Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔN1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.11 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
  
BÀI TẬP LỚN
ĐỀ BÀI:
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO VIÊN
CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THPT NAM LƯƠNG SƠN HÒA BÌNH


Môn : Quản lý hành chính Nhà nước về Giáo dục
Giảng viên : Đào Phú Quảng
Lớp : QH – 2005S – Toán học
Sinh viên : Bùi Thị Huệ
HÀ NỘI, 10/2008
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................................3
I. Một số khái niệm cơ bản của đề tài………………………………………………………..3
1. Khái niệm quản lý ………………………………………………………….............4
2. Khái niệm giáo viên chủ nhiệm lớp (GVCN)………………………………………5
II. Tổng quan về lý luận giáo dục quy định vai trò, nhiệm vụ của một người giáo viên chủ
nhiệm (GVCN) tại trường phổ thông…………………………………………………….5
1. Vai trò của người GVCN lớp……………………………………………5
2. Nhiệm vụ giáo dục của một người GV, GVCN…………………….........5
3. Phương pháp công tác chủ nhiệm lớp ……………………………...........9
4. Nội dung công tác của người giáo viên chủ nhiệm lớp..............................14
III. Thực trạng công tác quản lý học sinh của giáo viên chủ nhiệm lớp của trường THPT Nam
Lương Sơn Hòa Bình……………………………………………………………………..16
1. Một số đặc điểm địa lí, dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực
THPT……………………………………………………………………...16
2. Thực trạng dạy và học…………………………………………………….16


3. Thực trạng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp trường THPT Nam Lương Sơn
Hòa Bình………………………………………………………………….18
4. Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp trường THPT
Nam Lương Sơn Hòa Bình……………………………………………….18
5. Thực trạng hoạt động của GVCN lớp trường trường THPT Nam Lương Sơn
Hòa Bình………………………………………………………………….20
IV. Một số biện pháp quản lý nhằm năng cao công tác chủ nhiệm lớp ………………….....22
1. Ban giám hiệu phải tạo điều kiện, môi trường tốt nhất để giáo viên chủ
nhiệm có thể làm tốt vai trò, nhiệm vụ của mình……………………..23
2. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm thực hiện nhiệm vụ Giáo viên
chủ nhiệm……………………………………………………………..23
3. Các cấp quản lý cụ thể hoá cơ chế chính sách đối với giáo viên chủ
nhiệm…………………………………………………………………25
4. Giáo viên chủ nhiệm chú trọng việc tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp
để giáo dục học sinh………………………………………………….25
5. Tăng cường sự phối hợp của giáo viên chủ nhiệm với các lực lượng
trong và ngoài nhà trường……………………………………………27

V. Kết luận…………………………………………………………………………………30

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Thực tế nhiều năm, trong lý thuyết cũng như trong thực tiễn đã có quan điểm cho rằng hiệu
quả giáo dục phụ thuộc vào việc xác định và lựa chọn mục tiêu, chương trình nội dung, phương
pháp, hình thức giáo dục cùng với những điều kiện, phương tiện giáo dục.
Như chúng ta đã biết, việc giáo dục phát triển nhân cách học sinh là một nhu cầu cần thiết,
bản chất của quá trình giáo dục là tổ chức toàn bộ cuộc sống, học tập, hoạt động của học sinh,
tạo điều kiện thuận lợi tối ưu để tiềm năng của học sinh được phát triển dưới sự giáo dục của
giáo viên chủ nhiệm.Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường
Trung Học Phổ Thông nếu như xác định đúng vị trí, nhiệm vụ, biết tổ chức giáo dục.
Thực chất vai trò của giáo viên chủ nhiệm cũng như người làm vườn, trồng cây, tuy không

đúng hoàn toàn nhưng hoạt động của giáo viên chủ nhiệm gần như người trồng cây, chăm sóc,
vun trồng cây giống. Người làm vườn không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải chăm sóc tạo
điều kiện cho hạt giống nẩy mầm. Là một giáo viên chủ nhiệm chúng ta phải luôn tâm niệm dạy
dỗ giáo dục cho các em trở thành những con người hữu ích cho xã hội để xứng đáng với những
hình ảnh đẹp mà xã hội ban tặng như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề
cao quí nhất trong tất cả các nghề cao quí vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
Mặt khác những đặc điểm tâm lý, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh phổ thông còn
nhiều hạn chế, vì vậy không thể không cần có một người thường xuyên hướng dẫn giúp đỡ, chỉ
bảo cho các em. Để làm tốt điều này, giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện tốt những nhiệm vụ
của một thầy cô giáo phải nắm được đường lối quan điểm lí luận giáo dục đồng thời giáo dục
những phẩm chất đạo đức rèn luyện năng lực để trở thành công dân tốt mai sau.
Người giáo viên chủ nhiệm phải tham gia các hoạt động chính trị xã hội tốt hơn, phải rèn
luyện ở mức cao hơn. Đó là trách nhiệm nghĩa vụ và cũng là vinh dự vì học sinh.
Trong thời đại mở cửa của nền kinh tế hiện nay, học sinh luôn có xu hướng đua đòi chưng
diện luôn bị những cám bẫy trong xã hội lôi cuốn. Nó ảnh hưỡng không ít đến việc học tập của
học sinh. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên tôi chọn đề tài tìm hiểu “thực trạng thực
hiện vau trò – nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT” và tiến hành khảo sát
Ở TRƯỜNG THPT NAM LƯƠNG SƠN HÒA BÌNH nhằm chỉ ra thực trạng của vấn đề trên và
đề xuất một só biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm.

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1. Khái niệm quản lý
a. Khái niệm về quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là quá trình truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ con người: Giáo dục có vị trí đặc biệt
quan trọng, không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy
kinh tế xã hội.
Trong xã hội hiện đại, khi các quốc gia đang đua tranh về khoa học và công nghệ, thì giáo
dục có vai trò quyết định, giúp các quốc gia thắng lợi trong các cuộc đua tranh đó. Phát triển

giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu thể hiện trong chiến lược và mọi chính sách quốc gia.
Vậy quản lý giáo dục là gi?
Quản lý giáo dục là sự tác động có mục đích, có hệ thống, có ý thức của chủ thể lên đối
tượng quản lý theo những quy luật khách quan nhằm đưa những hoạt động sư phạm của hệ
thống giáo dục đạt tới những kết quả mong muôn. Quản lý giáo dục là một dạng quản lý chuyên
biệt, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu
quản lý giáo dục nhất định.
b. Hiệu quả quản lý:
Là kết quả đạt được những yêu cầu của việc làm đem lại. Hiệu quả quản lý hoạt động dậy
học là tất cả những gì tạo nên kết quả của công tác quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường.
Hiệu quả dạy học phụ thuộc vào việc lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học, sự kích
hích hứng thú của học sinh v à kiểm tra đánh giá. Hiệu quả dạy học cũng phụ thuộc vào việc lựa
chọn các phương tiện dậy học và các hình thức dạy h ọc.
c . Các chức năng của quản lý
Có 4 chức năng cơ bản của quản lý
- Chức năng lập kế hoạch
- Chức năng tổ chức
- Chức năng lãnh đạo
- Chức năng kiểm tra
Trong 4 chức năng trên thì chức năng lập kế hoạch là chức năng quan trọng nhất. Tuy
nhiên 4 chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau.
2. Khái niệm giáo viên chủ nhiệm lớp (GVCN)
Trong nhà trường, đơn vị tổ chức cơ bản để giảng dạy và học tập là lớp học. Để quản lý
trực tiếp một lớp học nhà trường phải cử ra những giáo viên giỏi, nhiệt tình để làm công tác chủ
nhiệm lớp.
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông :
Ở trường THPT, GVCN lớp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách
của học sinh. GVCN lớp là nhân vật trung tâm, là linh hồn của lớp, tập hợp và đoàn kết học sinh
trong tập thể. GVCN lớp chủ động tổ chức, phối hợp với các giáo viên bộ môn của lớp để điều
hoà chương trình, thống nhất về phương pháp, tiến trình giảng dạy theo mục tiêu giáo dục năm

học một cách có hiệu quả nhất.
Có thể khẳng định : trong nhà trường phổ thông, GVCN lớp như thế nào thì lớp học sẽ
như thế. Hiệu quả công tác của người GVCN lớp được thể hiện thông qua chính sản phẩm giáo
dục của mình.
Vì vậy, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông là người thay mặt Hiệu trưởng
quản lý toàn diện học sinh của một lớp học.
Tuy nhiên, việc quản lý con người trong tập thể HS trong nhà trường không chỉ có
GVCN lớp mà còn có các lực lượng khác trong nhà trường như : Ban giám hiệu, Đoàn thanh
nien Cộng sản Hồ Chí Minh, giáo viên bộ môn…song GVCN lớp là người chịu trách nhiệm
chính về mọi hoạt động của tập thể lớp và mọi hành vi của mỗi HS trong lớp mình phụ trách.
Quản lý tốt HS, điều đó có nghĩa là người GVCN lớp phải có những biện pháp tích cực nhất,
phù hợp nhất để tác động đến tư tưởng của mỗi em HS ; có thể gián tiếp thông qua đội ngũ cán
sự lớp và mọi hoạt động của tập thể ; có thể trực tiếp giữa GVCN lớp và mỗi thành viên trong
tập thể nhằm hình thành ở HS những hành vi đạo đức tốt.
II. Tổng quan về lý luận giáo dục quy định vai trò, nhiệm vụ của một người
giáo viên chủ nhiệm (GVCN) tại trường phổ thông
1. Vai trò của người GVCN lớp
Trong nhà trường đơn vị tổ chức cơ bản để giạng dạy và học tập là lớp học. Để quản lý trực tiếp một
lớp học nhà trường cử ra những giáo viên giỏi, giàu nhiệt huyết để làm chủ nhiệm lớp, GVCN ở trường
phổ thông là người thay mặt hiệu trưởng quản lý toàn diện một lớp học. “GVCN là nhân vật trung tâm,
linh hồn của lớp, tập hợp và đoàn kết học sinh trong tập thể. GVCN lớp có vai trò to lớn trong tổ chức
mọi hoạt động của lớp nhằm giáo dục học sinh”.
GVCN lớp chủ động tổ chức, phối hợp các GV giảng dạy các bộ môn của lớp để điều hòa chương
trình, thống nhất về phương pháp, tiến trình giảng dạy học theo mục tiêu giáo dục năm học một cách có
hiệu quả.
GVCN chủ động phối hợp với chi đoàn Thanh niên cộng sản của lớp để tiến hành các nghi thức sinh
hoạt tập thể, cùng với các lực lượng giáo dục khác để giáo dục học sinh, thanh thiếu niên.
Có thể khẳng định, trong nhà trường, GVCN như thế nào thì lớp học sẽ như thế. Hiệu quả công tác của
người GVCN được thể hiện chính trong các sản phẩm giáo dục.
2. Nhiệm vụ giáo dục của một người GV, GVCN (theo Điều lệ Nhà trường, Điều 29)

a. Nhiệm vụ một:
“Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp GD sát đối tượng nhằm
thúc đẩy tiến bộ của lớp”: “- GVCN lớp là linh hồn, là người tổ chức mọi hoạt động của tập thể lớp
học, đưa học sinh vào guồng máy hoạt động tích cực.”
Tìm hiểu nắn vững học sinh trong lớp là một nhiệm vụ quan trọng của người GVCN. GVCN lớp
phải nắm được mọi mặt của học sinh như hoàn cảnh gia đình, học lực, cá tính…để từ đó đặt ra phương
hướng giáo dục sát đối tượng.
Tìm hiểu nắm vững học sinh trong lớp là một công việc cần làm thường xuyên đối với GVCN.
GVCN phải gần gũi học sinh trong lớp, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em. Nếu GVCN gần gũi
học sinh thì sẽ được học sinh yêu quí, tin tưởng và hợp tác trong mọi hoạt động giáo dục. Khi đã nắm
vững được học sinh, GVCN có thể có biện pháp giáo dục với từng đối tượng cụ thể.
GVCN phải là trung tâm của lớp học, đứng ra tổ chức mọi hoạt động của lớp học như ngoại khóa,
sinh hoạt lớp…
Học sinh tồn tại với tư cách là đối tượng giáo dục đồng thời cũng là chủ thể giáo dục. Để giáo dục học
sinh có kết quả tốt, giáo viên phải hiểu các em một cách đúng đắn, đầy đủ và cụ thể, từ đó lựa chọn
những tác động sư phạm thích hợp. Trái lại, thực tiễn giáo dục cho thấy nếu không hiểu rõ học sinh thì
những tác động sư phạm được lựa chọn sẽ không phù hợp, do đó không cho kết quả mong muốn và thậm
chí sẽ bị thất bại. Vì vậy GVCN phải hiểu rõ từng học sinh một cách đầy đủ, chính xác về:
• Hoàn cảnh sống của từng học sinh.
Mỗi học sinh được sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh gia đình khác nhau. Tuổi tác, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của bố mẹ, gia đình đông con hay ít con, sự quan tâm tới phương
pháp giáo dục con cái của bố mẹ, sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình,
điều kiện sinh hoạt vật chất (kinh tế đầy đủ hay túng thiếu…) điều kiện sinh hoạt tinh thần (có các
phương tiện sinh hoạt văn hóa, tinh thần, tình cảm gia đình đầy đủ, ấm cúng hay thiếu thốn, tẻ nhạt, căng
thẳng…) quan hệ của gia đình (bố, mẹ) tốt hay không tốt đối với hàng xóm láng giềng, tình hình an ninh
trật tự của địa phương, quan hệ bạn bè tốt hay xấu…Tất cả những điều kiện trên đều có khả năng ảnh
hưởng đến con trẻ. Bởi vậy, việc tìm hiểu nắm vững gia phong, gia cảnh, hoàn cảnh sống nói chung của
từng học sinh là hết sức quan trọng. Nó giúp GVCN biết được nguyên nhân và những yếu tố tích cực
hoặc tiêu cực, được thuận lợi hay khó khăn đang tác động đến học sinh. Đồng thời biết được phương
pháp giáo dục của gia đình (tốt hay chưa tốt) để có thể tham mưu, tư vấn và phối hợp với gia đình để lựa

chọn phương pháp tác động phù hợp.
• Những đặc điểm về thể chất, sinh lý của từng học sinh.
Những đặc điểm về thể chất, sinh lý của học sinh là thể lực (chiều cao, cân nặng…) sức khỏe (khỏe
mạnh hay không, vóc dáng bình thường hay có khuyết tật như gù, thọt, mắt kém, kém tai…) nắm vững
những đặc điểm này, GVCN sẽ hướng sự quan tâm của cả lớp tới việc giúp những em khỏe phát huy mặt
mạnh (đảm nhận những công việc, sự quan tâm, thông cảm giúp đỡ của cả lớp tới những bạn có thể
trạng không bình thường, ưu tiên bạn kém mắt, kém tai ngồi ở vị trí thuận lợi nhất để học có kết quả;
thông cảm và gần gũi, giúp các bạn hòa nhập nhằm hạn chế và xóa bỏ mặc cảm về khuyết tật của mình,
cùng nhau phấn đấu vươn tới mục tiêu chung trong tình cảm đoàn kết thân ái của tập thể lớp).
• Những đặc điểm về tâm lý của mỗi học sinh.
Đó là khả năng nhận thức, tư duy ở mỗi em (thông minh, nhanh nhẹn hay bình thường hoặc chậm) trong
học tập, lao động vui chơi, giao tiếp, tác phong hoạt bát hay chậm chạp hứng thú hoạt động sở thích, nhu
cầu giao tiếp và tình cảm của mỗi em (thích giao tiếp, cởi mở hay lầm lì, ưu tư…) cẩn thận, chin chắn
trong học tập, sinh hoạt hay bồng bột, cẩu thả, hiền dịu hay nóng nảy…việc nắm vững đặc điểm tâm lý
của mỗi học sinh GVCN lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục cá biệt có kết quả tốt.
• Nắm vững tính cách và những hành vi đạo đức của từng học sinh.
Những tính cách và hành vi đạo đức của các em thể hiện ở tính chăm học hay lười học, khiêm tốn hay ba
hoa, trung thực hay giả dối, mạnh dạn hay nhút nhát, nhân hậu vị tha hay ích kỷ với bạn bè và mọi
người, có tính tự lập hay ỷ lại, dựa dẫm vào người khác; biết tự trọng, có ý thức xây dựng, bảo vệ danh
dự bản thân và tập thể hay là vô tổ chức kỷ luật, biết kính trên nhường dưới, tôn trọng mọi người, tôn
trọng pháp luật, tôn trọng bản thân hay sống buông thả, tùy tiện, vô văn hóa. Đặc biệt cần quan tâm đến
thái độ, cách ứng xử của học sinh đối với các thành viên trong gia đình, đối với thầy cô giáo và bạn bè
đúng hay chưa đúng với chuẩn mực xã hội, ở mỗi em có khả năng và sở thích gì.
Tóm lại, việc tìm hiểu và nắm vững những đặc điểm về hoàn cảnh sống (nhất là gia cảnh, gia phong);
những đặc điểm thể chất, tâm sinh lý, những phẩm chất đạo đức, những năng khiếu và sở thích…của
từng học sinh như đã nêu ở trên là hết sức quan trọng và cần thiết. Nắm vững những đặc điểm này, giáo
viên sẽ lựa chọn được những biện pháp tác động sư phạm phù hợp nhằm khơi dậy và phát huy được mặt
mạnh sẵn có, đồng thời hình thành, phát triển những phẩm chất cần thiết ở mỗi em, xây dựng cho các em
một cuộc sống tâm hồn tình cảm phong phú, trong sáng, cao cả và nhân hậu, có năng lực và sức khỏe dồi
dào, thích ứng cuộc sống tự lập của bản thân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Cần lưu ý rằng ở lứa tuổi học sinh phổ thông trung học nói chung, đặc biệt là học sinh THCS nói riêng,
cuộc sống nội tâm của các em dễ có những biến đổi do các quá trình tâm lý chưa ổn định và do sự tác
động của xã hội của hoàn cảnh sống. Bởi vậy GVCN phải thường xuyên quan tâm đến sự thay đổi của
từng học sinh để giúp học sinh có định hướng đúng và điều chỉnh kịp thời. Nói cách khác, việc tìm hiểu,
nắm vững đối tượng giáo dục là việc làm thường xuyên, liên tục trong suốt cả năm học và khóa học nếu
làm chủ nhiệm suốt cả khóa học. Tuy nhiên nội dung cụ thể của việc tìm hiểu có khác nhau ở từng thời
điểm: vào đầu năm học GVCN lớp bắt đầu tiếp cận với học sinh. Công việc tìm hiểu ở giai đoạn đầu tiên
này phải giúp GVCN nắm được sơ bộ những nét cơ bản của từng học sinh và cả lớp nói chung về mọi
mặt. Trên cơ sở đó, phân loại học sinh, dự kiến kế hoạch tổ chức, giáo dục tập thể và từng cá nhân, từng
nhóm học sinh. Những tháng tiếp theo của năm học, việc tìm hiểu học sinh nhằm giúp GVCN kiểm tra
lại độ chính xác của các thông tin thu được ban đầu, kịp thời bổ sung, điều chỉnh kế hoạch, biện pháp tác
động sư phạm phù hợp với từng học sinh và từng nhóm học sinh. Gần cuối học kỳ hoặc cuối năm học,
GVCN tiếp tục theo dõi các em để nắm được tình hình và kết quả giáo dục, kịp thời bổ sung, điều chỉnh
biện pháp tác động để đạt hiệu quả giáo dục cao hơn để tổ chức mọi hoạt động của lớp học và đoàn kết
mọi học sinh trong lớp người GVCN cần phải.
b. Nhiệm vụ thứ hai
“Cộng tác chặt chẽ với phụ huynh học sinh; chủ động phối hợp với các giáo viên bộ môn và các tổ
chức đoàn thể tiến hành các hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh ”
• Kết hợp với các lực lượng trong trường
+ Kết hợp và giúp đỡ các tổ chức Đoàn, Đội thực hiện các mục tiêu giáo dục
Để giáo dục học sinh của lớp cần có kế hoạch kết hợp với tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản
HCM và Đội Thiếu niên tiền phong HCM để tiến hành các hoạt động giáo dục toàn diện ở lớp. Mặt
khác, GVCN phải giúp đỡ chi đoàn, chi đội của lớp xây dựng kế hoạch công tác, bồi dưỡng cán bộ
nòng cốt, cố vấn cho họ tổ chức các hoạt động giáo dục…
Điều quan trọng là GVCN phải giúp đỡ tổ chức Đoàn, Đội chứ không phải áp đặt, phải tôn trọng
tính độc lập, tự quản của tổ chức Đoàn, Đội. Việc can thiệp thô bạo của GVCN sẽ dẫn đến mâu thuẫn
giữa chi đoàn, chi đội với GVCN, ảnh hưởng đến kết quả giáo dục của lớp. Thực tế cho thấy GVCN
nào quan tâm đến công tác của chi đoàn, chi đội và thường xuyên kết hợp với chi đoàn, chi đội để tổ
chức các hoạt động giáo dục của lớp thì hiệu quả giáo dục đối với mọi thành viên trong lớp được
nhân lên gấp bội.

Phối hợp với các giáo viên dạy các môn học.
Hiệu quả giáo dục của một lớp phụ thuộc một phần quan trọng vào hoạt động và phẩm chất của
GVCN và các giáo viên dạy bộ môn của lớp. Vì vậy GVCN phải là hạt nhân của sự kết hợp với các
giáo viên khác cùng thực hiện các tác động sư phạm đồng bộ tới học sinh và tập thể học sinh. Cụ thể
là sự phối hợp đó là:
- Thống nhất là các yêu cầu giáo dục đối với học sinh. Sự thống nhất này sẽ định hướng chung cho
tác động sư phạm của giáo viên, tạo ra được sức mạnh tổng hợp để cùng nâng cao chất lượng
giảng dạy – giáo dục của giáo viên, tránh sự hoạt động rời rạc, tùy tiện, thậm chí vô hiệu hóa tác
động sư phạm của nhau.
- Theo dõi thường xuyên ý thức và kết quả học tập của từng học sinh nói riêng, cả lớp nói chung
đối với từng môn học.
Dự giờ, quan sát ý thức, hứng thú học tập và thăm dò, phát hiện những khó khăn của học sinh
trong học tập.
Trao đổi với giáo viên bộ môn về những học sinh có khó khăn trong học tập và rèn luyện (hoàn cảnh
gia đình không thuận lợi, sức khỏe yếu, ý thức kỷ luật kém…) đồng thời tiếp thu ý kiến của giáo viên
bộ môn phản ánh để cùng hỗ trợ, phối hợp tác động tới lớp nói chung và từng học sinh nói riêng
Phản ánh với giáo viên bộ môn về nguyện vọng của học sinh và đề xuất với giáo viên bộ môn giúp
lớp tổ chức trao đổi kinh nghiệm học tập để học sinh học môn đó có kết quả học tập tốt hơn, đồng
thời đề bạt, cuốn hút các giáo viên bộ môn tham gia các hoạt động tập thể của lớp có liên quan đến
môn học nhằm kích thích và tạo thuận lợi cho các em hoạt động có hiệu quả.
• GVCN thực hiện liên kêt với gia đình
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên ảnh hưởng đến đứa trẻ, trước hết là ảnh hưởng của cha
mẹ một cách sâu sắc. Vì vậy giáo dục gia đình đã trở thành một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp
giáo dục trẻ em. Giáo dục gia đình vốn có những đặc trưng riêng của nó, nên vấn đề đặt ra là nhà
trường cần phải liên kết với gia đình như thế nào để đảm bảo được tính thống nhất toàn vẹn của quá
trình giáo dục thì giáo dục gia đình mới phát huy được ảnh hưởng và cùng với nhà trường giáo dục
học sinh có hiệu quả. Chính GVCN lớp là người thay mặt nhà trường thực hiện sự liên kết này.
Trước hết, GVCN phải giúp cha mẹ học sinh hiểu rõ chủ trương, kế hoạch giáo dục của nhà
trường và mục tiêu, kế hoạch phấn đấu của lớp. Trên cơ sở đó GVCN thống nhất với gia đình về yêu
cầu, nội dung, biện pháp, hình thức giáo dục. GVCN cũng có thể đề nghị gia đình tạo mọi điều kiện

cần thiết để học sinh học tập, rèn luyện ở nhà trường theo mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Nội dung liên kết giữa GVCN với gia đình:
GVCN có kế hoạch định kỳ thông báo cho gia đình học sinh biết kết quả học tập, lao động tu
dưỡng… của con em họ.
GVCN phải cùng gia đình thường xuyên tự điều chỉnh và hoàn thiện liên kết giáo dục.
- GVCN phải tư vấn cho các bậc phụ huynh về kiến thức tâm lý học, giáo dục học sinh để cùng nhà
trường giáo dục học sinh, tổ chức bồi dưỡng phương pháp giáo dục gia đình cho cha mẹ học sinh.
- GVCN thay mặt nhà trường yêu cầu cha mẹ học sinh cùng với nhà trường chăm lo xây dựng cơ sở
vật chất để giáo dục con em.
Các nội dung trên được thực hiện bằng nhiều cách như:
- Sổ liên lạc giữa nhà trường với gia đình; hình thức này với học sinh THCS và các lớp đầu cấp của
THPT.
- Họp phụ huynh theo định kỳ: đầu năm, giữa họ kỳ, cuối học kỳ… Bởi lẽ họp phụ huynh sẽ giúp
họ nắm đầy đủ chủ trương, kế hoạch của lớp, của trường cùng thảo luận góp ý kiến thống nhất
biện pháp giáo dục cũng như phương pháp giải quyết tối ưu nhất để đạt được mục đích giáo dục.
- Qua hội cha mẹ học sinh, cán bộ học sinh
- Qua việc thăm gia đình học sinh
- Qua việc mời cha mẹ học sinh đến trường trao đổi trực tiếp để bàn biện pháp giáo dục con em .
Tuy nhiên không nên quá lạm dụng hình thức này.
c. Nhiệm vụ thứ ba
“Thực hiện, đánh giá và hoàn chỉnh việc ghi chép vào hồ sơ học bạ của học sinh. ”
Cần lưu ý rằng đánh giá kết quả giáo dục học sinh là một trong những nội dung lớn và hết sức quan
trọng của công tác chủ nhiệm lớp. Bởi lẽ nó không phải chỉ phản ánh kết quả giáo dục học sinh mà còn
phản ánh nội dung, phương pháp giáo dục của các lực lượng giáo dục nói chung, của GVCN nói riêng.
Đánh giá đúng sẽ là động lực giúp học sinh nỗ lực rèn luyện tu dưỡng, phát huy ưu điểm, sẽ khích lệ
động viên học sinh không ngừng rèn luyện, phấn đấu vươn lên hoàn thiện mình. Nói cách khác, sự đánh
giá đúng và mang tính giáo dục sẽ mang lại kết quae giáo dục. Ngược lại, sự đánh giá không đúng,
không khách quan đối với học sinh của nhà trường nói chung, của GVCN nói riêng sẽ đưa lại hậu quả
xấu, phản giáo dục. Trong thực tế đánh giá sai lầm của một số GVCN đã dẫn tới những phản ứng của
học sinh. Vì vậy phải đánh giá khách quan là nguyên tắc của GVCN trong việc đánh giá thành tích của

lớp và từng học sinh.
Để đánh giá được kết quả giáo dục đạo đức học sinh cần căn cứ vào các chỉ tiêu giáo dục đạo đức
trong nhà trường. Đó là các phẩm chất đạo đức cần được giáo dục thông qua thái độ, hành vi ứng xử
trong các mối quan hệ đa dạng của các em như đối với công việc, đối với xã hội với mọi người, với bản
thân mình.
Đối với công việc đánh giá tinh thần tự giác, tích cực học tập, tinh thần trách nhiệm và quan tâm
đến hiệu quả học tập, tham gia lao động và hoạt động tập thể, tận tụy trong mọi công việc và hoàn thành
tốt công việc được giao.
Đối với mọi người và xã hội đánh giá lòng vị tha, nhân ái, hướng thiện, đoàn kết giúp đỡ bạn bè, kính
trọng người lớn, giúp người tàn tật, thương yêu, nhường nhịn em nhỏ, tôn trọng pháp luật, bảo vệ của
công, bảo vệ môi sinh, có ý thức cộng đồng và hợp tác.
Đối với bản thân: đánh giá lòng tự trọng bản thân và ý thức trách nhiệm với bản thân. Điều này
được thể hiện ở cách ăn mặc gọn gang, sạch sẽ phù hợp với lứa tuổi, nói năng lịch sự, lễ phép văn minh,
quyết tâm khắc phục những yếu kém của bản thân để không ngừng tiến bộ, có ước mơ hoài bão.
Tóm lại đánh giá kết quả giáo dục học sinh cũng chính là giáo dục các em. GVCN cần tổ chức cho học
sinh tham gia vào quá trình tự đánh giá và đánh giá kết quả rèn luyện của bản thân mỗi học sinh và của
cả lớp theo các phẩm chất nói trên. Việc tổ chức cho các em tham gia vào quá trình tự đánh giá và đánh
giá giúp các em tự điều chỉnh thái độ, hành vi của mình và rèn luyện cho năng lực tự hoàn thiện nhân
cách.
d. Nhiệm vụ thứ tư
“Báo cáo thường kỳ và đột xuất với hiệu trưởng về tình hình của lớp”
GVCN là người thừa lệnh của Hiệu trưởng – BGH, thay mặt nhà trường để tổ chức quản lý giáo
dục học sinh một lớp. Để học sinh lớp mình phụ trách, GVCN phải dựa vào kế hoạch giáo dục chung
của trường đồng thời dựa vào tình hình cụ thể của lớp để xây dựng kế hoạch, đề ra biện pháp để giáo dục
học sinh lớp mình, thường xuyên báo cáo tình hình lớp với BGH nhà trường; đề xuất xin ý kiến về biện
pháp giáo dục và đề nghị BGH cùng phối hợp và thống nhất tác động sư phạm đối với cả lớp và từng
học sinh.
Cần phối hợp với các lực lượng khác nhau như bảo vệ, thư viện, văn thư, y tế nhà trường… để
giáo dục học sinh, trong nhiều trường hợp, GVCN sẽ hiểu học sinh mình thông qua lực lượng này một
cách khách quan. GVCN cần đề xuất yêu cầu và đề nghị họ cùng thống nhất biện pháp tác động sư phạm

đối với học sinh khi cần thiết. Sự quan tâm, giáo dục học sinh trên tinh thần trách nhiệm chung đối với
sự nghiệp giáo dục và sự mẫu mực trong ứng xử đối với học sinh của các lực lượng này cũng hết sức
quan trọng, góp phần tạo thuận lợi cho GVCN nói riêng và nhà trường nói chung, phối hợp giáo dục học
sinh có hiệu quả.
Sự kết hợp của GVCN với lực lượng trong trường để giáo dục học sinh còn thể hiện ở khâu đánh
giá kết quả giáo dục toàn diện của lớp. Trong khâu này GVCN không thể không lấy ý kiến cả giáo viên
dạy bộ môn của lớp, cán bộ chuyên trách công đoàn, đội của trường…Bởi lẽ những ý kiến này liên quan
đến việc đánh giá kết quả học tập, rèn luyện thể chất, bồi dưỡng thẩm mỹ…và liên quan đến việc đánh
giá kết quả tu dưỡng đạo đức của học sinh
Tóm lại, GVCN phải là người tổ chức, liên kết hoạt động và thống nhất tập thể sư phạm dạy lớp mình
chủ nhiệm.
3. Phương pháp công tác chủ nhiệm lớp
Công tác chủ nhiệm lớp là một hoạt động có tính khoa học và rất cụ thể, bản chất của nó là
hoạt đọng tổ chức giáo dục con người. Đối tượng hoạt động của GVCN vừa là tập thể, vừa là
từng học sinh cá thể, phương pháp là tác động giáo dục đến từng cá nhân thông qua giáo dục tập
thể. Phương pháp công tác của người GVCN lớp được tiến hành như sau:
a. Phương pháp thứ nhất:
Nghiên cứu điều tra thật đầy đủ về các mặt của từng cá nhân trong lớp để từ đó mà phân loại
học sinh. Sự phân loại được tiến hành theo các tiêu chí khác nhau như lực học, đạo đức, hứng
thú, sức khoẻ,
năng khiếu, sở trường, …. từ sự phân loại học sinh theo yêu cầu riêng. Muốn giáo dục con người
phải hiểu con người về mọi mặt.
b. Phương pháp thứ hai:
Xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh bằng con đường đưa họcsinh vào một nề nếp, với
kỷ luật chặt chẽ ngay từ đầu năm học, với cáchoạt động phong phú, lành mạnh, truyền thống tốt
đẹp, có viễn cảnh
tương lai … nhằm biến tập thể học sinh thành một tập thể đoàn kết, các thành viên gắn bó và yêu
thương nhau, trở thành môi trường giáo dục rèn luyện và tốt đối với tất cả học sinh.
c. Phương pháp thứ ba:
Tổ chức các hoạt động tập thể học sinh với nhiều loại hình phong phú. Trước hết là chăm lo

đến hoạt động học tập của học sinh. Việc học tập cần phải có ý thức chuyên cần, chủ động, tích
cực và có phương pháp tốt. Chăm lo đến việc tu dưỡng đạo đức của học sinh giúp đỡ và lôi kéo
tất cả học sinh trở thành đoàn viên tốt. Tổ chức các hình thức hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể
thao, tham quan du lịch, vui chơi giải trí, … các hoạt động này càng phong phú hấp dẫn thì giá
trị giáo dục sẽ càng cao.
Tổ chức các hoạt động tập thể học sinh với nhiều loại hình phong phú.
- Thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, học sinh sẽ củng cố, bổ sung và mở
rộng thêm tri thức đã học, phát triển óc thẩm mỹ, tăng cường thể chất, nhận thức xã hội và ý
thức công dân, thêm yêu quê hương dất nước.
- Giáo dục thái độ tích cực, tinh thần đoàn kết và ý thức chủ động, mạnh dạn trong các hoạt
động tập thể
- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tự quản hoạt động ngoài giờ lênlớp, góp phần giáo dục
tính tích cựccủa người công dân tương lai.
d. Phương pháp thứ tư:
Liên hệ chặt chẽ với các gia đình, thống nhất các yêu cầu giáo dục chung. Mối liên hệ giáo
dục với cha mẹ học sinh càng chặt chẽ, thường xuyên và cụ thể thì càng có giá trị. Con đường
liên hệ thường là tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa gia đình và nhà trường, với cả tập thể phụ huynh
hoặc các cuộc gặp riêng, đặc biệt đối với phụ huynh có học sinh cá biệt. Tổ chức các buổi họp sơ
kết, tổng kết năm học để báo cáo kết quả học tập và tu dưỡng của từng học sinh để phối hợp giáo
dục. Có thể tổ chức các cuộc viếng thăm gia đình, địa phương.
Thực hiện các nội dung phối hợp trên đây, GVCN có thể tiến hành dưới các hình thức sau:
- Họp phụ huynh học sinh theo định kỳ (đầu năm học, giữa học kỳ I, đầu học kỳ II và cuối năm
học). GVCN triệu tập họp toàn thể phụ huynh của lớp. Ngoài ra có thể có cuộc họp vào giữa học
kỳ hai hoặc cuộc họp bất
thường khi có vấn đề đột xuất, quan trọng đối với học sinh của lớp, của trường. Họp phụ huynh
là hình thức chủ yếu và quan trọng đồng thời là hình thức phổ biến nhất hiện nay. Bởi lẽ, họp
phụ huynh sẽ giúp các bậc cha mẹ nắm đươcj đầy đủ chủ trương kế hoạch giáo dục của nhà
trường, tình hình chung của lớp, mục tiêu, kế hoạch của lớp và thông tin về con em của họ. Trên
cơ sở đó, cùng đóng góp ý kiến thảo luận thống nhất biện pháp giáo dục cũng như phương pháp
tối ưu nhất để đạt được mục tiêu giáo dục. Các cuộc họp cần có nội dung cụ thể và được

chẩn bị chu đáo. Nội dung các cuộc họp cần:
• Phổ biến chủ trương, kế hoạch giáo dục của trường, chỉ tiêu phấn đấu của lớp, của từng học
sinh.
• Đánh giá kết quả học tập, sự tiến bộ hoặc khó khăn của từng học sinh và cả lớp.
• Đặt ra nhiệm vụ, nội dung giáo dục thông nhất giữa nhà trường và giađình trong từng thời
gian cụ thể. Đòng thời thống nhất phân công nhiệm vụ giữa nhà trường (GVCN làm gì?) và gia
đình (phải làm gì?) để kết hợp tác động giáo dục với một kế hoạch cụ thể.
• Xác định nhiệm vụ của chi hội, tổ phụ huynh học sinh trong việc tổ chức giáo dục học sinh ở
cộng đồng. Ví dụ, tổ chức cho học sinh giúpđỡ nhau tự học ở nhà (nhất là đối với học sinh yếu),
tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, phối hơpc với cha mẹ học sinh có con chưa
ngoan giúp họ giáo dục con em.
• Trang bị cho phụ huynh một số kiến thức khoa học giáo dục gia đình, nâng cao nhận thức về
trách nhiệm giáo dục con em của gia đình.
Các nội dung chủ yếu trên cần được quán triệt thích hợp vào mỗi kỳ họp phụ huynh ở những
thời điểm cụ thể: đầu năm học, cuối học kỳ I, cuối năm học…. Ví dụ, kỳ họp phụ huynh đầu
năm cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Nội dung 1: GVCN báo cáo nhiệm vụ, kế hoạch năm học, tình hình, đặc điểm và chỉ tiêu
phấn đấu của lớp; những yêu cầu đối với gia đình và chi hội phụ huynh học sinh trong việc giáo
dục con em.
Nội dung 2: đại diện chi hội phụ huynh (được GVCN tạm thời chỉ định hoặc chi hội cũ) bàn
bạc và thảo luận với cha mẹ học sinh nhằm thống nhất mục tiêu, kế hoạch và giải pháp, hình
thức phối hợp với nhà trường, với GVCN trong giáo dục con em.
Nội dung 3: tổ chức bầu ban đại diện chi hội cha mẹ học sinh. Nôi dunh này không thể thiếu
được đối với cuộc họp đầu năm của phụ huynh học sinh lớp 10. Đối với cuộc họp đàu năm của
cha mẹ học sinh lớp 11 và lớp 12 thì tuỳ theo tình hình cụ thể của ban đại diện sau một năm hoạt
động mà có thể không cần bầu lại hoặc phải bầu bổ sung. Ban đại diện chi hội phụ huynh cần đạt
các tiêu chuẩn: nhiệt tình, có trách nhiệm, có uy tín, có thời gian, điều kiện hoạt động, ở khu vực
tập trung học sinh của lớp.
Các kỳ họp cha mẹ học sinh cuối kỳ I và cuối năm học có thể vận dụng các nội dung chủ
yếu khác như đã nêu. Đặc biệt trong kỳ họp cha mẹ học sinh cuối năm học, GVCN cần báo cáo

kế hoạch hoạt động hè củahọc sinh ở địa phương và xác định rõ trách nhiệm của cha mẹ học
sinh, tham gia quản lý nhắc nhở, tạo điều kiện cho con em tham gia hoạt động hè tốt ở địa
phương.
Để các cuộc họp cha mẹ học sinh tiến hành có kết quả tốt, GVCN cần bàn bạc với ban đại
diện chi hội để họ cùng tham gia chuẩn bị chu đáo.
-Sổ liên kết giáo dục hoặc phiếu báo công, nhắc nhở học sinh. Sổ liên lạc giữa nhà trường và
gia đình là hình thức quan trọng và phổ biến hiện nay trong việc kết hợp giáo dục giữa nhà
trường và gia đình . Song trong thực tế hiện nay nó có ít tác dụng và không mấy hiệu quả giáo
dục đối với học sinh lớp, nhất là học sinh lớp 11, 12. Các em không tự giác chuyển cốn sổ này từ
thầy cô đến cha mẹ và ngược lạị nên chẳng cần cải tiến sổ liên lạc thành sổ liên kết giáo dục
giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Sự cải tiến này nhằm thu hút các lực lượng xã hội tham gia
đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh ở cộng đồng và là lực lượng chuyển giao sổ
giữa GVCN và gia đình (không thông qua học sinh như hiện nay). Như vậy trong sổ liên kết có

×