Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Những biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trung học phổ thông qua giờ văn học sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.44 KB, 14 trang )

Những biện pháp rèn luyện năng lực tự học
cho học sinh trung học phổ thông qua giờ
văn học sử


Nguyễn Thị Minh Nguyệt


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: GS. NGND Phan Trọng Luận
Năm bảo vệ: 2010


Abstract. Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động tự học. Nêu và
phân tích những biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trung học phổ
thông qua giờ văn học sử. Trình bày thử nghiệm một số bài văn học sử trong chương
trình trung học phổ thông theo hướng rèn luyện năng lực tự học.

Keywords. Ngữ văn; Phương pháp dạy học; Văn học sử; Năng lực tự học; Trung
học phổ thông


Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tự học, tự nghiên cứu là một tư tưởng chiến lược của chương trình phát triển giáo
dục thời đại mới cũng như của khoa sư phạm hiện đại
Tự học trong bối cảnh hiện nay của đất nước và thế giới trước ngưỡng cửa của thế kỷ
XXI là một cách nhìn thực tế, vừa có ý nghĩa chiến lược. Để có thể làm chủ được tri thức,


không có con đường nào khác là con đường phát huy nội lực bản thân để tự học, tự hoàn
thiện để vươn lên hoà nhập xã hội.
1.2. Một yêu cầu hết sức cấp bách đang đặt ra cho nền giáo dục nước ta là: phải HĐH nội
dung và phương pháp DH
Người GV phải thay đổi phương pháp DH giúp HS có những kỹ năng tự học để rút
ngắn thời gian học tập trên lớp mà vẫn đạt hiệu quả cao.
1.3. Những thành tựu mới về não học CNTT càng tạo tiền đề cho việc coi trọng tự học
Khoa học và công nghệ phát triển với sức thần tốc kỳ diệu đó là sự ra đời của Máy
tính và Internet. Nhưng bộ não là một phần lãnh thổ lớn nhất chưa được khám phá hết trên
thế giới. Bộ não giúp chúng ta học tập suốt đời, từ khi sinh ra cho đến khi không còn có mặt
trên trái đất này.
Trên đây là những lý do để tác giả luận văn đặt vấn đề rèn luyện năng lực tự học cho
HS THPT qua giờ VHS.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị đề cập đến vấn đề nâng cao
chất lượng dạy và học, phương pháp chú trọng đến việc xem HS là chủ thể nhận thức. Vấn đề
rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT qua giờ VHS không còn là vấn đề mới mẻ. Năm
1947, khi nói về công tác huấn luyện Hồ Chí Minh đã nói "lấy tự học làm nòng cốt". Tháng
11 năm 1997, Vũ Quốc Anh – vụ THPT – Bộ Giáo dục và Đạo tạo có bài viết: "Tạo ra năng
lực tự học sáng tạo của HS THPT". Giáo sư Phan Trọng Luận có bài: "Dạy học để HS tự học
văn". Ngay sau đó là tháng 12 /1998 Giáo sư Phan Trọng Luận có bài viết: "Tự học – chìa
khoá vàng của giáo dục". Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn có rất nhiều bài đúc kết kinh nghiệm
quí báu về tự học trong đó có: "Vài kinh nghiệm tự học - tự nghiên cứu" [Tạp chí tự học số
7/3/2000]. Đến năm 2001 Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cho ra đời hai cuốn sách quí giá: “Học
và dạy cách học” Và “Tuyển tập tác phẩm tự giáo dục, tự học” tập 1 và tập 2 do trường
ĐHSP HN1 – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây xuất bản – 2001.
Trong môn VH ở nhà trường THPT thì phân môn VHS giữ một vị trí quan trọng nhưng
chưa được quan tâm đúng mức. Số công trình nghiên cứu về vấn đề này còn quá khiêm tốn,
chỉ có “Mấy vấn đề giảng dạy VHS ở trường phổ thông cấp III” của Giáo sư Phan Trọng
Luận và một số nghiên cứu khác như: “Những hình thức tích cực hoá hoạt động nhận thức

của HS trong giờ VHS ở trường THPT” của Đào Văn Phán và “Hình thành năng lực nghiên
cứu tự học cho HS THPT qua giờ VHS” của Lê Khánh Toàn, đặc biệt là luận án tiến sĩ của
Phạm Kim Xuyến: “Rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT qua giờ VHS”. Tuy vậy còn
thiếu vắng một công trình, một chuyên luận vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn
sát thực với HS THPT ở địa phương.
Vấn đề rèn luyện kỹ năng tự học cho HS THPT qua giờ VHS được vận dụng vào địa
phương cụ thể còn là vấn đề mới mẻ và tương đối phức tạp. Tác giả luận văn đặt ra vấn đề
rèn luyện những năng lực tự học cho HS THPT qua giờ VHS. Tác giả cho đó là vấn đề thiết
thực, góp phần thực thi việc đổi mới phương pháp DH VH nói chung và phân môn VHS nói
riêng trong nhà trường THPT hiện nay, đặc biệt là ở thành phố Hải Phòng. Tác giả hi vọng
luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tháo gỡ những khó khăn, lúng túng cho GV
trong khi thực thi chương trình và SGK Ngữ văn mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Cùng với xu hướng đổi mới phương pháp DH nói chung, DH Ngữ văn nói riêng,
luận văn góp phần xây dựng cơ sở lí luận và khảo sát thực tế giờ dạy - học VHS, tạo tiền đề
cho vấn đề tự học ở THPT và khẳng định tầm quan trọng của tự học trong chiến lược giáo
dục.
* Luận văn mạnh dạn đưa ra một trong những phương pháp DH tích cực và hiệu quả
nhất đó là hướng dẫn HS tự làm việc, tự tiếp cận để chiếm lĩnh tri thức VHS một cách chủ
động, góp phần giải quyết những tồn tại trong lối DH thông báo kiến thức.
* Để nâng cao chất lượng giờ học VHS, biến quá trình DH thành quá trình tự học,
luận văn muốn khẳng định khả năng vận dụng tự học trong giờ học VHS, đóng góp một phần
cùng với môn Ngữ văn chuẩn bị cho HS một hành trang vững chắc cả về tri thức lẫn phương
pháp, kỹ năng tự học.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy và học VHS ở nhà trường THPT (bài học VHS và giờ dạy học VHS ở
nhà trường THPT)
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Các bài học VHS ở nhà trường THPT.

5. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu nâng cao được năng lực tự học cho HS THPT thì hiệu quả của giờ học VHS sẽ
được nâng cao một cách vững chắc. Đồng thời hình thành và rèn luyện cho bản thân một
năng lực quan trọng để học tập, nghiên cứu lên bậc Đại học cũng như trong đời sống.
6. Đóng góp của đề tài
Khẳng định trên cơ sở lý luận và thực tiễn tầm quan trọng của tự học và yêu cầu rèn
luyện năng lực tự học cho học sinh THPT qua giờ học VHS.
Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả DH VHS ở nhà trường THPT nói riêng và VH
nói chung.
Đặt vấn đề hình thành những biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT qua
giờ VHS, luận văn góp phần thực hiện hoá một bước tư tưởng đổi mới phương pháp DH
Ngữ văn nói chung, phân môn VHS nói riêng đang đặt ra hiện nay.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp khảo sát thức tế (dự giờ dạy và học VHS của GV và HS).
7.2. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
7.3. Phương pháp tổng hợp và vận dụng lý luận như phân tích, tổng hợp, so sánh…khái
quát một số phương diện thuộc về rèn luyện năng lực tự học.
7.4. Phương pháp thể nghiệm và kiểm chứng giả thuyết của luận văn: soạn và dạy 2 bài:
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến CM tháng 8 năm 1945 và Khái quát VH Việt
Nam từ CM tháng 8 năm 1945 đến hết thế kỷ XX để minh họa.
8. Phạm vi và giới hạn của luận văn
8.1. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề dạy và học các bài VHS ở các trường THPT: Nguyễn Đức Cảnh, Thái Phiên,
Ngô Quyền trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
8.2. Giới hạn khách thể điều tra
Các giờ dạy và học VHS ở nhà trường THPT
Những biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT qua giờ VHS được tiến
hành trong phạm vi phần VHS VN trong chương trình Ngữ Văn THPT.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3

chương:
Chương 1: Cơ sở thực tiễn và lý luận của tự học.
Chương 2: Tự học trong giờ học văn học sử ở nhà trường Trung học phổ thông.
Chương 3: Thể nghiệm một số bài văn học sử trong chương trình Trung học phổ
thông theo hướng rèn luyện năng lực tự học.

Chƣơng 1: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA TỰ HỌC
1.1. Cơ sở thực tiễn
1.1. Khảo sát tình hình dạy và học VHS ở nhà trường THPT
1.1.1.1. Phần khảo sát
Địa bàn khảo sát: Tiến hành dự giờ dạy và học, ra đề khảo sát khả năng phát hiện luận
điểm, khả năng lập dàn ý của HS thuộc địa bàn Hải Phòng.
+ Trường THPT Nguyễn Đức Cảnh – Hải Phòng
+ Trường THPT Thái Phiên – Hải Phòng
+ Trường THPT Ngô Quyền – Hải Phòng
Đối tượng khảo sát: HS 2 khối 11 và 12, do GV của 3 trường trên giảng dạy.
Số lượng giờ dự: 2 bài tương đương 4 tiết: Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đến Cách Mạng tháng 8/1945 và Khái quát VH Việt Nam từ CM tháng 8/1945 đến hết thế kỉ
XX.
Thời gian khảo sát: Năm học 2007 - 2008 và 2009 – 2010
1.1.1.2. Một vài số liệu và kết quả thu hoạch rút ra qua khảo sát

Bảng 1.1: Tỷ lệ thời gian GV sử dụng trong giờ học

S
TT
Tên bài giảng
Số
tiết
Lớp

Thời gian GV
sử dụng
Tên Trƣờng
Giáo viên
Phút
%
1
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
2
11B3
72
80%
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
Lương Thị
Vui
2
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
2
11B2
70
77%
THPT Thái
Phiên
Trần Thị
Hậu
3

Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
2
11B1
71
82%
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
Nguyễn
Thị Ánh
4
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
2
11B4
70
77%
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
Vũ Thị
Hợp
5
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
2
11B5
72
80%

THPT Ngô
Quyền
Đồng
Hoàng
Hưng
6
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
2
12A1
72
80%
THPT Ngô
Quyền
Cao Tố
Nga
7
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
2
12A2
69
75%
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm
8
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX

2
12A8
70
77%
THPT Thái
Phiên
Ng. Thị
Hương
9
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
2
12A7
68
74%
THPT Thái
Phiên
Vũ Bích
Thuỷ
10
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
2
12A3
71
78%
THPT Thái
Phiên
Cao Thu
Thuỷ

Tỷ lệ trung bình: 86%

Bảng 1.2: Tỷ lệ thời gian HS sử dụng trong giờ học
ST
T
Tên bài giảng
Số
tiết
Lớp
Thời gian
GV sử dụng
Tên Trƣờng

Giáo viên
Phút
Tỷ lệ
%


1
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
2
11B3
18
20%
THPT Nguyễn
Đức Cảnh
Lương Thị
Vui

2
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
1
11B2
5
23%
THPT Thái
Phiên
Trần Thị
Hậu
3
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
1
11B1
5,5
18%
THPT Nguyễn
Đức Cảnh
Ng.
Thị Ánh
4
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
1
11B4
6,5
23%
THPT Nguyễn

Đức Cảnh
Vũ Thị
Hợp
5
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
1
11B5
5
20%
THPT Ngô
Quyền
Đồng
Hoàng
Hưng
6
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
2
12A1
18
20%
THPT Ngô
Quyền
Cao Tố
Nga
7
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
1

12A2
4,5
25%
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm
8
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
1
12A8
6,5
23%
THPT Thái
Phiên
Nguyễn
Thị Hương
9
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
1
12A7
5,5
24%
THPT Thái
Phiên
Vũ Bích
Thuỷ
10

Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
1
12A3
6,5
22%
THPT Thái
Phiên
Cao Thu
Thuỷ
Tỷ lệ trung bình: 14%

Bảng 1.3: Số lượng câu hỏi nêu ra trong mỗi giờ học
STT
Tên bài giảng
Số
tiết
Lớp
Số lƣợng
câu hỏi
Tên Trƣờng

Giáo
viên

1
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
2
11B3

8 câu
THPT Nguyễn
Đức Cảnh
Lương
Thị Vui
2
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
1
11B2
8 câu
THPT Thái
Phiên
Trần Thị
Hậu
3
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
1
11B1
7 câu
THPT Nguyễn
Đức Cảnh
Ng. Thị
Ánh
4
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
1
11B4

7 câu
THPT Nguyễn
Đức Cảnh
Vũ Thị
Hợp
5
Khái quát VH Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến CM tháng 8/1945
1
11B5
7 câu
THPT Ngô
Quyền
Đồng
Hoàng
Hưng
6
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
2
12A1
8 câu
THPT Ngô
Quyền
Cao Tố
Nga
7
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
1

12A2
6 câu
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm
8
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
1
12A8
6 câu
THPT Thái
Phiên
Ng. Thị
Hương
9
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
1
12A7
7 câu
THPT Thái
Phiên
Vũ Bích
Thuỷ
10
Khái quát VH Việt Nam từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX
1

12A3
8 câu
THPT Thái
Phiên
CaoThu
Thuỷ

1.1.2. Những kết luận rút ra qua khảo sát
1.1.2.1. Về hoạt động giảng dạy của GV
* GV lạm dụng phương pháp diễn giảng
Qua các giờ khảo sát, chúng ta thấy hầu hết GV làm việc rất vất vả, hoạt động liên
tục, một mình diễn trên bục giảng. Tâm lý GV là trình bày cho HS trọn vẹn kiến thức SGK.
Việc GV chọn lọc và định hướng kiến thức chưa dụng công, chưa hợp lý, GV ít chú ý đến
việc mở rộng kiến thức cho HS. Phương pháp diễn giảng kiến thức SGK trong bài học VHS
như đóng khung.
* Phương pháp đặt câu hỏi của giáo viên chưa logic, chưa hệ thống, nặng về câu hỏi tái hiện
Từ khảo sát cho thấy, GV có sử dụng phương pháp này nhưng chỉ dừng lại ở mặt
hình thức và các câu hỏi mang tính tái hiện nhiều, dài ngắn không lôgic, không hệ thống nên
chưa đạt hiệu quả giảng dạy cao.
Các câu hỏi không có quan hệ liên kết, không lôgic, không xuyên suốt giữa các phần
trong nội dung bài KHGĐ VH. Câu hỏi rất bám sát SGK, nhằm tái hiện những luận điểm
trong SGK, GV đọc tái hiện các câu hỏi trong SGK.
1.1.2.2. Hoạt động nghe và chép của HS là chủ yếu
Qua các giờ khảo sát, chúng ta thấy các giờ học VHS còn tồn đọng các khuyết điểm
sau:
Một là trong các giờ VHS hoạt động chủ yếu của HS là nghe và chép. Trung tâm giờ
học vẫn là GV, là người truyền đạt kiến thức, là người thuyết trình, diễn giảng còn HS là
khách thể, lắng nghe, chép bài một cách thụ động. Còn kiểm tra vở ghi đến 2/3 HS trong lớp
chép đầy đủ các đề mục thầy cô ghi trên bảng, không có sàng lọc kiến thức bài giảng của thầy
cô.

Hai là khả năng phát hiện luận điểm của HS rất chậm, diễn đạt lủng củng, lan man,
dài dòng, không cô đọng. Trong khi kiến thức của các bài khái quát VHS được vận dụng
nhiều trong quá trình HS chiếm lĩnh các tác phẩm văn chương.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Quan niệm về năng lực tự học của HS THPT
Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, tự học vừa có tính truyền thống vừa
có tính phổ biến. Để tiến kịp với khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão của nhân loại,
rèn luyện năng lực tự học càng được quan tâm nhiều hơn vì HS THPT cần được tiếp xúc, làm
quen và hình thành những năng lực tự học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường THPT,
bước đầu tạo dựng nền tảng cho việc học Đại học và quá trình công tác suốt đời.
Tự học là khả năng tự tìm tòi, tự học hỏi, tự nghiên cứu những tài liệu. Tự học, tự
nghiên cứu là một quá trình, trong đó mỗi con người tự suy nghĩ, tự sử dụng các năng lực trí
tuệ và các phẩm chất của bản thân, tự khai thác vận dụng những điều kiện vật chất để cho
công việc có hiệu quả hơn.
Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn: Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu nhận
thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích,
tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả
động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh được một lĩnh vực hiểu
biết nào đó, một số kỹ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng
biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới cũng có thể coi là một hình thức tự
học cao cấp.
Còn theo Nguyễn Kỳ, tự học của HS THPT có bốn đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất người HS phải biết tìm ra kiến thức.
Thứ hai là người học tự thể hiện mình, đặt mình vào tình huống, tự trình bày bảo vệ
sản phẩm của mình, tỏ rõ thái độ của mình truớc môi trường xung quanh, tập giao tiếp với
mọi người trong quá trình tìm ra tri thức.
Thứ ba người thầy là người tổ chức hướng dẫn cho HS tự nghiên cứu tìm ra tri thức
và thể hiện mình trước tập thể, trước cộng đồng.
Thứ tư là người học tự đánh giá, tự kiểm tra là kiến thức sau khi đã trao đổi với bạn
bè và dựa vào kết luận của thầy cô, tự mình sửa chữa, tự mình điều chỉnh tự mình hoàn thiện

và tự mình rút ra được kinh nghiệm về cách học, cách xử lý tình huống, cách giải quyết vấn
đề của mình.
Thực chất tự học của HS THPT chủ yếu là nghiên cứu những bài học cụ thể trong
SGK, những tư liệu có liên quan để đối chiếu, so sánh, mở rộng. Đòi hỏi các em phải phát
huy một cách tối đa tính tích cực, độc lập, tự giác để nắm vững những tri thức mà loài người
đã và đang tích luỹ, phải biến nó thành tài sản, thành vốn hiểu biết riêng của bản thân.
1.2.2. Tự học - vấn đề mang tính chiến lược sư phạm hiện đại
1.2.2.1. Tự học - nhu cầu và đòi hỏi của thời đại đối với mỗi con người trong thế kỷ XXI
Khoa học và công nghệ phát triển ở cấp vũ trụ đã tạo ra nhiều phương pháp tiếp cận
tri thức khác nhau theo khả năng và điều kiện cho phép. Để cập nhật và ứng dụng được tri
thức lý thuyết và thực hành vào cuộc sống và sản xuất thì phải có năng lực tự học ở bất cứ
đâu, hoàn cảnh nào.
Vấn đề thay sách mới đây nhất cho thấy, chúng ta đã tăng lượng kiến thức lên quá
nhiều. Để chiếm lĩnh được khối lượng kiến thức đó đòi hỏi HS phải có những phương pháp
tự học tốt nhất.
Tri thức nhân loại là vô tận, những công trình khoa học được các nhà khoa học phát
minh ra hàng ngày, để chiếm lĩnh và ứng dụng được các tri thức khoa học vào đời sống đòi
hỏi mỗi người phải tự nghiên cứu tìm tòi ra phương pháp tự học ở nhà trường và ngoài xã
hội.
1.2.2.2. Tự học – lời giải cho vấn đề mang nhiều nghịch lý đang đặt ra trong chiến lược giáo
dục con người
Nghịch lí đầu tiên mà tự học là con đường khắc phục đó là tri thức thì vô hạn nhưng
tuổi học đường thì có giới hạn. Ở nước ta đào tạo THPT là 3 năm, đại học là 4 năm có trường
5 năm trong khi khối lượng tri thức khổng lồ của nhân loại thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội, khoa học …cùng với sự bùng nổ thông tin đang diễn ra hàng ngày.
Nghịch lý thứ hai đó là tự học – con đường để khắc phục khó khăn thử thách rèn
luyện ý chí vươn lên, tạo tri thức bền vững cho mỗi con người trên con đường phát triển học
vấn và nhân cách suốt cuộc đời.
1.2.2.3. Tự học là một nét đẹp truyền thống của dân tộc ta đã được Đảng và Nhà nước xem là
vấn đề mang tính chiến lược cho sự phát triển nguồn lực con người

Chúng ta tự hào về dân tộc có 4 nghìn năm văn hiến. Để có được niềm tự hào đó ông
cha ta biết kết hợp sức mạnh, sức sáng tạo, dân tộc đã tạo ra chữ viết của riêng mình trên cơ
sở đó hình thành nền văn hoá riêng đậm đà bản sắc dân tộc. Đã có biết bao tấm gương hiếu
học như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI, cần thắp sáng truyền thống tự học, tự đào tạo - một
nét đẹp văn hoá trong nhân cách của mỗi người và của dân tộc. Biến tự học thành “chiếc gậy
thần kỳ”, góp phần phát triển nội sinh dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh trên con đường CNH-
HĐH.
1.2.3. Tự học trong giờ VHS ở nhà trường THPT
1.2.3.1. Đặc trưng của phân môn VHS ở nhà trường THPT
Một là VHS có tính bao quát những thời gian phân kỳ lớn của lịch sử VHVN. Đặc điểm
của VH là một hình thái xã hội tất nhiên phải gắn liền với xã hội cụ thể. Do đó, VH một dân
tộc gắn liền với lịch sử dân tộc đó. VHVN được chia làm bốn thời kỳ: Thời kỳ Văn Lang Âu
Lạc và Bắc Thuộc (từ thế kỷ X trở về trước); VH dưới các thời đại Phong kiến (từ thế kỷ X
đến thế kỷ XIX, còn gọi là VH Trung đại); VH từ đầu thế kỷ XX đến CM tháng 8 năm 1945;
VH từ sau CM tháng 8/1945 đến cuối thế kỉ XX.
Hai là đặc điểm nổi bật của VHS là tính khái quát. Bài VHS chứa đựng một khối lượng
kiến thức mang tính khái quát hoá cao cho cả một thời kì VH mấy chục năm thậm chí cho cả
nhiều thế kỉ. Trong từng bài VHS đều có các mốc thời gian, sự kiện lịch sử, tình hình kinh tế
- xã hội, tác giả, tác phẩm … nhưng đó là những nhận định, là kết luận có tính khái quát, bao
trùm mỗi thời kì của lịch sử VH dân tộc.
Ba là VHS có cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu. Bối cảnh lịch sử và tình hình VH
chính là cấu trúc bề mặt của VHS. Cấu trúc chiều sâu bao gồm các đề tài tổng quát hẹp hơn
về xu hướng, thể loại, tác giả, tác phẩm… có cấu trúc nhiều tầng bậc bao gồm sự khái quát về
thời kỳ, về xu hướng, về tác giả, về tác phẩm.
1.2.3.2. Những thuận lợi của bài học VHS trong việc rèn luyện năng lực tự học cho học sinh
THPT
Bộ môn VH nói chung, phân môn VHS nói riêng là sự biểu hiện rõ nét nhất mang tính
đặc trưng của VH luôn kết hợp chặt chẽ và được quán triệt trong nội dung và phương pháp
giảng dạy đó là tính khoa học và phần nào có tính nghệ thuật. Nếu đặc trưng nghệ thuật ngôn

từ là tiêu chí tạo nên tính nghệ thuật của VH thì tri thức lý luận tạo nên tính khoa học của
môn Ngữ văn. Do đó, chúng ta có thể khẳng định đặc trưng của kiến thức VHS là một hệ
thống kiến thức khái quát mang tính lý luận.
*. VHS có khả năng tích luỹ, mở rộng vốn hiểu biết văn hoá vì VHS là sự tổng hợp của nhiều
loại tri thức: xã hội, chính trị, văn hoá, lịch sử, kinh tế,…
Văn hoá VN nền văn hoá đa dân tộc, phát triển trong cộng đồng đoàn kết các dân tộc từ
thời các vua Hùng dựng nước cho đến ngày nước ta giành được độc lập và sống trong hoà
bình. Như vậy, VH nói chung, VHS nói riêng là một bộ phận của văn hoá phản ánh quá trình
phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.
* Kiến thức VHS là một hệ thống những luận điểm, những nhận định vừa mang tính cụ thể,
vừa mang tính khái quát giúp HS nâng cao mặt lí luận, tầm nhìn bao quát sâu sắc hơn.
VHS cung cấp cho HS một khối lượng kiến thức phong phú về tri thức cụ thể đó là tác
phẩm, tác giả, mốc thời gian, sự kiện VH. Những tri thức này có tính chất minh hoạ cho các
nhận định khái quát về giai đoạn VH, thời kì VH, tác gia VH, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
những nhận định khái quát.
* Kiến thức VHS vừa có tính liên môn vừa có tính liên cấp giúp HS tích luỹ và mở rộng tri
thức, biết suy luận theo phương pháp tư tưởng tiến bộ.
Ngoài mối quan hệ liên môn, liên cấp, kiến thức VHS còn có tác dụng lớn trong việc bồi
dưỡng, mở rộng tri thức nhiều mặt cho HS.
1.2.3.3. Những khó khăn của VHS trong việc rèn luyện năng lực tự học cho học sinh THPT:
Khối lượng kiến thức quá rộng mà thời gian học lại ít ỏi, phương pháp giảng dạy chủ yếu là
diễn giảng, mục tiêu giáo dục chưa sát với nội dung bài học cụ thể
Bản thân kiến thức VHS mang tính chất lý luận khái quát khiến cho giờ học VHS trở nên
khô khan, không hấp dẫn HS. Hơn nữa, kiến thức VHS là kiến thức tổng hợp như đã nói ở
trên đòi hỏi một sự hiểu biết phong phú về mọi lĩnh vực.
VHS trong nhà trường THPT luôn tồn tại một mâu thuẫn: khối lượng kiến thức quá rộng,
thời gian học tập trong chương trình lại ít ỏi.
VHS mang tính chất liên môn và liên cấp. Xuất phát từ đặc trưng này mà không ít GV
gặp phải những khó khăn trong giảng dạy do nắm không chắc cấu tạo của chương trình cũng
như yêu cầu trong từng cấp học.

Khó khăn lớn nhất trong việc rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT qua giờ VHS
chính là lượng kiến thức quá nhiều nên GV không vượt qua được lối phương giảng dạy thông
báo kiến thức.
Tuy nhiên khó khăn mà lâu nay GV tốn nhiều công sức nghiên cứu là làm sao xác định
được yêu cầu, mục đích giáo dục sát với yêu cầu của bài giảng có nội dung phức tạp như trên
đã nói, phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp và phù hợp với nhu cầu của thời đại.
Những khó khăn nêu trên đang là những trở ngại, những lực cản lớn đối với việc rèn
luyện năng lực tự học cho HS THPT trong giờ học VHS.
1.2.4. Đặc điểm tâm lý, khả năng rèn luyện năng lực tự học cho học sinh THPT
1.2.4.1. Dạy học với việc giáo dục và phát triển trí tuệ của HS
DH đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển trí tuệ của HS. Vậy phải hiểu khái
niệm về sự phát triển trí tuệ như thế nào?
Sự phát triển trí tuệ cần được hiểu là sự thống nhất biện chứng giữa việc nắm vững tri
thức và việc phát triển tối đa phương thức phản ánh chúng như con đường, cách thức phương
pháp đi đến tri thức đó.
1.2.4.2. Đặc điểm tâm lý của HS THPT: bước đầu có khả năng tư duy lí luận, thích tư duy
sáng tạo, thích phân tích, phê phán, đánh giá, bình luận
Đặc điểm tâm lý HS được chia làm các thời kỳ: thời kỳ nhi đồng từ 6 đến 11, 12
tuổi. Thời kỳ thiếu niên từ 11,12 đến 14, 15 tuổi. Thời kỳ thanh niên từ 14, 15 đến 17, 18
tuổi. Ở mỗi thời kỳ con người có những đặc điểm tâm lý riêng.
Chúng ta thấy tâm lý ở lứa tuổi HS THPT có sự thay đổi rõ rệt. Các em đã có khả
năng tư duy lí luận, thích tư duy sáng tạo, phân tích, đánh giá, phê phán, tranh luận, có khả
năng thực hiện các thao tác tư duy phức tạp và trừu tượng. Nhưng để tâm hồn và trí tuệ của
HS THPT phát triển đến độ cao là nhờ vào sự khơi gợi, hướng dẫn, định hướng của GV.

Chƣơng 2: NHỮNG BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TỰ HỌC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUA GIỜ VĂN HỌC SỬ
2.1. Hƣớng dẫn học sinh tự làm việc với sách giáo khoa
2.1.1. Quan điểm về SGK trong phân môn VHS
Một trong những công cụ không thể thiếu để phục vụ cho tự học là SGK. SGK có một

vị trí đáng kể trong việc nắm vững kiến thức nói chung và phát huy tính tính cực hoạt động
trí tuệ của HS. Nhưng tuy theo từng đối tượng, mục tiêu và nội dung DH mà chọn SGK cho
phù hợp.
2.1.2. Hướng dẫn HS sử dụng sách giáo khoa trong phân môn VHS
Trong Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục ngày 11-1-1979 đã bàn đến
vấn đề hướng dẫn sử dụng tài liệu học tập cho học sinh trong DH: "Cần coi trọng việc bồi
dưỡng hứng thú, thói quen và phương pháp tự học cho HS, hướng dẫn HS biết cách nghiên
cứu SGK, thảo luận chuyên đề, ghi chép tư liệu, tập làm thực nghiệm khoa học ". Để sử dụng
SGK học tập đạt kết quả cao, người GV cần phải đề ra những nhiệm vụ học tập cho HS trong
bài học VHS.
2.1.2.1. Hướng dẫn HS đọc SGK và trả lời câu hỏi ở nhà trước khi học bài VHS trên lớp
Đọc trước văn bản VHS là công việc chuẩn bị bài ở nhà của HS. Đọc ở đây không chỉ
là hướng dẫn trên bề mặt hình thức mà phải thâm nhập vào văn bản, nắm bắt và hình dung
được trong đầu một cách tổng quát những đặc điểm quan trọng của từng thời kỳ hay bức
tranh toàn cảnh về xã hội mà văn bản đề cập. Để đạt được điều đó trước khi vào học một bài
VHS, GV dành thời gian hướng dẫn HS đọc văn bản bằng một hệ thống câu hỏi định hướng
gợi ý.
Tuy nhiên, GV cần phải chỉ rõ những tài liệu mà người học cần tìm đọc SGK nào? Ở
đâu? Trong SGK đó thì cần phải đọc chỗ nào và ghi chép ra sao? Đồng thời, GV cũng phải
nêu ra vấn đề mà HS cần chuẩn bị trước thông qua những câu hỏi gợi mở, hay những bài
tập để yêu cầu người học phải chuẩn bị trước khi buổi học diễn ra. Cụ thể là soạn bài trước
khi đến lớp.
2.1.2.2. Hướng dẫn HS làm việc với SGK trong giờ học VHS.
Để giúp HS làm việc với SGK có hiệu quả trong giờ học, GV đưa ra những câu hỏi
mang tính chất hồi cố, tái hiện, yêu cầu HS tóm tắt luận điểm, lập bảng thống kê, bảng biểu
về một luận điểm nào đó trong bài học, hoặc nêu câu hỏi có vấn đề để HS phân tích, tranh
luận, thuyết trình, hoặc đưa ra bài tập nhanh….
2.1.2.3. Hướng dẫn HS làm việc với SGK sau giờ học VHS
Để bài học VHS đạt hiệu quả nhất, GV yêu cầu HS về nhà tiếp tục đọc phần nào mà
trên lớp chưa thực hiện xong. Ngoài ra GV giới thiệu thêm một vài tài liệu tham khảo yêu cầu

HS nghiên cứu để mở rộng kiến thức, đồng thời đưa ra những câu hỏi để kiểm tra khả năng tự
đọc, tự nghiên cứu của HS ở nhà như thế nào.
2.2. Hƣớng dẫn học sinh thu thập, chọn lọc, sắp xếp tƣ liệu có liên quan đến bài văn học
sử
Việc đầu tiên cần phải làm tốt là tìm kiếm tài liệu. Lúc khởi đầu, có vẻ như mọi sự
đều rối bù, lộn xộn, không có trật tự. Nhưng điều đó không đáng lo ngại, vì HS có thể lọc
dần, loại bỏ những tài liệu không cần thiết, không thiết thực cho bài học VHS.
Ban đầu, GV hướng hẫn HS không nên đọc kĩ từng tài liệu tìm được. Chỉ cần lưu trữ
và sắp xếp trật tự, rõ ràng, ghi chú thông tin tham khảo đầy đủ để tiện dụng cho bài học.
2.3. Hƣớng dẫn, tổ chức cho học sinh tranh luận và đề xuất thắc mắc trong giờ văn học
sử
Tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình hay phản bác lại ý kiến của người khác, trao đổi
và lập luận trong hoạt động học để chia sẻ với nhau những ý tưởng của mình.
Hình thành cho HS có thói quen tranh luận trong giờ VHS, trước tiên GV phải tạo ra
được những tình huống học tập, đó là câu hỏi có vấn đề.
Đối với VHS, một bài học có kiến thức rộng, thì vấn đề có thể đưa ra là khá phong
phú và đa dạng. Ở các bài khái quát VH 1930 -1945, bài khái quát giai đoạn VH 1945-1975,
vấn đề thường nằm trong mối quan hệ biện chứng giữa hoàn cảnh xã hội hoặc đặc điểm tiến
trình phát triển của VH. Đây là một vấn đề mang tính khái quát về mối quan hệ giữa hoàn
cảnh xã hội với nội dung và tiến trình phát triển của một giai đoạn VH cụ thể.
2.4. Hƣớng dẫn tổ chức cho học sinh thuyết trình trong giờ văn học sử
Việc vận dụng kiến thức VHS để thuyết trình giải quyết một vấn đề quả là không đơn
giản đối với mỗi HS. Nó yêu cầu HS phải biết sử dụng tổng hợp các kỹ năng cần thiết để
khẳng định lại kiến thức vừa học, đồng thời mở rộng thêm kiến thức trong mối liên quan với
kiến thức của nhiều môn học khác. Năng lực vận dụng kiến thức để thuyết minh sâu sắc và
trọn vẹn một vấn đề là một năng lực rất quan trọng và cần thiết. Khi thuyết trình một vấn đề
nào đó HS phải vận dụng tối đa sức mạnh trí tuệ, ý chí sáng tạo trong việc vận dụng kiến thức
giải quyết vấn đề.
2.5. Hƣớng dẫn cho học sinh tập viết những bài tập ngắn, những thu hoạch nhỏ về kiến
thức văn học sử mà các em đã thu nhận đƣợc

Biện pháp tổ chức cho HS thu hoạch dưới dạng những bài tập ngắn GV nên tiến hành
thường xuyên vì nó có tác dụng rất tích cực.

Chƣơng 3: THỂ NGHIỆM MỘT SỐ BÀI VĂN HỌC SỬ TRONG CHƢƠNG TRÌNH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO HƢỚNG RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TỰ HỌC
3.1. Mục đích thể nghiệm
Dựa trên cơ sở thực tiễn và lý luận chung cho việc đổi mới phương pháp dạy và học
trong nhà trường, và dựa vào cơ sở đặc trưng riêng biệt của kiến thức VHS, người viết tiến
hành thiết kế và thử nghiệm một số bài VHS trong chương trình THPT nhằm mục đích:
- Cụ thể hoá và chứng minh cho cơ sở lý luận của luận văn, nhằm khẳng định tính
đúng đắn và tính khả thi của việc rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT qua giờ học VHS.
- Những biện pháp đưa ra trong luận văn đều nhằm khẳng định tính hiệu quả cao: vận
dụng kiến thức, tăng cường thực hành, biết gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống.
- Năng lực tự học của HS THPT là sự tổng hợp của nhiều phẩm chất tư duy và nhân
cách: khả năng tư duy sáng tạo; vận dụng và tổng hợp, khái quát, đánh giá năng lực nghiên
cứu…. kết hợp với ý chí, lòng say mê học hỏi, tinh thần tự giác, tự nghiên cứu, thái độ tự tin
trong học tập.
3.2. Một số thiết kế thể nghiệm
3.2.1.Thiết kế thử nghiệm bài: Khái quát VHVN từ đầu thế kỷ XX đến CM tháng 8/ 1945
lớp 11 THPT.
3.2.2. Thiết kế thử nghiệm bài: Khái quát VHVN từ CM tháng 8/1945 đến hết thế kỷ XX lớp
12 THPT.
3.3. Thuyết minh thiết kế thể nghiệm
Thiết kế giáo án thử nghiệm soạn ở 2 khối lớp đi từ dễ đến khó được phân biệt bằng
việc vận dụng các biện pháp giảng dạy vào trong bài học.
Một là xuất phát từ đặc trưng kiến thức của một bài VHS trong chương trình THPT
rất dài, kiến thức phong phú, tổng hợp nên hướng dẫn HS làm việc với SGK là một biện pháp
có cơ sở từ phương pháp “Đọc sáng tạo” trong hệ thống phương pháp giảng dạy VH nói
chung.
Hai là giáo án thiết kế thử nghiệm ý thức được tầm quan trọng của vấn đề nên ở cả 2

giáo án, biện pháp này được chú trọng lồng với giai đoạn 1 của biện pháp hướng dẫn HS làm
việc với SGK.
Ba là GV đã phát huy tối đa nội lực của HS từ khả năng phân tích, tổng hợp, chứng
minh, khả năng huy động và lựa chọn tri thức đến tư duy logic sáng tạo để thực hành một vấn
đề VH thông qua biện pháp thuyết trình. Đây là một tri thức thực hành cần thiết cho năng lực
tự học của HS.
Bốn là để giải quyết được vấn đề GV đưa ra, HS cần phải trải nghiệm lại cả 4 biện
pháp đã được thực hiện trước và sau giờ học: từ việc đọc lại SGK, nhớ lại những tri thức đã
thu nhận được từ những cuộc tranh luận và thuyết trình với GV và bạn bè, đến việc đánh giá
kiểm nghiệm lại những hiểu biết của mình trước và sau giờ học.
3.4. Tiến hành thể nghiệm đối chứng
3.4.1. Đối tượng thể nghiệm đối chứng
- Về GV: Chọn những GV đang trực tiếp giảng dạy ở những lứa tuổi khác nhau có
kinh nghiệm từ 3 năm trở lên.
- Về HS: Thể nghiệm trên đối tượng HS không thuộc trường chuyên lớp chọn từ lớp
11 đến lớp 12.
3.4.2. Địa bàn, thời gian thể nghiệm, đối chứng:
- Do điều kiện và kinh phí hạn hẹp, chúng tôi tiến hành thể nghiệm, đối chứng tại 3
trường thuộc địa bàn thành phố Hải Phòng: THPT Nguyễn Đức Cảnh, THPT Thái Phiên,
THPT Ngô Quyền.
- Thời gian thể nghiệm, đối chứng: năm học 2008 – 2009
3.4.3. Nguyên tắc tiến hành thể nghiệm
Trong quá trình tổ chức thể nghiệm, GV tuân thủ những tình huống, thao tác học tập đã
đựơc dự kiến trong thiết kế. Sử dụng những biện pháp phù hợp với mục đích kích thích tính
tự giác chủ động của HS trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
Việc tiến hành thể nghiệm cố gắng trong khoảng thời gian cho phép của bài học, kiểm
chứng và minh hoạ cho những giả thiết đã đưa ra trong luận văn, đối chứng và rút ra những
đánh giá nhận xét kết quả của giờ thể nghiệm, tính khả thi của việc hình thành và rèn luyện
năng lực tự học cho HS.
3.4.4. Biện pháp kiểm chứng

- Sau mỗi bài dạy thể nghiệm, đối chứng, chúng tôi cho HS làm bài kiểm tra theo câu
hỏi, đáp án, biểu điểm chung.
- Lấy nhận xét của mỗi giáo viên sau khi tiến hành dạy thể nghiệm, phỏng vấn thăm
dò ý kiến của GV dự giờ, của HS sau giờ dạy.
- Trên cơ sở kết quả bài kiểm tra và kết quả phỏng vấn ý kiến nhận xét của GV và HS,
chúng tôi tiến hành phân tích và rút ra kết luận.
3.4.5. Tổng hợp tiến trình kết quả thể nghiệm, đối chứng
Về giáo án đối chứng, do khuôn khổ có hạn của luận án, chúng tôi không thể trích dẫn
toàn bộ các giáo án đối chứng của 2 bài dạy nói trên mà chỉ chọn ra một kiểu giáo án có tính
chất phổ biến cho các giáo án đối chứng còn lại.
3.5. Những kết luận rút ra qua giờ học thể nghiệm, đối chứng
3.5.1. Vai trò quan trọng của SGK
Qua 2 giờ dạy thử nghiệm, ta thấy SGK đóng một vai trò quan trọng trong việc nắm
bắt kiến thức của HS đặc biệt là rèn luyện cho HS một năng lực tự học vì SGK thể hiện rất rõ
tư tưởng chiến lược và nội dung cơ bản của chương trình.
3.5.2. Giờ học thử nghiệm thể hiện một sự đổi mới về phương pháp dạy VHS nói riêng,
dạy VH nói chung
3.5.2.1. Xem HS là chủ thể của quá trình nhận thức
Trong giờ học đối chứng, HS thụ động trong quá trình tiếp nhận. Ngược lại trong giờ
dạy thử nghiệm tính chủ động của HS được phát huy cao nhất.
3.5.2.2. Kích thích sự phát huy nội lực ở bản thân HS
Hướng dẫn HS làm việc với SGK, đưa ra một hệ thống câu hỏi, gợi ý vừa có tính chất
phát hiện, nêu vấn đề, vừa so sánh, đánh giá…giờ học thử nghiệm đã thực sự phát huy được
nội lực sáng tạo của HS.
3.5.2.3. Đổi mới cơ chế dạy học VHS
Trong giờ học thể nghiệm, thiết kế được xây dựng trên mối quan hệ biện chứng giữa
GV-VB-HS. VB trở thành đối tượng nghiên cứu của cả GV và HS. Tuy nhiên GV là người
đóng vai trò hướng dẫn, định hướng kiến thức và nhận thức của HS. HS không đóng vai trò
thụ động ghi chép mà bản thân các em thực sự vận động và xác lập cho mình một mối quan
hệ máu thịt với văn bản. 3.5.2.4. Giờ học thử nghiệm không chỉ thực hiện việc lĩnh hội kiến

thức của HS trong thời gian lên lớp mà là cả một quá trình
Trong giờ học thử nghiệm, do có sự hướng dẫn của GV cho HS chuẩn bị bài ở nhà từ
trước, cho nên vào giờ học, HS không bị ngỡ ngàng mà hoàn toàn chủ động hoà nhịp vào bài
học.
Sau mỗi giờ học thử nghiệm, GV đưa ra bài tập ngắn giúp cho HS vận dụng và củng
cố kiến thức. Đây là biện pháp bắt buộc giúp cho HS phải tiếp tục nghiên cứu bài học để vận
dụng kiến thức một cách nhuần nhuyễn giải quyết vấn đề.
3.5.2.5. Giờ học thử nghiệm kích thích hứng thú, ham học của HS
Những tình huống học tập dựa trên cơ sở hệ thống câu hỏi đã thực sự kích thích hứng
thú, lòng ham học ở các em. Đây chính là cơ hội để rèn luyện cho HS một thói quen học tập
độc lập và tự giác.
3.5.3. Sau giờ học thử nghiệm chúng tôi tiến hành tham khảo ý kiến đánh giá của HS và
GV về giờ học VHS
* Về phía HS, phần lớn các em cho rằng đó là những giờ học thú vị bởi:
- Giờ văn hào hứng, sôi nổi, thoải mái.
- Các em thấy tự tin bởi mình có khả năng trả lời các câu hỏi mà GV đặt ra.
- Các em ý thức đựơc tầm quan trọng của bài VHS.
* Về phía GV
- GV sẽ thấy nhẹ nhàng trong việc truyền thụ tri thức cho HS. Có GV còn khẳng định
rằng chỉ cần nêu câu hỏi và gợi ý, HS đã tự hoàn thiện cho mình dàn ý của bài học, một dàn ý
mà chính GV cũng phải ngỡ ngàng.
3.5.4. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình thử nghiệm
- Để đạt được giờ học tốt GV phải hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà tốt nên một số
HS than phiền mất quá nhiều thời gian cho việc chuẩn bị bài ở nhà, ảnh hưởng tới những môn
học khác.
- Ở khối lớp 11, do những tình huống học tập và câu hỏi có vấn đề đưa ra còn ở mức
độ thấp nên HS và GV dễ dàng nắm bắt và thực hiện được gần như hoàn chỉnh thiết kế thử
nghiệm, riêng khối lớp 12 vì chưa được rèn luyện từ những khối lớp trước cho nên những vấn
đề đưa ra thảo luận và thuyết trình HS còn lúng túng.
3.5.5. Những suy nghĩ sau thử nghiệm

3.5.5.1.Về phía người GV: Chúng ta cần suy nghĩ làm thế nào để VHS thực sự là những bài học
bổ ích lôi cuốn được HS tham gia một cách tự tin, sôi nổi, hào hứng. Chúng ta thay đổi bằng cách
đặt câu hỏi “Dạy như thế nào”. Biện pháp giảng dạy cần phù hợp với đối tượng và tâm lý tiếp
nhận, tạo điều kiện cho các em tự tìm đến với tri thức của bài VHS. Thông qua một bài VHS, GV
có thể phát huy năng lực tư duy sáng tạo, hình thành và rèn luyện năng lực tự học cho HS.
3.5.5.2.Về phía HS: Chúng ta thấy thực chất HS không phải quá yếu kém về năng lực văn
chương, trái lại các em có khả năng học tốt môn văn nói chung, VHS nói riêng. Các em
không đến nỗi quá chán ngán, thờ ơ với bài học, các em vẫn tìm thấy hứng thú và tầm quan
trọng của bài học. Nếu tin tưởng và định hướng, chỉ dẫn tận tình, các em sẽ thực sự hứng thú
say mê học tập ở trên lớp cũng như ở nhà.

KẾT LUẬN
Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học kỹ thuật hiện đại, kiến thức không chỉ bó hẹp
trong nhà trường. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của nhà trường là hình thành và rèn luyện cho
HS những năng lực tự học tốt nhất. Đây là một nhiệm vụ mang tính chiến lược hàng đầu của
giáo dục nước ta.
Trong phạm vi một bài VHS, khả năng tự học sẽ là chìa khoá giải quyết mâu thuẫn
giữa thời gian lên lớp với khối lượng kiến thức bài học, giúp HS nắm bắt kiến thức sâu sắc
hơn, bền vững hơn, hiệu vận dụng được tốt hơn.
Để thực hiện được nhiệm vụ và chiến lược đề ra, cần có một sự thay đổi mang tính
đồng bộ mà trước tiên là thay đổi về quan điểm, nội dung chương trình SGK và phương pháp
DH.
Phương pháp DH hiện đại không phủ nhận hoàn toàn phương pháp truyền thống mà
là sự kết hợp nhiều yếu tố một cách hợp lý, khoa học, là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện
đại, giữa nội lực và ngoại lực, giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành, biết vận dụng
những thành tựu khoa học vào thực tiễn, phù hợp với lý luận tiếp nhận.
Để hình thành và rèn luyện năng lực tự học cho HS trong giờ VHS, GV phải “lấy HS
làm chủ thể”, “HS là bạn đọc sáng tạo”, hướng dẫn HS những biện pháp tự học, nêu tình
huống có vấn đề để kích thích được hứng thú cũng như năng lực tư duy sáng tạo của HS,
từng bước hình thành một thói quen học tập, chủ động và sáng tạo, khả năng vận dụng kiến

thức vào thực tế đời sống. Kiến thức bài VHS có mối liên hệ mật thiết với các phân môn khác
trong bộ môn VH. Vì vậy GV phải hướng dẫn HS cách xử lý và chế biến kiến thức VHS vào
các phân môn khác. Đây là một năng lực rất quan trọng thể hiện khả năng tự học độc lập của
HS.
Hình thành năng lực “Tự học” cho HS THPT là hình thành cho các em sự say mê
học hỏi. Đây chính là chìa khoá vàng để các em mở cánh cổng Đại học. Từ đó các em tự
mình học hỏi, nghiên cứu, cập nhật kiến thức ở bậc học cao hơn và ngoài xã hội. Các em có
bản lĩnh vững tin đi tiếp những năm tháng tiếp theo của cuộc đời.
Để lĩnh hội và vận dụng khoa học lý thuyết vào thực tiễn DH nói chung và DH VHS
nói riêng đạt hiệu quả tốt cần có sự nỗ lực vượt bậc của người nghiên cứu và người thực hiện.
Với xu thế phát triển của khoa học và xã hội, tác giả tin tưởng rằng, ý tưởng của luận văn sẽ
góp phần vào đổi mới phương pháp DH và hình thành cho HS những biện pháp tự học tốt
nhất. Tác giả hi vọng các bạn đồng nghiệp sẽ đón nhận và vận dụng vào DH để nâng cao
chất lượng giờ học VHS nói riêng và VH nói chung.


References
1. Nguyễn Thị Bình. Bài phát biểu tại Hội thảo nghiên cứu và phát triển tự học tự đào tạo.
Tạp chí NCGD số 2/1998.
2. Nguyễn Duy Cần, Thu Giang. Tôi tự học. NXB Thanh niên 1999
3. Nguyễn Nghĩa Dân. Vì năng lực tự học sáng tạo của HS. Tạp chí NCGD số 2/1998
4. Gordon Dyden và Jeannett Vos. Cuộc cách mạng về học tập (The learning revolution).
Bản dịch của Quang Minh.
5. Đỗ Ngọc Đạt. Tiếp cận hiện đại hoạt động ngày học. NXB ĐHQGHN/1997
6. Phạm Văn Đồng. Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện. Tạp chí NCGD số 11 /
1973
7. Phạm Văn Đồng. Phương pháp tự học và lòng ham học đó là cái quý nhất. Tạp chí Tự
học số 9/2000
8. Antonne dela Garan Drie. Rèn luyện trí tuệ để thành đạt. NXB văn hoá thông tin 1998
9. Trần Bá Hoành. Vị trí của tự học, tự đào tạo. Tạp chí NCGD số 7/1998

10. Lê Văn Hồng (chủ biên). Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. Tài liệu dùng cho
các trường ĐHSP và CĐSP Hà Nội 1995
11. Nguyễn Thanh Hùng. Văn học – tầm nhìn biến đổi. NXBGD Hà Nội 1996
12. Nguyễn Kỳ. Xã hội hoá giáo dục và phát huy nội lực. Tạp chí tự học số 7 (3/2000)
13. Rubakin. Tự học như thế nào (Bản dịch của Nguyễn Đình Côi). NXBGD Hà Nội 1992.
14. Phan Trọng Luận. Mấy vấn đề giảng dạy VHS ở phổ thông trung học cấp 3, tập 1.
NXBGD Hà Nội 1962
15. Phan Trọng Luận. Chuyện cũ mà mới. NXBGD Hà Nội
16. Phan Trọng Luận. Rèn luyện tư duy qua giảng dạy VH. NXBGD HN 1969
17. Phan Trọng Luận. Tự học – Chìa khoá vàng. Tạp chí NCGD số 2/1998
18. Phan Trọng Luận. Giáo dục Việt Nam bước vào thế kỉ XXI. Tạp chí tự học, 14 (1-2000)
19. Phan Trọng Luận. Cảm thụ cảm học và giảng dạy VH. NXBGDHN 1969
20. Phan Trọng Luận, (Chủ biên). Thiết kế bài học tác phẩm văn chương. NXB ĐHQG
1996
21. Phƣơng Lựu (Chủ biên). Lý luận văn học. NXBGD 1997
22. Chu Mạnh Nguyên. Trình độ học vấn tự học và tự nghiên cứu là hai mặt của quá trình
tự học. Tạp chí Tự học số 7/2000
23. Đào Văn Phán. Những hình thức tích cực hoạt động tiếp nhận của HS trong giờ VHS ở
trường THPT. Luận văn thạc sĩ
24. Zla-Rezzia (Phan Thiều). Phƣơng pháp luận dạy văn học. NXBGD 1985
25. Nguyễn Cảnh Toàn. Thầy và trò tự học. Báo GDTĐ số 44 (150), 2/11/1997
26. Nguyễn Cảnh Toàn. Nghiên cứu và phát triển tự học. Đề tài NCKH in nội bộ 2001
27. Nguyễn Cảnh Toàn. Luận bàn kinh nghiệm về tự học. NXBGD 1999
28. Nguyễn Cảnh Toàn. Quá trình dạy – Tự học. NXBGD 1988
29. Nguyễn Cảnh Toàn. Tuyển tập tác phẩm tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu tập I.
Trường ĐHSPHNI, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2001
30. Lê Khánh Tùng. Hình thành năng lực nghiên cứu cho HS PTTH qua giờ VHS. luận văn
thạc sĩ
31. Phạm Thị Xuyến(2004), Quan niệm về tự học và tự học ở THPT. Tạp chí Giáo dục số 34
(8-2004) trang 22-24.

32. V. Ôkôn. Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề. NXBGD Hà Nội 1986
33. Văn học lớp 11 tập I, Sách chỉnh lý hợp nhất 2007, NXB Giáo dục
34. Văn học lớp 12 tập I, Sách chỉnh lý hợp nhất 2007, NXB Giáo dục
35. Văn kiện Đại hội Đảng VIII, NXB Chính trị Quốc gia
36. Nguyễn Thị Hoàng Yến. Tự học – Một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dạy
học. Tạp chí tự học, 2000




×