và việc thông qua Hiến pháp mới chưa được thực hiện.
2.3.1.2 Phê phán chính sách hỗ trợ của IMF
Công bằng mà đánh giá, có thể nói, sẽ không thể khắc phục được khủng hoảng nếu như
không có vai trò của IMF. Trên thực tế, có thể thấy chính sách của IMF đã có thành công nhất
định ở một số nước như Hàn Quốc. Một số nước khác ít thành công hơn, phục hồi chậm hơn,
thậm chí còn lún sâu vào khủng hoảng là do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến sai lầm và
sự thiếu hợp tác của các nước bị khủng hoảng. Cho nên nếu đổ lỗi hoàn toàn cho IMF cũng là
không công bằng.
Một số nội dung của vấn đề được đem ra phê phán thật ra là ở liều lượng của giải pháp chứ

không phải là chính giải pháp. Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc mỗi nước đều có sự khác
biệt cả về điều kiện, trình độ phát triển và khả năng phục hồi. Đó là chưa kể tới những vấn đề khác
biệt về thể chế nhà nước, chính trị, văn hoá, xã hội, cấu trúc kinh tế - tài chính v.v. Cho dù cùng một
bệnh, nhưng nếu có “tiểu sử”, “cơ địa” khác nhau thì liều lượng giải pháp cũng phải khác nhau.
Không thể máy móc áp dụng cùng một liều thuốc cho tất cả các “bệnh nhân”.
2.3.2 Đánh giá vai trò của sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF
trong việc khắc phục khủng hoảng
Trong khi đánh giá vai trò của sự phối hợp chính sách giữa các Chính phủ châu Á với
IMF, luận văn chỉ rõ nhân tố quan trọng cản trở các nước châu Á khắc phục khủng hoảng tài
chính - tiền tệ, đó là:
- Thiếu phối hợp chính sách trong việc khắc phục khủng hoảng giữa các chính phủ châu Á.
Việc thiếu hợp tác tài chính giữa các nước Đông Á càng khiến họ trở nên dễ bị tổn thương hơn khi phải
đối mặt riêng lẻ.
- Thiếu phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng
hoảng. Hệ thống kế toán, thống kê không phù hợp chuẩn mực quốc tế cùng với việc chậm công bố,
thậm chí che đậy thông tin của một số Chính phủ, sửa chữa số liệu, thông tin kinh tế, tài chính v.v. là
những tín hiệu bóp méo thị trường, tạo thông tin sai lệch và càng làm chậm tiến trình giải quyết hậu
quả của cuộc khủng hoảng.

Chương 3
MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ NGĂN NGỪA VÀ XỬ LÝ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

3.1 HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ NHỮNG NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH - TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
3.1.1 Tiến trình mở cửa, tự do hoá tài chính và hội nhập tài chính quốc tế của Việt Nam
từ năm 1986 đến nay
Thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế khởi xướng từ năm 1986 đến nay, kinh tế Việt Nam
đã từng bước chuyển đối từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu
rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Quá trình này bắt đầu từ việc xây dựng và phát triển hệ thống

ngân hàng 2 cấp và thị trường tài chính nhằm tạo ra một khu vực tài chính lành mạnh và hiệu
quả, đảm bảo tự do trong khu vực tài chính của Việt Nam.
Việc gia nhập WTO có thể mang lại nhiều cơ hội phát triển cho Việt Nam. Tuy nhiên,
việc hội nhập WTO nói chung, cũng như hội nhập tài chính quốc tế chỉ thực sự thành công khi
chúng ta có một nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt và một hệ thống tài chính lành mạnh. Kinh
nghiệm của các nước Đông Á trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998 là bài học
đắt giá cho các nước đi sau như Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu rộng vào sân chơi chung của thế giới.
3.1.2 Những nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
3.1.2.1 Nguy cơ từ bên trong
Những nguy cơ bên trong xuất phát từ nội tại của nền kinh tế, đó là:
 Tăng trưởng cao nhưng chất lượng tăng trưởng thấp;
 Thâm hụt ngân sách nhà nước;
 Mất cân đối trong cán cân thương mại, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO);
 Nợ nước ngoài có xu hướng tăng lên mặc dù vẫn nằm trong ngưỡng kiểm soát;
 Hệ thống tài chính - ngân hàng yếu kém;
 Điều hành chính sách tiền tệ - tỷ giá của Chính phủ còn nhiều bất cập.
3.1.2.2 Nguy cơ từ bên ngoài
Những nguy cơ từ bên ngoài xuất phát từ quá trình hội nhập, mở cửa, tự do hoá tài chính,
tự do hoá thương mại, hoặc do lây nhiễm khủng hoảng. Gần đây, ở Việt Nam xuất hiện thêm
nguy cơ về một cuộc khủng hoảng tài khoản vốn (mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba), đó là
dòng vốn gián tiếp chảy vào rất lớn thông qua đầu tư nước ngoài và kiều hối, tạo sức ép lên lạm
phát, trong đó một phần lớn được xác định là dòng vốn ngắn hạn có tính chất đầu cơ chứng
khoán.
Từ việc xác định những nguy cơ đối với nền kinh tế Việt Nam cả bên trong lẫn bên ngoài
lãnh thổ, có thể thấy khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam nếu xảy ra sẽ mang đặc thù sau:
- Khủng hoảng xuất phát từ khu vực kinh tế nhà nước nhiều hơn từ các khu vực kinh tế
khác;
- Khủng hoảng tài chính sẽ có dạng thức của khủng hoảng ngân hàng do những yếu kém

đặc biệt của khu vực này trong khi các định chế tài chính phi ngân hàng còn kém phát triển.;
- Với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc và điều kiện quốc tế khác hẳn so với năm 1997, có
thể nói khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa thể xảy ra ở Việt Nam trên diện rộng. Nếu có xảy ra
thì chỉ có thể là khủng hoảng cục bộ ở một số lĩnh vực của nền kinh tế. Song, trong quá trình mở
cửa, tự do hoá tài chính, tự do hoá tài khoản vốn, Việt Nam vẫn có thể phải đối mặt nhiều hơn
với những rủi ro tài chính, bất ổn tài chính. Những rủi ro hay bất ổn tài chính này ít hay nhiều
còn phụ thuộc phần lớn vào điều kiện nội tại của nền kinh tế, đặc biệt là sức mạnh của hệ thống
tài chính - ngân hàng. Ngoài ra, việc phối hợp chính sách giữa các quốc gia ở cấp vùng, giữa các
quốc gia với các tổ chức tài chính quốc tế như IMF là hết sức cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào hệ thống tài chính quốc tế.
3.2 VẬN DỤNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU Á TRONG
VIỆC NGĂN NGỪA VÀ XỬ LÝ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ Ở
VIỆT NAM
Việt Nam là một nước đi sau, đang trong quá trình hội nhập kinh tế - tài chính quốc tế
mạnh mẽ và sâu rộng có thể học hỏi và rút ra được bài học cho riêng mình nhằm ngăn ngừa và
xử lý khủng hoảng một cách hiệu quả nhất nếu có xảy ra.
3.2.1 Ngăn ngừa khủng hoảng tài chính - tiền tệ
3.2.1.1 Duy trì nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc
Một nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc là một trong những nhân tố đầu tiên cho phép các
quốc gia có thể chống chọi và giảm thiểu tác hại của các cú sốc kinh tế bên trong lẫn bên ngoài.
Hệ thống chỉ số phản ảnh nền tảng kinh tế vĩ mô tốt gồm có: tăng trưởng kinh tế cao và liên tục
đi đôi với cải thiện chất lượng tăng trưởng, chính sách tiền tệ giới hạn lạm phát thấp, tỷ lệ tiết
kiệm và đầu tư cao, nợ công của nhà nước được kiểm soát chặt chẽ đảm bảo khả năng hoàn trả,
dự trữ ngoại hối lớn, chính sách thu hút đầu tư, v.v.
3.2.1.2 Điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt theo nguyên tắc
thị trường
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy một tỷ giá ổn định và cạnh tranh là cần thiết đối
với một quốc gia đang phát triển hướng về xuất khẩu. Nó khiến cho các doanh nghiệp xuất khẩu
có thể duy trì tính cạnh tranh và tiến hành kinh doanh mà không phải chịu tác động gián đoạn
thái quá do biến động tỷ giá. Hiện nay, ngày càng có nhiều quốc gia chuyển sang chế độ tỷ giá

linh hoạt hơn để giảm bớt sức ép lên dự trữ quốc gia. Trong dài hạn, NHTW Việt Nam vẫn cần
phải kiên trì theo đuổi một chính sách tỷ giá linh hoạt có quản lý (managed flexible exchange
rate system), uyển chuyển và linh hoạt trong từng thời kỳ.
Đối với chính sách tiền tệ, NHNN cần điều hành một cách linh hoạt, thận trọng theo
nguyên tắc thị trường nhằm giảm áp lực tăng tổng phương tiện thanh toán, ổn định lãi suất thị
trường, tỷ giá, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và kiềm chế lạm phát ở mức thấp
hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức
tín dụng.
3.2.1.3 Chủ động xây dựng và cải cách hệ thống tài chính quốc gia
Để xây dựng một hệ thống tài chính lành mạnh trước hết cần tập trung vào các giải pháp
sau:
 Nhóm chính sách tài khoá
Nhóm chính sách này yêu cầu phải duy trì tỷ lệ thâm hụt NSNN ở mức hợp lý. Để giảm
thâm hụt ngân sách cần cải cách hệ thống thuế, phí và lệ phí nhằm tăng nguồn thu ngân sách,
chống thất thu, mặt khác cơ cấu lại chi ngân sách cho hợp lý, tránh lãng phí. Tất nhiên, việc cải
cách hệ thống thuế, phí và lệ phí phải được đặt trong bối cảnh tổng thể của việc giảm thuế theo
lộ trình của WTO và AFTA.
Ngoài ra, biện pháp quan trọng hơn là cần khuyến khích, đầu tư, phát triển các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh những mặt hàng có hàm lượng công nghệ với giá trị gia tăng cao.
Bước đầu chuyển đổi cơ cấu thu - chi NSNN theo hướng duy trì các quan hệ cân đối tài chính
hợp lý, từng bước chuyển những nội dung chi tiêu không thuộc phạm vi chức năng của NSNN
sang khu vực doanh nghiệp và dân cư.
 Nhóm chính sách vay nợ
Bài học từ các cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua cho thấy Chính phủ cần có các biện
pháp kiểm soát khối lượng và cơ cấu vay nợ nước ngoài, đặc biệt là nợ ngắn hạn, kể cả nợ khu
vực nhà nước và khu vực tư nhân. Mọi khoản vay nợ nước ngoài cần được theo dõi bởi các cơ
quan chức năng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ, tránh việc vay nợ tràn lan do các điều kiện vay
nợ quá dễ dãi từ kết quả của tự do hoá tài chính, nhất là việc sử dụng các khoản vay ngắn hạn để
đầu tư dài hạn. Chính vì vậy, chính sách vay nợ cần thận trọng, giữ tỷ lệ nợ so với GDP, tỷ lệ nợ
so với kim ngạch xuất khẩu ở mức an toàn. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tăng cường dự trữ ngoại

hối đủ để sẵn sàng đối phó với những biến động của dòng vốn.
 Nhóm cải cách hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng
- Triệt để xử lý nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng, tăng cường kiểm soát cho vay, xử
lý vấn đề thế chấp và bảo đảm tiền vay, nâng cao trình độ và trách nhiệm của cán bộ tín dụng
- Cần tách rời giữa cho vay thương mại và cho vay chính sách, chấm dứt tình trạng can
thiệp của các cấp chính quyền vào cho vay thương mại.
- Hoàn thiện chế độ và cơ chế thế chấp, tín chấp, giải quyết tài sản thế chấp, cầm cố sẽ
giúp cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng xử lý hậu quả đổ vỡ các hợp đồng tín dụng nhanh
nhạy và ít tốn kém hơn, phục hồi tài sản đã mất để tiếp tục hoạt động.
- Duy trì các quỹ phòng ngừa rủi ro và bảo đảm tiền gửi không chỉ củng cố niềm tin của
khách hàng vào hệ thống tín dụng mà còn cung cấp thêm những công cụ giúp cho toàn bộ hệ
thống này hoạt động lành mạnh hơn.
- Tăng cường năng lực giám sát hệ thống ngân hàng, không để xảy ra những sai phạm
liên tục và kéo dài. Kỷ luật tài chính được củng cố trên cơ sở công khai hoá các báo cáo tài
chính, tuân thủ các quy định kiểm toán bắt buộc hàng năm và nâng cao chất lượng kiểm toán nội
bộ là biện pháp góp phần ngăn chặn các biểu hiện không lành mạnh trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng.
 Nhóm kiểm soát thị trường tài chính
Kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy thị trường tài
chính (TTTC) đặc biệt nhạy cảm và rất dễ bị tổn thương trước những tác động bên trong cũng
như bên ngoài. Bên cạnh các công cụ tài chính như sử dụng dự trữ (ngoại tệ, nội tệ, chứng
khoán), nghiệp vụ thị trường mở, thuế, phí… còn có thể sử dụng các công cụ hành chính khi
thực sự cần thiết để can thiệp vào thị trường, củng cố và duy trì sự lành mạnh, tránh khủng hoảng
tài chính - tiền tệ. Tuy nhiên mức độ kiểm soát như thế nào là hợp lý để vừa đảm bảo loại trừ
những yếu tố rủi ro, vừa có tác động tích cực đối với sự phát triển của TTTC hoàn toàn phụ
thuộc vào những nhân tố nội tại hay thực lực bên trong của mỗi quốc gia.
 Nhóm cải cách và lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp
Ngoài các biện pháp xử lý triệt để nợ của doanh nghiệp (kể cả nợ phải thu và nợ phải trả),
cần có biện pháp tăng vốn và cơ cấu lại vốn của doanh nghiệp nhằm giảm tỷ lệ nợ trên vốn tự có,
đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, các hình thức giao bán khoán cho thuê doanh nghiệp, chấm dứt

các hình thức bao cấp về tài chính cho DNNN, tập trung hoàn thiện Luật Phá sản. Kế toán doanh
nghiệp cần được áp dụng rộng rãi và tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, đồng thời nâng dần số
doanh nghiệp được kiểm toán hàng năm, trước hết là đối với khu vực DNNN.
 Nhóm tăng cường giám sát và công khai hoá tài chính
- Cần cải thiện tính minh bạch về thông tin và đẩy mạnh bắt buộc công khai hoá tài
chính đối với các định chế tài chính và khu vực kinh doanh; mặt khác, cần có các biện pháp kinh
tế và hành chính để khuyến khích mọi đối tượng thực hiện công khai hoá tài chính.
- Phát triển hệ thống thông tin tài chính và hoàn thiện chế độ báo cáo tài chính, chế độ kế
toán, kiểm toán sẽ giúp cho việc giám sát và công khai tài chính hiệu quả, thiết thực hơn.
- Cần tranh thủ mối quan hệ mật thiết với các nước láng giềng trong khu vực, các nước
có mối quan hệ tốt với nước ta và một số tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB để có thể
học hỏi, tìm hiểu kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực giám sát hệ thống tài chính - ngân hàng.
Đồng thời Việt Nam cũng cần phải công khai hoá tài chính, số liệu một cách kịp thời cho các
nước và các tổ chức quốc tế nhằm phòng ngừa và cảnh báo sớm khủng hoảng.
3.2.1.4 Thực hiện tự do hoá tài chính theo lộ trình thận trọng
Tự do hoá tài chính góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tự do hoá tài chính
có thể gây ra khủng hoảng tài chính, đặc biệt trong điều kiện chuẩn mực quản lý còn yếu kém. Do
vậy, tự do hoá các luồng vốn cần được tiến hành trên diện rộng, nên bắt đầu từ đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đầu tư chứng khoán và vay thương mại dài hạn. Tốc độ và trình tự tự do hoá tài khoản
vốn cần phải thích ứng với nhịp độ cải cách hệ thống tài chính trong sự gắn kết với điều kiện cụ thể
của mỗi nước.
3.2.2 Phƣơng thức xử lý khi nền kinh tế diễn ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ
3.2.2.1 Tăng cường vai trò của nhà nước
Nếu có khủng hoảng xảy ra, việc làm đầu tiên là nhà nước cần nhanh chóng đưa ra những
chính sách kịp thời, không trốn tránh trách nhiệm, chủ động phối hợp với các tổ chức quốc tế,
với IMF và các nước trong khu vực để giải quyết khủng hoảng. Đây cũng chính là một trong
những chức năng hết sức quan trọng của nhà nước mà khu vực tư nhân không thể làm được.
3.2.2.2 Xây dựng lộ trình cải cách cơ cấu mạnh mẽ
Sau khi lấy lại lòng tin của thị trường và giới đầu tư thông qua các gói cứu trợ tài chính
của IMF và cộng đồng quốc tế, công việc tiếp theo đó chính là phải xây dựng một lộ trình cải

cách cơ cấu mạnh mẽ và rộng khắp, nhằm tạo điều kiện cho việc phục hồi hoàn toàn, góp phần
tạo sự chuyển biến lâu dài và tăng cạnh tranh của nền kinh tế.
3.2.3 Tăng cƣờng phối hợp với IMF và các tổ chức tài chính quốc tế trong việc ngăn ngừa
và xử lý khủng hoảng
 Tăng cường phối hợp với IMF và các tổ chức tài chính quốc tế nhằm dự phòng khủng
hoảng:
Để ngăn ngừa và phòng tránh được khủng hoảng tài chính - tiền tệ, Việt Nam cần chủ
động, tích cực phối hợp chặt chẽ với IMF trong việc cung cấp thông tin, báo cáo tài chính nhằm
phát huy tính tích cực của IMF trong việc tư vấn chính sách và dự phòng khủng hoảng tài chính -
tiền tệ. Ngoài ra, nếu có biến động lớn, Việt Nam cũng cần chia sẻ thông tin kịp thời với các
nước trong khu vực nhằm phòng tránh khủng hoảng từ xa.
Tuy nhiên, một biện pháp quan trọng quyết định đến việc loại trừ khả năng khủng hoảng
ở Việt Nam đó chính là từng bước nâng cao năng lực đối phó khủng hoảng của Việt Nam bằng
cách chủ động cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng, cải cách hệ thống doanh nghiệp, cải cách
thể chế đi đôi với việc chủ động mở cửa, tự do hoá tài chính theo lộ trình một cách thận trọng.
 Tăng cường phối hợp với IMF và các tổ chức tài chính quốc tế khi khủng hoảng xảy
ra:
Ngay khi có khủng hoảng tài chính - tiền tệ xảy ra, ngoài việc tăng cường vai trò của nhà
nước trong việc ban hành những chính sách kịp thời thì một biện pháp “chữa cháy” tức thì cần
phải được thực hiện ngay đó là Chính phủ cần nhanh chóng kêu gọi sự giúp đỡ về tài chính, kỹ
thuật và tư vấn chính sách của cộng đồng quốc tế để có thể lấy lại lòng tin của thị trường và các
nhà đầu tư. Tất nhiên, khi phải nhờ đến sự giúp đỡ từ bên ngoài, chắc chắn quốc gia đó sẽ mất đi
tính độc lập tương đối trong việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, thậm chí còn phải hy
sinh một số mục tiêu trước mắt hay thậm chí gây ra những ảnh hưởng lâu dài về mặt xã hội hay
chính trị khác.
Cách tốt nhất để giảm thiểu mức độ hà khắc của chính sách đó là ngay khi nhận cứu trợ
khẩn cấp của IMF, các Chính phủ cần nhanh chóng tăng cường đối thoại, hợp tác, chia sẻ để
cùng IMF và cộng đồng quốc tế tìm ra nguyên nhân và có những giải pháp thích hợp. Trong vấn
đề này, quan trọng là nghe IMF nhưng nghe đến đâu. Thực chất của vấn đề là lựa chọn chính
sách như thế nào và thời điểm nào để thực hiện

Tuy nhiên, để tránh xung đột lợi ích, tránh cầu viện tài chính từ bên ngoài, Việt Nam cần
phải chủ động, nhanh chóng lành mạnh hoá khu vực tài chính đi đôi với triệt để cải cách hệ
thống tài chính cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra, Việt Nam cũng như các nước trong khu
vực Đông Nam Á cũng cần chủ động tăng cường những hình thức hỗ trợ tính thanh khoản cấp
vùng (như Quỹ dự trữ ngoại hối chung, Sáng kiến Chiang Mai hay Sáng kiến về Quỹ tiền tệ châu
Á (AMF), tạo điều kiện kiềm chế các cuộc khủng hoảng, lây truyền khủng hoảng giữa các nước
và tránh phục thuộc quá nhiều vào bên ngoài.

KẾT LUẬN
1. Khủng hoảng tài chính - tiền tệ có một lịch sử khá dài gắn liền với sự ra đời và phát triển
của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thế giới. Mặc dù có những điểm giống nhau, nhưng các
cuộc khủng hoảng những năm vừa qua khác với các cuộc khủng hoảng trước đây trên nhiều khía
cạnh quan trọng, đặc biệt là ở tác động quá mức và khả năng lây lan của khủng hoảng dường như
rất lớn và vượt quá khả năng kiểm soát.
2. Cho đến nay, có thể nói có 3 mô hình khủng hoảng cơ bản với những cơ chế phát sinh và
hoạt động riêng thích ứng với từng mô hình. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-
1998 được coi là ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba, đặc trưng cho các cuộc
khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Khủng hoảng tài khoản vốn thường
dẫn đến khủng hoảng “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng.
3. Trong quá trình phòng ngừa và xử lý khủng hoảng, nỗ lực của từng quốc gia có ý nghĩa
quyết định, song do tính chất lan truyền nhanh chóng của nó, đòi hỏi cần có sự hỗ trợ của cộng
đồng quốc tế mà nổi bật là vai trò của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), thể hiện ở cả 3 chức năng
chính là giám sát, hỗ trợ kỹ thuật và cho vay.
4. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 được khái quát trên nhiều
phương diện như bối cảnh kinh tế các nước châu Á trước khủng hoảng, những dấu hiệu trước
khủng hoảng, diễn biến và nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Theo quan điểm của IMF, cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á thực chất là do nguyên nhân bên trong mỗi quốc gia song
tính chất của cuộc khủng hoảng lại mang tính quốc tế sâu sắc và có sức lan toả rộng rãi. Trên cơ
sở quan điểm, nhận định và “toa thuốc” được kê sẵn của IMF dành cho các nước bị khủng
hoảng, các Chính phủ châu Á đã đưa ra những chính sách nhằm khắc phục khủng hoảng tài

chính - tiền tệ, trong đó tập trung vào việc huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nước và cải thiện
hệ thống tài chính quốc gia. Tiến trình thực hiện của các nước có sự khác biệt về các mức kết
quả, bởi có nước tương đối thành công, nhưng có nước lại lún sâu vào khủng hoảng. Chính vì
thế, rất nhiều nhà kinh tế và các chính trị gia đã phê phán kịch liệt “phương thuốc đắng” của
IMF, thậm chí đòi xem xét lại vai trò của IMF. Tuy nhiên, một nguyên nhân hết sức quan trọng
đó chính là sự thiếu phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á và IMF trong việc phòng
chống khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
5. Sau 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát
triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Với thế và lực mới, trên con đường phát triển của mình,
Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế. Đi cùng với quá
trình này, Việt Nam cũng có thể phải đối mặt với những rủi ro tài chính do quá trình tự do hoá
thương mại và tự do cán cân thanh toán quốc tế đem lại. Những nguy cơ khủng hoảng xuất hiện
cả bên trong lẫn bên ngoài là những dấu hiệu cảnh báo về một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ trong tương lai có thể xảy ra ở Việt Nam. Trên cơ sở những kinh nghiệm của các nước đã từng
trải qua khủng hoảng, luận văn rút ra một số bài học trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng
tài chính - tiền tệ ở Việt Nam từ việc duy trì nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, điều hành linh
hoạt chính sách tỷ giá hối đoái, chủ động xây dựng và cải cách hệ thống tài chính quốc gia, thực
hiện tự do hoá tài chính theo lộ trình thận trọng và an toàn, tăng cường vai trò của nhà nước và
đặc biệt tăng cường đối thoại và phối hợp chặt chẽ với IMF cũng như các tổ chức tài chính quốc
tế trong việc dự phòng và chống khủng hoảng. Tuy nhiên, do khủng hoảng chưa xảy ra ở Việt
Nam, nên bài học về dự phòng, ngăn ngừa khủng hoảng có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối với
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như về lâu dài.


References


×