Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận thời đại ngày nay những vấn đề về thời đại ngày nay và thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.89 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp, các dân tộc cần phải nêu
cao ý thức độc lập, tự chủ và không ngừng sáng tạo. Mỗi nước phải tìm ra
định hướng phát triển cho mình trên cơ sở những xu hướng vận động của thời
đại. Vì vậy, việc nhận thức rõ cách tiếp cận về thời đại và bản chất, nội dung,
đặc điểm của thời đại ngày nay cũng như cục diện và tình hình thế giới là rất
cần thiết. Mỗi quốc gia, dân tộc cần biết mình đang sống trong thời đại và bối
cảnh thế giới nào, với những tính chất, nội dung, đặc điểm và xu thế phát triển
ra sao. Hiểu biết sâu sắc về thời đại ngày nay giúp chúng ta tìm thấy xu hướng
phát triển tất yếu trong những sự phức tạp đồng thời nắm bắt được khuynh
hướng và quy luật phát triển của nhân loại để có thể lựa chọn được hướng đi
phù hợp cho đất nước mình, phù hợp với sự phát triển của lịch sử, lường trước
được những thách thức phức tạp, tránh được những vấp váp, sai lệch trên
đường đi và có thể đứng vững trong đời sống chính trị quốc tế.
Thời đại ngày nay đang diễn ra cuộc đấu tranh gay go và ác liệt giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới. Cuộc đấu
tranh giữa hai chế độ khác nhau, một chế độ mới ra đời đang từng bước
trưởng thành, còn hạn chế về nhiều mặt với chế độ cũ lạc hậu, nhưng đang có
những ưu thế nhất định về kinh tế, cuộc đấu tranh này đang diễn ra trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, kinh tế chính trị, tư tưởng, văn hố…
Ở Việt Nam, chủ nghĩa tư bản đang tìm mọi cách, mọi thủ đoạn phủ
nhận học thuyết Mác Lênin, lý luận C.Mác, tuyên truyền các lý thuyết tư sản,
những luận điệu xuyên tạc về chủ nghĩa xã hội gây mất lịng tin của dân. Mặt
khác, chúng đang tìm cách mua chuộc, làm thoái hoá về tư tưởng , đạo đức lối
sống trong một bộ phận cán bộ Đảng viên, tìm cách chia rẽ Đảng với nhân
dân, cán bộ với cán bộ, cán bộ với nhân dân…


Trên cơ sở thấy được tầm quan trọng của thời đại ngày nay, tôi chọn
“Những vấn đề về thời đại ngày nay và thực tiễn ở Việt Nam ” làm đề tài


nghiên cứu.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin và thời đại ngày nay, Nxb Sự thật, Hà Nội –
1983.
2. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ
mơn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Một số vấn đề về
chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội – 1996.
3. Lê Hữu Nghĩa: Thời đại chúng ta và sức sống của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2002.
4. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996.
5. Nội dung và mâu thuẫn cơ bản của thời đại hiện nay,Nxb Sự thật, Hà
Nội – 1961.
6. Tính chất của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội – 1961.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục tiêu: nhằm phân tích, đánh giá để làm rõ bản chất, cách tiếp cận, và
đặc điểm của thời đại ngày nay.
Nhiệm vụ: nghiên cứu các nội dung sau:
-Làm rõ những vấn đề lý luận về thời đại ngày nay
- Liên hệ tình hình thời đại ngày nay với thực tiễn ở Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu là vấn đề thời đại ngày nay.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thời đại ngày nay: đặc điểm,
cách tiếp cận, bản chất của thời đại ngày nay và lien hệ với Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài


-Phương pháp luận: tác giả sử dụng phương pháp luận macxit là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác

-Lênin.
- Phương pháp chung: lơgic - lịch sử, phân tích hệ thống
- Phương pháp cụ thể: tổng hợp, đánh giá...
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm 2 chương, 6 tiết và phần danh mục tài liệu tham
khảo.


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1.1 Quan niệm về thời đại ngày nay
Thời đại ngày nay, hay thời đại chúng ta, thời đại mới, là những khái niệm
đồng nghĩa trước kia được Lênin thường dùng và bây giờ chúng ta cũng vậy.
Cách mạng tháng Mười Nga đã “mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế
giới”. Theo quan điểm của Lênin, nội dung của thời đại mới này là xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, đồng thời thiết lập những cơ sở của xã hội mới là xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây là một quá trình lịch sử lâu dài, bắt đầu
từ nước Nga, sau đó là nhiều nước khác trên thế giới. Lịch sử thế giới không
thể nào xóa bỏ được sự kiện Cách mạng tháng Mười vĩ đại ở nước Nga năm
1917, một cuộc cách mạng đã làm rung chuyển thế giới, đã phá tung một khâu
yếu nhất của sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa, mở đầu cho một thời đại mới
– để hình thành một hình thái kinh tế - xã hội mới hồn tồn, khác với hình
thái tư bản chủ nghĩa. Cũng khơng thể phủ nhận được một sự thật Liên Xô là
con đẻ của Cách mạng tháng Mười Nga, từ một nước tư bản lạc hậu ở Châu
Âu đã nhanh chóng vươn lên để trở thành một siêu cường, là lực lượng chủ
yếu nhất đã cứu nhân loại thoát khỏi thảm họa của chủ nghĩa phátxít trong
chiến tranh Thế giới thứ hai, tạo điều kiện cho một loạt nước Đông Âu và
Châu Á, sau đó là tây bán cầu tiến hành thắng lợi cách mạng giải phóng và

tiến lên chủ nghĩa xã hội, hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
Chúng ta chắc chắn phải thừa nhận rằng Cách mạng tháng Mười đã phá
vỡ một mảng của thế giới tư bản chủ nghĩa, đã mở ra thời kỳ sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân, làm cho hệ thống thuộc địa theo kiểu cũ bị thủ tiêu, tạo
điều kiện cho hàng trăm quốc gia dân tộc vốn là thuộc địa và phụ thuộc
giành được độc lập. Sức mạnh và thành tựu của chế độ xã hội chủ nghĩa đã
đem lại nhiều quyền lợi cho nhân dân, giữ gìn hịa bình thế giới, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng buộc chủ nghĩa tư bản


phải tự điều chỉnh có lợi cho người lao động trong thế giới tư bản, thúc đẩy
phong trào đấu tranh cho hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.
Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của cách mạng tháng Mười, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: “Cách mạng tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các
dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”. Ở những
nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, cuộc đấu tranh giữa những thế
lực đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa với những lực lượng
muốn phục hồi chủ nghĩa xã hội đang diễn ra. Ở những nước chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững, công cuộc cải cách, đổi mới ở một số nước đang
được đẩy mạnh và giành được những thành tựu rất quan trọng.Việc tìm kiếm
những hình thức, biện pháp và bước đi sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của từng nước, nhưng không chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa được dặt ra ở
mỗi nước.Như vậy, về mặt khách quan thì chủ nghĩa xã hội với tư cách là một
chế độ đối lập với chế độ tư bản vẫn đang tồn tại. Cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản tuy đang diễn ra rất phức tạp trong những
điều kiện mới và dưới những hình thức mới, nhưng bằng những thành quả của
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước này, cùng với sự phục hồi của
các phong trào cách mạng của các nước, chủ nghĩa xã hội tuy còn đầy khó

khăn, nhất định sẽ giành lại vị thế của mình và sẽ tác động tích cực đến chiều
hướng phát triển chung của thế giới. Như vậy việc phân chia thời đại mới mở
đầu từ cách mạng tháng Mười thành nhiều thời kỳ là để đánh giá đúng vấn đề
thời đại khơng vì một thời kỳ thăng trầm nào đó mà đi đến đánh giá sai về cả
một thời đại lịch sử thế giới lâu dài.
1.2 Cách tiếp cận về thời đại
Khái niệm thời đại là khái niệm để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt
những nấc thang phát triển của xã hội lồi ngườitheo những tiêu chí nào đó.


Xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau, sự phân chia các thời đại
lịch sử nhân loại đã có những nội dung khác nhau. Như:
Nhà xã hội học Vicô ở Italia (1668 – 1744) đã phân chia các thời đại
như phân chia các giai đoạn của một vòng đời: thơ ấu, thanh niên, thành niên
và tuổi già.
Nhà triết học duy tâm Hêghen (1770 – 1831) phân biệt lịch sử phát
triển của loài người thành ba thời kỳ chủ yếu là thời kỳ phương Đông, Cổ đại
và Giécmanni.
Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp Phuriê (1772 – 1837) chia tiến
trình lịch sử thành bốn giai đoạn phát triển là giai đoạn mông muội, dã man,
gia trưởng và văn minh.
Nhà nhân chủng học Mỹ Hawngrri Moocgăng (1818 – 1881) lại phân
chia lịch sử xã hội thành ba thời đại chính: thời đại mơng muội, dã man và
văn minh.
Ngồi ra chúng ta cũng đã biết đến những khái niệm thời đại đồ đá, thời
đại đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước, kỷ nguyên hạt
nhân…trong việc phân chia xã hội lồi người.
Cịn có cách phân chia thời đại thành ba nền văn minh: văn minh nông
nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp…
Như vậy, trong việc phân chia và cách tiếp cận các thời đại của lịch sử

xã hội lồi người, có những người đã dựa trên cơ sở chủ quan không phản ánh
đúng tiến trình lịch sử nhân loại và làm cho việc nhận thức các thời đại hồn
tồn bị sai lệch; Có người lấy kỹ thuật làm căn cứ để phân chia các thời đại.
Cách phân chia này có điểm hợp lý đó là nhấn mạnh vai trị của lực lượng sản
xuất, nhưng khơng thể chỉ ra được tính chất xã hội và động lực phát triển của
thời đại.
Kế thừa giá trị tư tưởng của những người đi trước, các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa Mác - Lênin đã xem xét vấn đề thời đại trên cơ sở khoa học, phù
hợp với sự vận động của lịch sử loài người. Từ hai phát hiện vĩ đại là quan


niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, Mác đã phát hiện ra
những quy luật phát triển của xã hội lồi người nói chung và quy luật phát
sinh, phát triển và tất yếu bị diệt vong của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Trên
quan điểm duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã tìm ra cơ sở khách quan để
xem xét vấn đề thời đại và được các ơng trình bày trong học thuyết về hình
thái kinh tế - xã hội. Như Ăngghen đã viết “trong mỗi thời đại lịch sử,
phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội
do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của
thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có
xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử”.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học để xem xét thời đại,
bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, tức là toàn bộ các yếu tố cấu thành nên bộ mặt của thời đại –
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật…xuất phát từ phương
thức sản xuất và cơ cấu xã hội chúng ta có thể thấy rõ được mọi mặt của một
thời đại. Lý luận ấy khơng những giải thích đúng đắn thời đại hiện tồn mà còn
làm rõ được thời đại đã qua cũng như hướng của thời đại sắp tới, theo những
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội lồi người.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội cịn chỉ ra đối với xã hội có giai cấp,

giai cấp nào là đứng ở trung tâm một thời đại, là động lực chủ yếu chi phối sự
vận động của thời đại. Trong thời đại tư bản chủ nghĩa, Mác và Ăngghen gọi
đó là thời đại của giai cấp tư sản. Lênin cũng xác định “giai cấp tư sản là giai
cấp chủ yếu, là giai cấp duy nhất có thể có một sức mạnh áp đảo đấu tranh
chống lại những thiết chế phong kiến và chuyên chế”. Các ông cũng đã phát
hiện ra vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, sản phẩm của nền
đại cơng nghiệp, một giai cấp có thể tập hợp được quần chúng lao động và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết đấu tranh lật đổ chế độ tư bản, đưa nhân loại
bước sang một thời đại mới, mang lại tự do hoàn toàn và triệt để cho lao
động, dân tộc, xã hội và con người.


Mác. Ăngghen đã rút ra kết luận về năm hình thái kinh tế - xã hội của
lịch sử phát triển xã hội loài người là: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế xã hội, với cả quá trình phát sinh, phát triển và tất yếu bị thay thế bởi một
hình thái khác cao hơn, là một thời đại lịch sử lâu dài. Nếu đi nghiên cứu từng
thời đại lịch sử nhất định, chúng ta nên phân chia một thời đại thành nhiều
thời kỳ hay nhiều giai đoạn khác nhau để có thể nhận thức đúng đắn và đầy
đủ hơn về thời đại. Như vậy có thể tránh được việc lấy diễn biến, đặc điểm
của một thời kỳ, một giai đoạn cụ thể nào đó làm đặc trưng cho cả một thời
đại lịch sử lâu dài; hay là việc đưa ra quá sớm những khẳng định, kết luận cụ
thể đối với tương lai.
Kết luận cơ sở khoa học duy nhất để xác định thời đại là những điều
kiện vật chất khách quan, tức hình thái kinh tế - xã hội. Đây là khái niệm
dung để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội là nội dung cấu thành
thời đại, còn thời đại là thời kỳ lịch sử hình thành, phát triển và ngự trị của
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

1.3Bản chất của thời đại ngày nay
Thời đại ngày nay là thời đại mang bản chất quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười Nga vĩ đại; là thời đại đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập; là thời
đại cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc. Những trận
chiến đấu lớn trong mấy chục năm giữa thế giới mới và thế giới cũ đã chứng
minh sức mạnh và tính chất vô địch của chủ nghĩa xã hội. Âm mưu của chủ
nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát-xít hịng dung chiến tranh để kìm hãm quá
trình phát triển lịch sử đã thất bại. Chủ nghĩa đế quốc đã tỏ ra bất lực trong
việc ngăn chặn các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở châu Âu và châu Á.


Chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới. Âm mưu của chủ nghĩa
đế quốc nhằm kìm hãm sự phát triển kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa đã
bị phá tan, chế độ nô lệ thuộc địa của chủ nghĩa đế cũng đang sụp đổ. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới càng được củng cố thì tình hình thế giới càng
có lơi cho các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Giai đoạn hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào. Chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, nhiều Đảng Cộng snar và
công nhân bị chia rẽ, ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội bị giảm sút nghiêm
trọng. Chủ nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Chủ nghĩa tư
bản hiện đại lợi dụng tình hình ấy ra sức tấn cơng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa Mác - lênin bằng nhiều thủ đoạn thâm độc hịng xố bỏ các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại, nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản
đối với thế giới hiện đại. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác
nhau. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co. Sự sụp đổ của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xơ khơng có nghĩa là sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hộ với tính cách là một học thuyết cách mạng và khoa học duy
nhất có thể vạch đường cho sự giải phóng hồn tồn và triệt để giai cấp công

nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người, xây
dựng một xã hội phồn vinh, công bằng, văn minh là xã hội xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa. Sự sụp đổ ấy cũng không phải là sự sụp đổ của phong
trào xã hội chủ nghĩa thế giới bởi vì vẫn còn một số nước xã hội chủ nghĩa với
số dân trên một tỷ người. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, các lực
lượng xã hội chủ nghĩa đang dần phục hồi tiếp tục cuộc đấu tranh, ở một số
nơi đang từng bước lấy lại được sự ủng hộ của nhân và ngày càng có nhiều
người tham gia tích cực hơn vào cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Sự sụp
đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước không phải là một tất yếu do
việc xác định nội dung thời đại không đúng. Sự sụp đổ này do nhiều nguyên


nhân, trong đó có nguyên nhân Đảng Cộng sản phạm sai lầm về đường lối
chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Như vậy, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới đang ở một khúc quanh lịch
sử nhưng rõ rang cũng đang củng cố lại lực lượng của mình để từng bước
phục hồi và tiến lên.
Đối với các nước dân tộc chủ nghĩa, đây là thời kỳ khẳng định mạnh mẽ ý
thức độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, phát triển xã hội, bảo vệ mơi sinh,
chống bất bình đẳng giữa các nước phát triển và những nước chậm phát triển.
Cũng trong thời kỳ này phong trào công nhân và nhân dân lao động ở các
nước tư bản phát triển ngày càng không thể chấp nhận những bất công, tệ nạn,
tội ác và những suy đồi do chủ nghĩa tư bản đương đại gây ra.
Dù cho thời kỳ hiện nay có những đảo lộn rất lớn, nhưng vẫn không làm
thay đổi bản chất và nội dung của một thời đại có tính lịch sử tồn thế giới đã
được mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 như Lênin
vạch ra, cũng như Hội nghị các Đảng Cộng sản và cơng nhân đã khẳng định
năm 1957 và 1960. Bởi vì thời đại xuất hiện từ những điều kiện vật chất
khách quan, trên cơ sở mâu thuẫn giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất ngày
càng phát triển. Phân tích mâu thuẫn này của chủ nghĩa tư bản thong qua

những biến đổi về kinh tế và chính trị ngay từ thời Mác, Ông đã chỉ ra logic
khách quan dẫn tới sự tự phủ định của chính chủ nghĩa tư bản và những tín
hiệu của thời đại mới.
Đến thời Lênin mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản thế giới đã phát
triển lên một trình độ sâu sắc hơn. Phân tích tình hình xã hội hố sản xuất cao
của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã chỉ ra cơ sở
vật chất chủ yếu cho sự ra đời không thể tránh khỏi của chủ nghĩa xã hội, đã
chỉ ra những động lực cách mạng của sự chuyển biến sang thời đại mới cùng
lực lượng vật chất để thi hành sự chuyển biến đó. Cùng với sự thức tỉnh của
châu Á và bước đầu của cuộc đấu tranh giành chính quyền của giai cấp vơ sản
tiên tiến ở châu Âu, Lênin quyết định thời đại mới bắt đầu.


Ngày nay mặc dù chủ nghĩa xã hội đang ở thế thoái trào, song những cơ sở
vật chất và xã hội của thời đại mới ngày càng chin muồi. Do vậy bản chất và
nội dung của thời đại đã xác định khơng hề thay đổi. Điều đó chỉ chứng tỏ
rằng, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
tồn thế giới khơng diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường
thẳng tắp. Cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, nó có tiến, có thối, có
quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng loài người sẽ nhất định đi đến một xã
hội tốt đẹp, văn minh, dân chủ, tiến bộ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa, đó chính
là chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đó là xu thế khơng thể đảo
ngược của lịch sử.
Kết luận, Mặc dù trong những năm qua, tình hình thế giới có nhiều diễn
biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến
chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng bản chất thời đại không
hề thay đổi như Lênin đã nói: Thế giới có thay đổi nhưng thời đại khơng đổi
thay. Lồi người vẫn ở trong q trình quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại.
1.4 Đặc điểm của thời đại ngày nay

Đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay là tính chất quá độ của nó. Đây là
thời đại sụp đổ của hình thái cũ tư bản chủ nghĩa và là thời đại của hình thái
mới cộng sản chủ nghĩa. Những đặc điểm cơ bản của thời đại hiện nay:
Thứ nhất: đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay là cuộc đấu tranh giai
cấp và dân tộc của nhân dân các nước hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới.
Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn
diễn ra quyết liệt. Chủ nghĩa xã hội vẫn là đối trọng chính của chủ nghĩa tư
bản. Do vậy, kể từ khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, giai
cấp tư sản đã tìm mọi cách để chia rẽ, phá hoại phong trào cơng nhân nhằm
xóa bỏ chủ nghĩa xã hội cá nhân trên lý luận thực tiễn.


Nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới mới đã bị đẩy lùi nhưng xung
đột sắc tộc, tôn giáo xảy ra gay go, quyết liệt và diễn biết phức tạp trên thế
giới, cuộc chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra
ở nhiêu nơi.
Đặc điểm thứ hai là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
đang gây ra những thay đổi to lớn trên thế giới.
Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển hết sức
mạnh mẽ,với trình độ ngày càng cao,tạo ra điều kiện tăng nhanh năng lực sản
xuất. Trung bình cứ 10 đến 15 năm của cải nhân loại tăng gấp đơi. Từ đó tạo
ra những thay đổi trong nhiều quan niệm của đời sống xã hội từ kinh tế đến
chính trị, văn hóa…đồng thời tạo ra xu hướng tồn cầu hóa trong nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
ngày càng tăng khoảng cách, sự phân hóa giàu nghèo giữa các nước ngày
càng lớn. Hiện nay, thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức, và vòng đua
của nhân loại trong thế kỉ 21 là vòng đua vào nền kinh tế tri thức
Đặc điểm thứ ba: sự xuất hiện những vấn đề tồn cầu địi hỏi sự hợp tác
giải quyết của các quốc gia.

Hiện nay nhân loại đang đứng trước những vấn đề có tính tồn cầu, đó
là: tình trạng bùng nổ dân số ở các nước nghèo; sự nghèo đói ở các nước
chậm phát triển; tình trạng ơ nhiễm mơi trường, cạn kiệt tài nguyên đang đe
dọa cuộc sống của hàng tỷ người trên trái đất. Tình trạng bn lậu ma túy,
bn lậu quốc tế, bênh tật hiểm nghèo đang có xu hướng gia tăng gây hậu quả
nặng nề cho nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, địi hỏi các quốc gia trên thế
giới, khơng phân biệt chế độ chính trị, sắc tộc, tôn giáo đều phải cùng nhau
hợp lực để giải quyết có hiệu quả những vấn đề nêu trên nhằm duy trì sự tồn
tại và phát triển của thế giới.
Đặc điểm thứ tư: khu vực châu Á Thái Bình Dương đang là khu vực
phát triển năng động, khả năng phát triển với tốc độ cao, đồng thời cũng đang
tiềm ẩn một số nhân tố có nguy cơ gây mất ổn định.


Khu vực châu Á Thái Bình Dương là nơi tài nguyên chưa khai thác
nhiều, giá lao động rẻ tạo điều kiện cho các nước trong khu vực thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngồi. Với thế mạnh nơng nghiệp nhiệt đới, giúp cho các
nước mở rộng giao lưu quốc tế, tranh thủ công nghệ hiện đại song ở khu vực
này chứa đựng những nhân tố gây ra mất ổn định vì khu vực này bao gồm
nhiều nền văn hóa, có nhiều hệ tư tưởng, nhiều tôn giáo, nhiều nguồn vốn nước
ngoài đầu tư. Do vậy, cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ra xung đột, mất ổn định.


Chương 2
VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
2.1 Sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam
Sau những biến động chính trị ở Đơng Âu và Liên Xơ, cuối thập niên
80 đầu thập niên 90 thế kỷ XX, một chiến dịch cơng kích, phê phán, xun
tạc, bơi nhọ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lênin dấy lên từ nhiều phía.
Chúng vu cáo, ra sức xuyên tạc, bác bỏ học thuyết cách mạng của giai cấp

công nhân và nhân dân lao độn, hịng chơn vùi nó vĩnh viễn. Trước tình hình
đó, nhiều người hoang mang, dao động về lý tưởng, có người khuyên Đảng
Cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ
nghĩa mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, bởi theo họ thời đại đã
thay đổi. Có người cho rằng sự lựa chọn xã hội chủ nghĩa đã sai từ đầu, rằng
giá như lúc đó đi con đường khác thì biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập,
kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được mấy cuộc kháng chiến trường
kỳ, gian khổ, hao tổn biết bao xương máu.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước
chống Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp cả nước. Đó là phong trào Cần
Vương, cuộc khởi nghĩa nơng dân Yên Thế, cuộc vận động chống thuế Trung
Kỳ, cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, các phong trào Đông
Du, Tây Du do các sĩ phu yêu nước chủ xướng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do
Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành...các phong trào đều sáng ngời tinh thần
yêu nước, bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó
là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước.
Trong lúc đó, cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan Bội Châu nổi lên như
một điển hình tiêu biểu, một tấm gương phản chiếu. Cụ đi từ chủ trương cứu
nước thuần túy đến quân chủ lập hiến, đến yêu cầu ngoại viện, đến ý tưởng
dân chủ chung chung, cuối cùng đến cảm hứng về Cách mạng xã hội chủ


nghĩa Tháng Mười Nga 1917. Cụ là người phát ngôn cho nhu cầu lịch sử dân
tộc phải chuyển sang thời đại mới của cuộc đấu tranh giải phóng. Khi nghe
tiếng sấm Cách mạng Tháng Mười, Cụ đã có những cảm nghĩ thật xúc động.
Nhưng con đường mới mà Cụ chỉ dự cảm được ở cuối đời sau khi trải qua
“một trăm thất bại không một thành công”, khi thân đã tàn, sức đã kiệt. Chính
Nguyễn Ái Quốc cùng thời khơng chỉ cảm thấy mà đã nhận chân một cách
vững chắc, khoa học. Nguyễn Ái Quốc đã bôn ba khắp thế giới để quan sát và
tìm đường cứu nước, qua thực tiễn thống trị tàn bạo phổ biến của chủ nghĩa

đế quốc và dưới ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, đã nhận thức đúng
thời đại mới là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi tồn thế giới, từ đó Người chủ trương đưa Cách mạng Việt Nam vào
đúng dòng chảy của thời đại. Người đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử dân tộc,
đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại mới và khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”. Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đường lối đã đưa sự nghiệp Cách mạng Việt
Nam không ngừng phát triển đi lên, không thế lực nào ngăn cản nổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã
tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau Cách
mạng Tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn hịa bình để
xây dựng đất nước, song bọn thực dân đế quốc đã đem quân xâm lược nước ta
một lần nữa. Vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhân dân ta đã phải tiến hành 9
năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 20 năm chống đế quốc Mỹ. Chưa hết,
4 năm sau đó quân dân ta phải tiếp tục đổ máu từ chiến tranh biên giới để bảo
vệ Tổ quốc. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập,
thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Từ năm 1975 đến 1985, sự nghiệp xây dựng đạt những thành tựu nhất


định. Song cũng trong thời gian này, Đảng ta đã phạm sai lầm về chỉ đạo
chiến lược và tổ chức thực hiện, nguyên nhân do thiếu kinh nghiệm và nhất là
do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã tự
phê bình nghiêm túc, rút ra những bài học sâu sắc, từ đó đề ra đường lối đổi
mới. Đại hội VI là mốc lịch sử rất quan trọng trên con đường xây dựng và
phát triển Đảng ta và đất nước ta. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần

thứ X năm 2006 đánh giá công cuộc đổi mới đã giành “những thắng lợi to
lớn, có ý nghĩa lịch sử”. Vậy, chỉ cần thực sự cầu thị, nhìn đúng sự thật lịch
sử, thì chắc khơng ai đặt lại vấn đề về con đường xã hội chủ nghĩa mà dân tộc
ta đang đi. Cũng từ đó góp phần thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
ngăn chặn, đẩy lùi mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị.
Nhận thức sâu sắc những đặc điểm lớn của thời đại là tiền đề không
thể thiếu, làm cơ sở để giữ vững niềm tin ở con đường lịch sử dân tộc ta đã
lựa chọn, để tiếp tục con đường Đảng ta, dân tộc ta đang đi. Làm rõ vấn đề
này, điều hết sức quan trọng nữa là từ đó rút ra những bài học cần thiết cho sự
nghiệp chúng ta, những bài học đầy giá trị hào hùng, cả khơng ít bài học cay
đắng. Đây là một đại tổng kết lịch sử và lý luận, đại tổng kết thực tiễn có ý
nghĩa quan trọng quyết định để đưa con đường cách mạng và phát triển của
dân tộc ta tiếp tục vững chắc đi lên.
“Thế giới đổi thay”nói ở đây chủ yếu liên quan đến sự sụp đổ mơ hình
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế kỷ XX đưa đến sự đảo
lộn cả trật tự thế giới. Cịn “Thời đại khơng thay đổi” là nói, mặc cho thế giới
đã đổi thay, nhưng thời đại với tính chất là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 thì không thay đổi.
Vậy là thế giới đổi thay, nhưng thời đại không thay đổi. Đảng ta, nhân
dân ta, đất nước ta, nhất quyết tiếp tục đi con đường thời đại - con đường xã


hội chủ nghĩa. Với tư tưởng kiên định nhưng thường xuyên đổi mới, sáng tạo
phù hợp những thay đổi của thực tiễn thế giới đang không ngừng thay đổi.
Nắm vững thời đại không thể dừng lại ở bản chất thời đại nói chung, mà trong
mỗi thời điểm lịch sử cần nhận rõ cách mạng đang đứng ở đâu, ở thời kỳ nào,
với những đặc điểm gì. Mặt khác, khơng thể chỉ thấy hiện tại mà không thấy
triển vọng, không thể chỉ thấy trước mắt mà không thấy xu thế cơ bản lâu dài,
không thể chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 1991 đã sáng suốt chỉ ra một tầm nhìn, một tư tưởng chiến lược cơ bản
rất đúng đắn, sâu sắc: "Chủ nghĩa xã hội hiện nay đang đứng trước những khó
khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song
loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật
tiến hóa của lịch sử".
2.2 Chủ thuyết chính trị của Việt Nam trong thời đại ngày nay
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ
năm 1930 đến nay và mãi từ nay về sau là chủ thuyết cách mạng nhất quán
của Việt Nam, dứt khốt khơng thay đổi và khơng ai có thể thay đổi. Chủ
thuyết này đã đưa cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đi từ thắng lợi lịch sử
này đến thắng lợi lịch sử khác, hoàn thành giải phóng dân tộc, đưa cả nước
quá độ từng bước lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự nghiệp đổi mới,
sáng tạo, khơng bảo thủ, giáo điều, chủ quan, duy ý chí.
Ở nước ta khơng có đất cho chủ nghĩa tư bản thống trị như một chế độ
xã hội, khơng có đất cho một chủ thuyết chính trị nào khác khả dĩ được nhân
dân chấp nhận, ngoài độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản với ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong khi khẳng định chỗ mạnh cơ bản của chủ thuyết cách mạng và


phát triển Việt Nam, bên cạnh nhiều thuận lợi lớn, chúng ta vẫn không quên
rằng trên con đường đi tới đích cịn vơ vàn khó khăn và thách thức phải đối
mặt, thậm chí có những nguy cơ tiềm ẩn khơng thể xem thường. Bốn nguy cơ
mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội khóa VII (tháng 1-1994) nêu lên
cịn đó, bây giờ nhắc lại cũng khơng thừa. Có nguy cơ được giảm thiểu chừng
nào, có nguy cơ vẫn giữ nguyên, có nguy cơ tăng thêm, và xem ra 4 nguy cơ
còn kết chặt với nhau hơn. Với Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về chỉnh đốn

Đảng, cực kỳ quan trọng trong thực hiện di chúc Bác Hồ nhưng qua nhiều lần
tổng kết cho thấy việc thực hiện chưa đạt yêu cầu. Nay Nghị quyết Trung
ương 4 (Đại hội XI) đang tích cực triển khai để kiên quyết thực hiện kỳ được.
Đi đôi với chống các nguy cơ, hoạt động cơ bản của toàn Đảng, toàn
dân ta hiện nay và lâu dài phải hướng chủ yếu vào xây dựng, sáng tạo. Về độc
lập dân tộc còn vấn đề khơng? Cịn và cịn từ hai mặt chiến lược gắn kết với
nhau là vừa bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia,
vừa xây dựng, phát triển đất nước. Phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc, và phải
nhớ lời dạy của Bác Hồ: Độc lập rồi mà dân không được tự do, ấm no, hạnh
phúc thì độc lập khơng có ý nghĩa gì. Nghĩa là, theo Bác, phải xây dựng cho
được chủ nghĩa xã hội mới có độc lập dân tộc thực sự và vững bền. Độc lập
dân tộc ngày nay phải dựa trên căn bản kinh tế. Kinh tế khơng mạnh thì quốc
phịng tất nhiên cũng yếu. Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát
triển. Tình trạng này nếu khơng được vượt qua thì rồi độc lập dân tộc cũng
lâm vào nguy cơ. Ngay bây giờ, dù đã qua bao công sức xây dựng và đổi mới
nhưng kinh tế nước ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng gia cơng, lắp ráp, "làm
th" cho nước ngồi. Ta chưa có nền cơng nghiệp chế tạo, chế biến công
nghiệp nặng sản xuất tư liệu sản xuất với công nghệ cao, trong khi thế giới
đang đi vào kinh tế hậu công nghiệp, kinh tế tri thức, kinh tế tồn cầu. Trong
điều kiện đó, nếu khơng bứt phá lên thật nhanh thì kinh tế nước ta cịn phụ
thuộc nhiều vào bên ngồi, khơng thể nào có độc lập tự chủ chẳng những về
kinh tế mà cả về các mặt khác, ngay cả mặt chính trị.


Tồn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chủ đạo là một quá
trình đầy rẫy những mâu thuẫn như đã nói ở các phần trên, nhưng khơng nước
nào có thể đứng ngồi q trình tồn cầu hóa. Nước ta đã và đang chủ động
tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu với ý thức đầy đủ tranh thủ mặt lợi, tránh
những tác động tiêu cực, có hại. Tuyệt đối hóa một cách phiến diện mặt nào
cũng khơng đúng. Về mặt tích cực, nước ta thơng qua hội nhập kinh tế quốc

tế, tranh thủ cho được lợi thế của nước đi sau, kế thừa cho được những thành
quả văn minh loài người được tạo ra dưới chế độ tư bản.
So với các nước phát triển, ở các nước kém phát triển cách mạng xã
hội chủ nghĩa bắt đầu có thể tương đối dễ, nhưng để đưa đến đích cuối
cùng, trọn vẹn chủ nghĩa xã hội, thì khó khăn hơn rất nhiều. Nước ta, trải
qua những cách làm sai trước thời kỳ đổi mới 1986, đã đem lại những bài
học thấm thía cho thấy khơng được ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí, bất chấp
quy luật khách quan.
Trọng tâm trong chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam hiện nay
là quá độ từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước lạc hậu
về kinh tế, V.I.Lênin nhấn mạnh thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất lâu
dài, rằng trong cả thời kỳ quá độ phải có hàng loạt bước quá độ. Rõ ràng, với
nền kinh tế nhiều thành phần, nước ta phải trải qua rất nhiều bước đẩy mạnh
lực lượng sản xuất để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải trải qua
nhiều bước cụ thể, thích hợp, vững chắc xây dựng và phát triển quan hệ sản
xuất mới, từ đó mới có được phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đích
thực. Đi đơi với nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phải đẩy nhanh,
thậm chí đi trước một bước trong phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học,
chăm lo đời sống tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo nhân lực, phát
triển nhân tài để thúc đẩy và phát triển kinh tế.
Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của đội tiên phong là Đảng Cộng


sản Việt Nam, Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhất định thực hiện thành cơng chủ thuyết chính trị cách mạng và phát triển vĩ
đại đã được lịch sử dân tộc lựa chọn. Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh
"dĩ bất biến ứng vạn biến", kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo và thơng minh
tính kiên định về ngun tắc và mục tiêu khơng thay đổi với đầu óc uyển
chuyển, tinh thần và khả năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp

ứng tình hình quốc tế và đất nước trong thời đại ngày nay đầy biến động
nhanh và khơn lường. Đó là bí quyết thành cơng trong sự nghiệp vĩ đại xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta và dân tộc ta.


KẾT LUẬN
Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới là một thời đại lâu dài và có nhiều chuyển biến vô cùng lớn lao. Qua
việc nghiên cứu về cách tiếp cận, đặc điểm, bản chất của thời đại ngày nay
giúp chúng ta càng hiểu hơn về những vấn đề mà hiện nay thế giới đang phải
đối mặt như vấn đề đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay gắt trên phạm vi
thế giới, những vấn đề toàn cầu đòi hỏi sự hợp tác giải quyết của tất cả quốc
gia, vấn đề tồn cầu hóa, hịa bình ổn định cùng phát triển...và nó tác động
trực tiếp đến cơng cuộc đổi mới của Việt Nam. Điều đó đã làm nảy sinh tính
đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và trong chính sách đối ngoại của
các nước. Để xây dựng thành công một Nhà nước XHCN, Đảng và Nhà nước
ta phải tích cực nắm bắt mọi thay đổi, biến động của thời đại ngày nay trên
thế giới, áp dụng vào Việt Nam để nước ta không bị lạc hậu về kinh tế, xã
hội...so với thế giới.
Việc nhận thức sâu sắc về thời đại giúp đất nước ta biết mình đang ở đâu,
sẽ đi đến đâu, hướng đi như thế nào và những chuyển biến theo đúng quy luật
lịch sử của thời đại là đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó ngày càng khẳng định con
đường đã lựa chọn theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn tồn chính xác
và hợp quy luật. Tiến cùng thời đại là cả một hướng đi lâu dài, nắm được đặc
điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại chúng ta sẽ cách nhìn đúng
đắn, khơng bị mất phương hướng. Từ đó củng cố thêm niềm tin vào cách
mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời xuất phát từ thực tế đưa ra được những
chiến lược và sách lược hợp lý cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất
nước kiên định con đường đã lựa chọn và thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Chủ nghĩa Mác – Lênin và thời đại ngày nay, Nxb Sự thật, Hà Nội –1983.
1. Học thuyết Lênin về Đảng và thời đại ngày nay, Thông tấn xã
2. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ
mơn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Một số vấn đề về
chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội – 1996.
3. Lê Hữu Nghĩa: Thời đại chúng ta và sức sống của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2002.
4. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996.
5. Nội dung và mâu thuẫn cơ bản của thời đại hiện nay,Nxb Sự thật, Hà
Nội – 1961.
6. Tính chất của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội – 1961.
7. Về thời đại Lênin, Nxb Sự thật, Hà Nội – 1964.
8. GS. TS Vũ Văn Hiền: Nhận thức về thời đại ngày nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội – 2010.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................................4
Chương 1...............................................................................................................................4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY.............................................4
1.1 Quan niệm về thời đại ngày nay...................................................................................4
1.2 Cách tiếp cận về thời đại...............................................................................................5
1.3


Bản chất của thời đại ngày nay................................................................................8

1.4 Đặc điểm của thời đại ngày nay..................................................................................11
Chương 2.............................................................................................................................14
VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY................................................................14
2.1 Sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam..............................................14
2.2 Chủ thuyết chính trị của Việt Nam trong thời đại ngày nay....................................17
KẾT LUẬN.........................................................................................................................21



×