Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

GIÁO TRÌNH CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.75 KB, 10 trang )






GIÁO TRÌNH


CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG




1
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƢỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG

MỤC TIÊU: Sau khi học xong chương này, sinh viên có khả năng:
* Về tri thức:
- Trình bày vị trí, chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường THPT
- Phân tích các nội dung và phương pháp công tác chủ nhiệm lớp
* Về kỹ năng
- Có kỹ năng thực hiện một số nội dung công tác chủ nhiệm lớp như: tìm hiểu học
sinh, thiết kế kế hoạch chủ nhiệm, tổ chức hoạt động tập thể, đánh giá, xếp loại học sinh.
- Vận dụng cách thức tác động tay đôi, tác động song song để giáo dục học sinh
- Giải quyết các tình huống trong công tác chủ nhiệm
* Về thái độ
- Sinh viên ý thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác GVCN lớp ở trường
THPT. Từ đó, tích cực, chủ động chuẩn bị tri thức, kỹ năng, tâm thế sẵn sàng tham gia


họat động giáo dục nói chung và công tác chủ nhiệm ở trường THPT.

NỘI DUNG
I. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở TRƢỜNG THPT
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông nói chung và trường THPT có vị trí đặc
biệt quan trọng trong toàn bộ hệ thống giáo dục của nhà trường. Họ là người thay mặt
Hiệu trưởng quản lý, giáo dục toàn diện học sinh một lớp học, là cố vấn cho các hoạt
động tự quản của tập thể học sinh, người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong
và ngoài nhà trường.
1.GVCN là ngƣời quản lí- giáo dục toàn diện học sinh một lớp học
Quá trình dạy học và giáo dục ở trường THPT được tiến hành với những nội dung
toàn diện, phong phú và sâu sắc hơn hẳn các cấp học dưới. Với vị trí là cấp học cuối của


2
bậc học phổ thông có nhiệm vụ hoàn tất việc trang bị tri thức phổ thông cơ bản, phát triển
và hoàn thiện các kỹ năng học tập nhận thức cùng với các kỹ năng xã hội cho học sinh
đồng thời đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng, phát triển nhân cách tốt đẹp cho họ,
cấp học này đặt ra những yêu cầu cao cho việc quản lý và giáo dục học sinh. Người đứng
ra đảm đương công việc quản lý và giáo dục toàn diện học sinh chính là các GVCN.
Quản lí, giáo dục học sinh không chỉ bao gồm việc nắm được những chỉ số quản lý
hành chính như: tên, tuổi, số lượng, gia cảnh, xếp loại học tập, đạo đức, địa chỉ…mà còn
phải dự báo được xu hướng phát triển nhân cách của học sinh trong lớp để có phương
hướng tổ chức hoạt động giáo dục, dạy học phù hợp. Quản lý giáo dục học sinh còn cần
phải đặc biệt quan tâm đến việc đồng thời quản lý học tâp và quản lý sự hình thành, phát
triển nhân cách mọi mặt của học sinh. Quản lý, giáo dục toàn diện học sinh bao gồm quản
lý, giáo dục cá nhân và tập thể học sinh.
Quản lý và giáo dục học sinh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: để giáo dục tốt
phải quản lý tốt và quản lý tốt giúp cho giáo dục được tốt. Không thể phủ nhận, giáo dục
học sinh phải dựa vào kết quả của việc quản lý học sinh. Quản lý chặt chẽ, cụ thể, chi tiết,

toàn diện sẽ giúp GVCN đề ra phương hướng, biện pháp tác động trong công tác giáo dục
cụ thể, chính xác, và đạt hiệu quả cao.
Để thực hiện chức năng này, người GVCN phải có :
+ Tri thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học
+ Kỹ năng lập kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch giáo dục, tổ chức chỉ đạo việc thực
hiện kế hoạch một cách khoa học
+ Kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh
+ Kỹ năng giao tiếp sư phạm: biết cách tiếp cận, phán đoán học sinh, có khả năng
xác lập nhanh chóng, khéo léo, đúng đắn mối quan hệ với học sinh trong hoạt động dạy
học và giáo dục.
2. GVCN là cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể học sinh
Đây là chức năng rất đặc trưng của GVCN mà các giáo viên bộ môn không có. “Cố
vấn” có nghĩa là GVCN không trực tiếp tham gia tổ chức, điều hành công việc của lớp,
không làm thay các em trong các hoạt động mà là người định hướng xây dựng kế hoạch


3
hoạt động của tập thể học sinh, hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung, lựa chọn giải
pháp, cách thức tổ chức hoạt động để thực hiện thành công kế hoạch đề ra, đáp ứng các
mục tiêu phát triển của lớp và mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Chức năng này chỉ có thể được thực hiện tốt khi GVCN biết quan tâm tổ chức, xây
dựng đội ngũ tự quản của lớp, thường xuyên bồi dưỡng năng lực của đội ngũ này để tăng
cường sức mạnh tự quản của tập thể học sinh.
Để phát huy vai trò cố vấn, GVCN cần có năng lực đánh giá và dự báo chính xác
khả năng của học sinh, có khả năng kích thích tiềm năng sáng tạo của các em, lôi cuốn tất
cả học sinh tham gia vào các hoạt động của lớp, hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch
giáo dục toàn diện, đồng thời theo dõi, giúp đỡ học sinh thực hiện kế hoạch đó. Lưu ý, cố
vấn không có nghĩa là khoán trắng hay đứng ngoài hoạt động của học sinh mà phải cùng
hoạt động, kịp thời giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, tranh thủ các lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh và tập thể học

sinh tiến hành thành công các hoạt động, tạo động lực cho học sinh trong những hoạt
động tiếp theo.
3.GVCN lớp là cầu nối giữa tập thể học sinh với các lực lƣợng giáo dục trong
nhà trƣờng
Thực hiện chức năng này, GVCN là người đại diện cho hai phía
* GVCN là người đại diện cho các lực lượng giáo dục của nhà trường
Ở góc độ này, GVCN là nhà quản lý, nhà sư phạm đại diện cho Hiệu trưởng truyền
đạt những chủ trương, yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường đến với học sinh và tập
thể học sinh. Bằng phương pháp thuyết phục, sự gương mẫu, kinh nghiệm sư phạm và uy
tín của mình, GVCN giúp cho mỗi học sinh và tập thể lớp có trách nhiệm tuân thủ và tự
giác thực hiện nghiêm túc những yêu cầu này. GVCN cần gợi ý với lớp về giải pháp,
phương hướng thực hiện sao cho vừa đảm bảo yêu cầu chung vừa phù hợp với điều kiện
và khả năng của lớp, tránh gây áp lực cho học sinh và chạy theo thành tích.
* GVCN là người đại diện cho học sinh và tập thể học sinh
Không chỉ là một thành viên của Hội đồng sư phạm, đại diện cho các lực lượng giáo
dục của trường, GVCN còn là người đại diện cho quyền lợi của tập thể học sinh. Với vị trí


4
là người thường xuyên tiếp xúc, gần gũi học sinh, hơn bất cứ ai, GVCN có trách nhiệm
lắng nghe, tập hợp các ý kiến, nguyện vọng của học sinh để phản ánh với Ban giám hiệu
và các lực lượng giáo dục trong trường, phối hợp với các lực lượng giáo dục trong trường
đáp ứng các nguyện vọng này, tạo môi trường và điều kiện cho học sinh học tập và rèn
luyện tốt đồng thời luôn quan tâm bảo vệ quyền lợi chính đáng của học sinh.
Trong việc thực hiện chức năng này, nhiệm vụ tổ chức phối hợp các lực lượng,
thống nhất tác động giáo dục theo một chương trình hành động chung là một nhiệm vụ rất
quan trọng của GVCN. Đây là một việc không đơn giản, đòi hỏi GVCN chẳng những
phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề, yêu thương học sinh mà còn phải có năng lực
thuyết phục, có khả năng thiết lập quan hệ tốt đẹp với các lực lượng giáo dục, biết xây
dựng và giữ gìn uy tín, có ý chí vượt khó, không ngại thử thách, đặc biệt trong những

trường hợp cần đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của học sinh, kiên định thực hiện
lý tưởng giáo dục thế hệ trẻ.
4. GVCN là ngƣời tổ chức phối hợp các lực lƣợng giáo dục ngoài nhà trƣờng
Phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường ( gia đình, các đoàn thể xã hội,
cộng đồng dân cư… ) trong giáo dục HS là một nguyên tắc giáo dục đồng thời là một
trong những nội dung thực hiện xã hội hóa giáo dục. Hiệu quả giáo dục học sinh phụ
thuộc không nhỏ vào khả năng phối hợp và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo
dục ngoài nhà trường về mọi mặt nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đối với lớp chủ
nhiệm.
Dựa vào đặc điểm, điều kiện của nhà trường, lớp, cộng đồng, gia đình học sinh mà
GVCN tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trên.
Trước hết, GVCN cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tầm quan trọng của việc phối
hợp các lực lựơng giáo dục ngoài nhà trường trong công tác giáo dục thế hệ trẻ. GVCN
một mặt nắm chắc tình hình lớp chủ nhiệm, mặt khác khai thác triệt để, hợp lý, phát huy
mọi tiềm năng của các lực lượng cùnng tham gia giáo dục, phát triển nhân cách cho học
sinh. Trong đó, GVCN phải xác định giáo dục nhà trường có vai trò định hướng, tạo ra sự
thống nhất tác động đến học sinh. Tuy nhiên cần đánh giá đúng vai trò giáo dục gia đình,
xem đây là môi trường hạt nhân cơ bản của quá trình hình thành, phát triển nhân cách thế


5
hệ trẻ. GVCN không chỉ biết cách phối hợp tốt với gia đình học sinh mà còn là người tổ
chức bồi dưỡng nhận thức lý luận giáo dục cho các bậc cha mẹ khi cần thiết
II NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
1. Tìm hiểu học sinh lớp chủ nhiệm
Nhà giáo dục học Usinxki nói: “Muốn giáo dục con người mọi mặt thì phải hiểu con
người về mọi mặt”. Công tác chủ nhiệm đòi hỏi phải hiểu học sinh một cách đầy đủ, cụ
thể và toàn diện nhằm có thể lựa chọn những tác động sư phạm phù hợp, có khả năng
mang lại hiệu quả cao nhất. Thực tiễn giáo dục đã cho thấy nhiều trường hợp thất bại
đáng tiếc của các giáo viên thậm chí gây thương tổn nặng nề cho cả hai phía do các thầy

cô không hiểu biết đầy đủ về học sinh. Hiểu học sinh còn là điều kiện cần trong việc thiết
lập quan hệ giao tiếp thuận lợi giữa GVCN và học sinh, là tiền đề cho việc hình thành tình
cảm thầy trò thông hiểu, gắn bó.
1.1 Nội dung tìm hiểu
1.1.1 Tìm hiểu tập thể học sinh
Việc nghiên cứu, tìm hiểu tập thể học sinh giúp GVCN nắm được tình hình mọi mặt
của lớp, từ đó có được những căn cứ khách quan để xây dựng kế hoạch chủ nhiệm với
những mục tiêu, nội dung và giải pháp phù hợp nhất
Tìm hiểu tập thể học sinh gồm tìm hiểu trình độ phát triển, truyền thống của tập thể,
bầu không khí, các mối quan hệ trong tập thể, sự phân hóa các nhóm tự phát, các thủ lĩnh
tự phát, một số vấn đề về xu hướng chung của tập thể, mặt mạnh, mặt yếu…
1.1.2 Tìm hiểu cá nhân học sinh
* Tìm hiểu các đặc điểm thể chất của học sinh:
Đặc điểm thể chất của học sinh: bao gồm thể trạng, thể lực, sinh lý lứa tuổi, sức khỏe
(khỏe mạnh hay có bệnh tật, vóc dáng bình thường hay có khuyết tật gì không?). Nắm
vững những đặc điểm này GVCN sẽ cùng cả lớp giúp học sinh giữ gìn sức khỏe, phát huy
ưu thế thể lực nếu có, đồng thời quan tâm, giúp đỡ những học sinh có vấn đề về sức khỏe,
thể trạng không bình thường trong phân công công việc, bố trí chỗ ngồi….
* Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của học sinh:


6
GVCN cần nghiên cứu để hiểu học sinh về các đặc điểm tâm lý nổi bật như: năng
lực nhận thức, tư duy, khả năng chú ý, quan sát, xu hướng cá nhân, sở thích, nguyện
vọng, động cơ học tập, năng lực hoạt động, kiểu khí chất, tính cách và đặc biệt là thói
quen hành vi của học sinh.
* Tìm hiểu đặc điểm quan hệ xã hội của học sinh:
Trong các quan hệ xã hội của học sinh cần quan tâm tìm hiểu nhất là quan hệ gia
đình và quan hệ bạn bè của học sinh.
Tìm hiểu quan hệ gia đình học sinh bao gồm tìm hiểu thành phần gia đình, trình độ

văn hóa, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của bố mẹ, quan hệ của các thành viên trong gia
đình ( sự quan tâm của cha mẹ với con cái, tình cảm, sự giúp đỡ giữa các thành viên trong
gia đình…), điều kiện kinh tế, truyền thống, nề nếp gia đình, phương pháp giáo dục của
cha mẹ đối với các con…. Tất cả những yếu tố trên đều có ảnh hưởng đến học sinh, trong
đó, rất nhiều những trường hợp lệch lạc về tâm lý hay những biến chuyển trạng thái đột
ngột, lầm lỗi, nổi loạn ở học sinh có nguyên nhân xuất phát từ gia đình mà nếu không
hiểu biết cặn kẽ, GVCN khó mà có thể giúp đỡ học sinh.
Tìm hiểu quan hệ bạn bè của học sinh đặc biệt là quan hệ trong nhóm bạn thân giúp
GVCN có được những thông tin quan trọng, cần thiết trong công tác giáo dục học sinh.
Trong nhiều trường hợp, đây là nguồn khai thác thông tin chính xác, hiệu quả mà các
nguồn thông tin khác không có được nhất là đối với đối tượng giáo dục là học sinh THPT
Ngoài ra, GVCN có thể tìm hiểu thêm quan hệ, cách ứng xử của học sinh với thầy
cô giáo, bạn bè trong lớp, trường, với bố mẹ, anh chị em trong gia đình, với hàng xóm
trong cộng đồng nơi các em sinh sống, ở nơi công cộng…
Tóm lại tìm hiểu học sinh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác chủ nhiệm.
Từ việc tìm hiểu, nắm vững những đặc điểm trên giúp GVCN lựa chọn các biện pháp tác
động phù hợp đối với từng học sinh nhằm xây dựng cho các em có tâm hồn trong sáng,
phong phú, có năng lực và sức khỏe dồi dào đáp ứng yêu cầu của xã hội ngày càng hiện
đại, văn minh.
1.2 Cách thức tìm hiểu
Để tìm hiểu học sinh GVCN có thể tiến hành những cách thức sau:


7
* Nghiên cứu hồ sơ học sinh: gồm lý lịch, học bạ, sổ liên lạc với gia đình học
sinh….
* Trao đổi, trò chuyện với học sinh: đây là cách thức giúp GVCN nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng, sở thích, thái độ của học sinh một cách trực tiếp.
* Quan sát có chủ định hoặc ngẫu nhiên học sinh thông qua hoạt động ở lớp học,
cộng đồng, gia đình, ngoài đường phố, hoặc thông qua các tình huống tự nhiên hay

nhân tạo, nơi mà học sinh có thể bộc lộ thái độ, tình cảm, trình độ, năng lực của bản
thân một cách chân thật nhất.
* Trao đổi với GVCN và các giáo viên bộ môn của năm học trước về tình hình
chung của lớp cũng như tình hình học tập, rèn luyện của học sinh trong lớp.
* Trao đổi với cha mẹ học sinh để thu thập thông tin về học sinh khi ở gia đình.
Việc trao đổi này có thể trực tiếp thông qua các kỳ họp phụ huynh học sinh trong năm
học, thăm gia đình học sinh, sổ liên lạc, điện thoại, e-mail…
* Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của học sinh: bài làm, báo tường, nhật ký, các
sản phẩm lao động, học tập…
Tóm lại, điều đặc biệt quan trọng đối với GVCN là thông qua các phương pháp
nghiên cứu, thu thập được thông tin thật chính xác, đồng thời phân tích được nguyên nhân
của các hiện trạng để nhanh chóng tìm ra biện pháp giáo dục. Cần xác định rằng, tìm hiểu
nắm vững đối tượng giáo dục không phải là việc làm có thời hạn, chóng vánh trong một,
hai ngày, cũng không phải là công việc chỉ được tiến hành trong giai đoạn đầu mới nhận
lớp mà phải là công việc thường xuyên, liên tục trong suốt năm học sao cho có thể hiểu
học sinh một cách cập nhật, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc nhất.
2/ Xây dựng và giáo dục tập thể học sinh lớp chủ nhiệm
2.1 Khái niệm tập thể và tập thể học sinh
2.1.1 Tập thể
Tập thể là một cộng đồng xã hội đặc biệt, là hình thái tổ chức xã hội tập hợp những
người có cùng mục đích, có hoạt động chung, có tổ chức chặt chẽ và hệ thống quan hệ
phụ thuộc giữa các thành viên. Ở góc độ xã hội, tập thể là một cộng đồng có ý nghĩa xã
hội và được xã hội thừa nhận.


8
Những dấu hiệu cơ bản của một tập thể là tính thống nhất về mục đích và tính tổ
chức trong quá trình thực hiện các công việc chung. Mục đích chung của tập thể vừa phù
hợp với lợi ích của cá nhân vừa đáp ứng với yêu cầu khách quan của xã hội. Các tính chất
này làm cho tập thể khác với một nhóm tự phát.

2.1.2 Tập thể học sinh
Tập thể học sinh là một hình thái tổ chức cộng đồng độc đáo của học sinh, một tổ
chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ, có nguyên tắc họat động nhất định, có chức năng tổ
chức, tập hợp, giáo dục học sinh nhằm hướng tới việc thực hiện mục đích giáo dục.
Tập thể học sinh có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
- Có mục đích chung: Tập thể học sinh thống nhất các học sinh trong tập thể vào
việc cùng nhau thực hiện những mục đích chung có ý nghĩa xã hội. Đó là mục đích học
tập, lao động, rèn luyện, trau dồi đạo đức, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau, tích cực chuẩn bị
đầy đủ năng lực và phẩm chất để tham gia vào cuộc sống, vào quá trình lao động xã hội.
- Có hoạt động chung: Mục đích của tập thể được thực hiện thông qua các hoạt động
chung của các thành viên trong tập thể như: hoạt động học tập, hoạt động lao động, hoạt
động xã hội - công ích, hoạt động văn hóa - thể thao, hoạt động vui chơi, giải trí…phù
hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi, trình độ nhận thức, vốn sống, vốn kinh nghiệm và điều
kiện học tập, sinh hoạt của số đông học sinh trong tập thể.
- Có hệ thống các quan hệ phức hợp: Trong tập thể, học sinh thực hiện các quan hệ
đa dạng như: quan hệ nghĩa vụ - quyền lợi, quan hệ chỉ huy - phục tùng, quan hệ phối
hợp, tương tác, quan hệ tình cảm, trách nhiệm…
- Có đội ngũ cán bộ tự quản do tập thể bầu chọn: Đội ngũ tự quản do tập thể bầu
chọn có chức năng tổ chức và lãnh đạo tập thể học sinh
Các tổ chức tập thể học sinh trong trường phổ thông gồm: tập thể học sinh toàn
trường, tập thể lớp học, các đoàn thể học sinh (Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và
Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh)
2.2. Vai trò của tập thể học sinh
Lý lụân giáo dục XHCN đặc biệt coi trọng vai trò của tập thể đối với cá nhân. Tập
thể mang lại cho cá nhân những quan hệ đa dạng và tốt đẹp, khơi dậy sức mạnh, tiềm


9
năng của cá nhân, thúc đẩy nhu cầu bộc lộ và tự khẳng định của cá nhân. Trong tập thể, cá
nhân có khả năng tìm được những phương tiện và điều kiện phù hợp nhất để phát triển

toàn diện và hài hòa nhân cách của mình. Nhờ đó mà mỗi cá nhân sẽ là một nhân cách
độc đáo, thể hiện sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng.
Sự phát triển của tập thể và sự phát triển của cá nhân là hai quá trình qui định lẫn
nhau. Chỉ có trong tập thể, cá nhân mới có điều kiện phát triển tốt nhất và ngược lại, tập
thể sẽ càng trở nên phong phú, giàu sức sống, giàu tiềm năng thông qua sự phát triển của
các thành viên. Từng cá nhân trong tập thể, một mặt chịu ảnh hưởng của ý kiến và ý chí
của người khác, nhưng ngược lại, cá nhân cũng ảnh hưởng đến người khác. Sự tác động,
ảnh hưởng qua lại giữa các các nhân tạo nên ý chí, quan niệm, tậm trạng, dư luận tập
thể… có tác dụng qui định, điều chỉnh hành vi của các thành viên trong tập thể. Nhà sư
phạm A.X. Makarenco cho rằng: “Tập thể là một cơ thể xã hội sinh động thể hiện sức
mạnh tổng hợp của các thành viên của nó. Sức mạnh của các thành viên một khi đã được
liên kết lại một cách có mục đích, có tổ chức thì sẽ tạo ra sức mạnh chung của tập thể
mạnh gấp nhiều lần tổng số sức mạnh của các thành viên riêng lẻ, đồng thời có tác dụng
làm tăng lên sức mạnh của từng thành viên”
Trong trường phổ thông, tập thể học sinh chính là môi trường tâm lý - xã hội trực
tiếp ảnh hưởng đến học sinh. Mọi tác động tốt hay xấu, xuất phát từ môi trường xã hội
hoặc từ các tác động của nhà trường hay giáo viên đều ảnh hưởng đến học sinh thông qua
tập thể của họ. Môi trường tập thể luôn đặt ra các yêu cầu khó khăn, đòi hỏi mỗi cá nhân
phải cố gắng nhiều hơn, do đó tạo được động lực phát triển mạnh mẽ cho cá nhân. Mặt
khác, nhiều phẩm chất quan trọng của nhân cách như: tinh thần tập thể, tính kỷ luật, ý
thức trách nhiệm, tinh thần hợp tác, năng lực tự ý thức… chỉ có thể hình thành trong môi
trường giáo dục tập thể. Đặc biệt, với lứa tuổi học sinh phổ thông, các đặc điểm tâm lý
nổi bật và đặc trưng của độ tuổi như nhu cầu tự khẳng định và nhu cầu giao lưu chịu sự
chi phối mạnh mẽ từ tập thể mà học sinh tham gia.
Tập thể học sinh còn được xem là một phương tiện đặc biệt quan trọng và hiệu quả
trong việc giáo dục học sinh. Đó là con đường không thể thiếu được để hình thành nhân
cách cho thế hệ trẻ. Tập thể học sinh tiếp nhận những yêu cầu và chuẩn mực xã hội,

×