Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận thời đại ngày nay tính phức tạp và xu thế vận động của thời đại ngày nay theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.76 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Việc nhận thức rõ và xác định đúng thời đại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì
nó giúp ta biết được những nấc thang phát triển của xã hội, nắm được yếu tố có tính
ổn định trong một thế giới đầy biến động. Tìm thấy xu hướng tất yếu trong vơ vàn
những hiện tượng phức tạp mang tính ngẫu nhiên của đời sống xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người thường được đo bằng những thiên
niên kỷ, thế kỷ, thập kỷ, năm tháng, ngày giờ. Nhưng còn một cách đo khác sâu
sắc hơn và có ý nghĩa hơn nhiều là xác định sự phát triển xã hội bằng những
chuyển biến, những thay đổi có tính bước ngoặt được bắt đầu từ những sự kiện
đặc biệt báo hiệu sự chuyển hóa về chất của đời sống xã hội. Đó là cách phân
định xã hội bằng thời đại, là việc dựa vào những tiêu chí nhất định để phân kỳ
lịch sử và đặt tên cho nó.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, rất cần phải biết mình đang sống ở thời đại
lịch sử nào với những đặc điểm, tính chất, nội dung, xu thế phát triển của nó
ra sao? Biết được như vậy cũng là hiểu rõ ta đang sống ở đâu và sẽ đi tới đâu,
giúp ta nhìn xa trơng rộng, nắm bắt khuynh hướng phát triển và quy luật xoay
vần của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với sự phát
triển của lịch sử; vừa dự báo, và đoán định tới mức lường trước được những
thách đố phức tạp, tránh được những vấp váp sai lệch trên đường đi, từ đó sẽ
khơng bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp của đời sống
chính trị quốc tế. Có như vậy, đất nước mới phát triển mạnh mẽ, thốt được
khó khăn nghèo đói; bình n cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.
Ngày nay, khi tình hình thế giới và khu vực có những biến đổi hết sức phức
tạp, xu thế tồn cầu hóa, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự vươn
lên của các nước công nhiệp mới, các cường quốc mới làm cho cục diện thế giới có
nhiều thay đổi. Bên cạnh đó khi mà thế giới cùng tồn tại hai hệ thống, một bên là hệ
thống các nước tư bản chủ nghĩa, một bên là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
vừa hợp tác vừa đấu tranh thì người ta ln đặt ra câu hỏi là thời đại ngày nay là
thời đại nào, tính phức tạp của nó ra sao? vì lẽ đó việc nghiên cứu về thời đại ngày
nay và tính phức tạp của nó là cần thiết hơn bao giờ hết.


Với mong muốn tìm hiểu và nhận thức đầy đủ hơn về thời đại ngày nay
và tính phức tạp của nó tơi xin chọn vấn đề “Tính phức tạp và xu thế vận
động của thời đại ngày nay theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử” làm tiểu luận kết thúc học phần môn Thời đại ngày nay và định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1


2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói rằng thời đại ngày nay là một vấn đề không phải là mới, liên
quan tới vấn đề thời đại ngày nay đã có rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên
cứu tiêu biểu, nhìn chung các bài viết và các cơng trình nghiên cứu đã phân
tích khá đầy đủ về thời đại ngày nay và tính phức tạp của nó, song trong phạm
vi tiểu luận này tác giả xin trình bày vấn đề tính phức tạp của thời đại ngày
nay theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
3. Đối tượng nghiên cứu
Những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử về thời đại ngày nay và tính phức tạp của nó.
4. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ tính phức tạp của thời đại ngày nay dưới góc nhìn duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này trong việc đưa ra những chủ trương chính sách của Đảng
trong thời kỳ mới.
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên thì tiểu luận có nhiệm vụ làm rõ một số
vấn đề sau:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời đại và thời đại ngày nay
Các giai đoạn phát triển của thời đại ngày nay
Nội dung và tính chất phức tạp của thời đại ngày nay…

5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải quyết vấn đề, đồng thời cũng sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp nghiên cứu tài
liệu, phân tích tổng hợp, logic - lịch sử để làm sáng tỏ vấn đề
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo tiểu luận có
kết cấu gồm 2 chương và 5 tiết.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1.1. Quan niệm về thời đại và cơ sở phân chia thời đại lịch sử
1.1.1. Quan niệm về thời đại
Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội,
phân biệt những nấc thang phát triển xã hội lồi người. Các ngành khoa học
khác nhau có cách phân chia thời đại lịch sử khác nhau, ví dụ như:
Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp là Phuriê (1772 - 1837) chia
lịch sử phát triển xã hội lồi người thành bốn giai đoạn: mơng muội, dã man,
gia trưởng, văn minh.
Nhà nhân chủng học Mỹ là Moócgan (1818 - 1881) lại phân chia thành
ba giai đoạn: mông muội, dã man và văn minh.
Nhà tương lai học người Mỹ, Anvin Tơpphlơ lại dựa vào trình độ
phát triển cơng cụ sản xuất, chia lịch sử phát triển nhân loại thành ba nền
văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu
công nghiệp.
Như vậy, dựa trên những cơ sở khác nhau, có thể có sự phân chia thời

đại khác nhau. Đối với chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin cũng chia thành thời đại
thứ nhất, từ cuộc Đại cách mạng Pháp đến cuộc Chiến tranh Pháp - Phổ là
thời đại giai cấp tư sản đang phát triển mạnh. Thời đại thứ hai là thời đại giai
cấp tư sản giành được quyền thống trị hoàn toàn và đang bắt đầu đi xuống.
Thời đại thứ ba giai cấp tư sản đã trở thành như lãnh chúa, thời đại đế quốc
chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu thời đại lịch sử có một ý nghĩa to lớn. Có hiểu được
thời đại chúng ta đang sống là thời đại nào "thì chúng ta mới có thể định ra
đúng đắn sách lược của chúng ta; và chỉ trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm
cơ bản của thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của
nước này hay nước nọ".
1.1.2. Cơ sở phân chia thời đại lịch sử
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ sở thứ nhất để phân chia thời
đại lịch sử là các hình thái kinh tế - xã hội.
Theo Ph. Ăngghen, mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã
hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó tạo
thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của mỗi thời đại1.

3


Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin cho chúng
ta cơ sở khoa học để phân chia thời đại lịch sử, nó nói tới sự phát triển của lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
(bao gồm: các yếu tố chính trị, tư tưởng, văn hố, khoa học, v.v.). Nó nêu lên
lịch sử phát triển nhân loại trong mỗi thời kỳ lịch sử một cách toàn diện.
Dựa vào sự thay đổi vị trí trung tâm của các giai cấp trong xã hội.
Sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tếxã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn, không diễn ra một cách tự phát mà phải
thông qua hoạt động của con người, hoạt động của giai cấp tiên tiến và những
lực lượng cách mạng.

Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi một hình thái
kinh tế - xã hội có một giai cấp giữ vai trị thống trị, đứng ở vị trí trung tâm
của thời đại đó. Giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại phải là giai
cấp tiên tiến, giai cấp đại diện cho xu hướng vận động của lịch sử, có khả
năng tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động khác vào cuộc đấu tranh xoá
bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ xã hội mới. Giai cấp tiên tiến đứng ở vị trí
trung tâm của thời đại có vai trò quyết định xu hướng vận động của lịch sử
trong thời đại đó.
Trong chế độ phong kiến, giai cấp quý tộc phong kiến là người đại
diện. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản là người đại diện.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin cho
rằng đã xuất hiện những điều kiện khách quan cho việc xố bỏ hình thái kinh
tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Giai cấp công nhân Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích đã lãnh
đạo quần chúng nhân dân lật đổ chế độ chun chế Nga hồng, xố bỏ thiết
chế tư bản chủ nghĩa, mở ra một thời đại lịch sử mới là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế
Như vậy, từ sau Cách mạng Tháng Mười, nội dung cơ bản của thời đại
là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế
giới. Nhưng để thực hiện được điều đó, giai cấp cơng nhân ở mỗi nước phải
nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao
động tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, xố bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa thiết lập hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Tóm lại: Cơ sở khoa học để xác định thời đại lịch sử là những điều kiện
vật chất khách quan, hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội chỉ
4


xã hội ở một giai đoạn nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho

xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một
kiến trúc thượng tầng tương ứng về chính trị, đạo đức, pháp luật, được xây
dựng trên quan hệ sản xuất đó. Trong mỗi thời đại lịch sử lại có một giai cấp
đại diện đứng ở vị trí trung tâm, quyết định xu hướng vận động của lịch sử
trong giai đoạn đó.
Hình thái kinh tế - xã hội tiên tiến mở đầu một thời đại, tạo nên nội
dung của thời đại. Nhưng khái niệm hình thái kinh tế - xã hội và thời đại lịch
sử là không đồng nhất. Trong một thời đại lịch sử đồng thời tồn tại nhiều hình
thái kinh tế - xã hội, cả hình thái kinh tế - xã hội tiên tiến và cả lạc hậu. Chúng
đấu tranh với nhau một cách quyết liệt, lâu dài. Thời đại là một thời kỳ lịch sử
lâu dài có sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế
- xã hội cao. Đặc trưng cho tính chất và xu hướng vận động của thời đại là hình
thái kinh tế - xã hội tiến bộ nhất.
1.2. Thời đại ngày nay và các giai đoạn chính của nó
1.2.1. Quan niệm về thời đại ngày nay
Cách mạng Tháng Mười đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế
giới. Một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế giới. Nhân loại đang vứt
bỏ hình thức cuối cùng của chế độ nô lệ: chế độ nô lệ tư bản hay chế độ nơ lệ
làm th. Thốt khỏi được chế độ nơ lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào
chế độ tự do chân chính.
Sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười là cột mốc đánh dấu sự mở
đầu một thời đại lịch sử mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản vì cuộc cách mạng này đã làm sụp đổ trật
tự xã hội cũ - xã hội tư bản chủ nghĩa, tổ chức xây dựng một xã hội mới do
nhân dân lao động làm chủ. Sau Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Nga (sau
này là Liên Xô) đã là những người làm chủ bộ máy nhà nước, làm chủ những
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Liên Xơ, đã lao động qn mình, nhanh chóng biến nước Nga
lạc hậu thành một nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển, nhiều
ngành khoa học tiên tiến, có một xã hội ln ln quan tâm tới đời sống của

quần chúng nhân dân lao động.
Với thành quả của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, với niềm tin
vào lý tưởng cộng sản đã giúp cho nhân dân Liên Xô cùng với những lực
lượng dân chủ tiến bộ trên thế giới đập tan chủ nghĩa phátxít, cứu nhân loại

5


khỏi họa diệt chủng, giải phóng hàng loạt nước Đơng Âu, tạo điều kiện cho
các nước này đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội với tính ưu việt của nó đã cổ vũ hàng loạt các nước
đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, xố bỏ
tàn tích của chế độ thực dân phong kiến. Nhiều nước trong số đó đã lựa chọn
con đường lên chủ nghĩa xã hội hoặc định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa xã hội đã vượt khỏi phạm vi một nước trở thành hệ thống trên thế giới
đối lập với thế giới tư bản chủ nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Mười, nhất là từ khi nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa ra đời, sự vận động của tình hình thế giới có lợi cho lực lượng hồ
bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Tóm lại, Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở đầu thời đại mới - thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới vì:
Thứ nhất, sau Cách mạng Tháng Mười Nga chủ nghĩa xã hội đã từ lý
luận trở thành thực tiễn, đã xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, là cái đối lập, phủ định hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chiều hướng phát triển chủ yếu, trục xuyên suốt của sự vận động
lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ
nghĩa, thiết lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
Thứ ba, từ sau Cách mạng Tháng Mười, các nước xã hội chủ nghĩa, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nịng cốt, đi đầu trong
cuộc đấu tranh vì hồ bình, dân chủ và tiến bộ trên phạm vi tồn thế giới.

Thứ tư, sau Cách mạng Tháng Mười, cách mạng giải phóng dân tộc
nằm trong phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều nước sau khi giành
được độc lập dân tộc đã đi lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Sự vận động của lịch sử là quanh co và phức tạp khi tiến, khi lùi. Do
vậy, hiện nay mặc dù tình hình quốc tế đang cịn diễn ra vơ cùng phức tạp,
nhưng Đảng ta vẫn khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó
khăn, thử thách. Lịch sử thế giới hiện trải qua những bước quanh co; song,
loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật
tiến hố của lịch sử"
1.2.2. Những giai đoạn chính của thời đại ngày nay
Thời đại ngày nay được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười
Nga vĩ đại, là thời đại đấu tranh cho hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội, là thời đại đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ

6


nhằm chuẩn bị những tiền đề vật chất chín muồi cho sự xuất hiện chủ nghĩa
xã hội.
Như V.I. Lênin khẳng định, tính phức tạp trong sự vận động của lịch sử
nhân loại, song có thể chia thời đại của chúng ta từ Cách mạng Tháng Mười
tới nay thành bốn giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Từ sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 tới kết
thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945.
Giai đoạn này là giai đoạn chủ nghĩa xã hội mới hình thành trên phạm
vi một số nước như Liên Xô, Mông Cổ. Cuộc Cách mạng Tháng Mười là
cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử đưa nhân dân lao động từ những người
nô lệ, làm thuê trở thành những người làm chủ đất nước. Sức mạnh của chế
độ mới đã giúp nhân dân lao động Nga đứng vững trong cuộc nội chiến, đập
tan âm mưu can thiệp của chủ nghĩa đế quốc. Với khí thế lao động của những

con người được giải phóng, thơng qua chính sách kinh tế mới, thơng qua con
đường hợp tác hố trong nơng nghiệp, cơng nghiệp hố đất nước, sau 20 năm
Liên Xô đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Đó là những
nguyên nhân giúp cho nhân dân Liên Xơ đánh bại chủ nghĩa phátxít trong
Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa
phátxít.
Giai đoạn thứ hai: Từ sau năm 1945 tới đầu những năm 1970.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ
nghĩa ra đời, nhất là từ sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xuất hiện,
cùng với những thành tựu to lớn của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa về
kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật, v.v., hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hồ bình,
tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản động
quốc tế.
Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa
đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong
các nước tư bản chủ nghĩa, đã động viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên
đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong những năm 60 thế kỷ XX, khoảng 100 quốc
gia giành được độc lập dân tộc với những mức độ khác nhau.
Bên cạnh những kết quả đó, trong giai đoạn này, trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế đã có những bất hồ. Trong Di chúc của Hồ Chí
7


Minh, phần về phong trào cộng sản thế giới, Người viết: "... tôi càng tự hào
với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì
tơi càng đau lịng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!"1.
Giai đoạn thứ ba: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.

Trong giai đoạn này ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa không chú ý tới
công tác xây dựng đảng, nhiều kẻ cơ hội chui vào hàng ngũ đảng cộng sản.
Một số người mắc vào tệ sùng bái cá nhân, không ít người mắc bệnh kiêu
ngạo cộng sản, khơng nhìn thấy và khơng đánh giá đúng những thay đổi trong
chính sách của chủ nghĩa tư bản. ở khơng ít nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy
nhà nước trở nên quan liêu, vi phạm những quyền dân chủ của nhân dân.
Trong xây dựng kinh tế chủ quan nóng vội, khơng tn thủ những quy luật
kinh tế khách quan, chậm đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Trong lĩnh vực xã hội thực hiện bao cấp tràn lan, khơng kích thích được tính
tích cực cá nhân, do vậy khơng tạo ra được động lực thúc đẩy xã hội phát
triển.
Những sai lầm trên kéo dài, chậm được phát hiện và khắc phục triệt để
đã hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước, dẫn tới tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nhiều nước, buộc các nước phải cải cách
đổi mới.
Trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều đảng cộng sản mắc những sai
lầm mang tính chất ngun tắc. Lợi dụng tình hình đó, những thế lực thù địch
với chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài, kết hợp với những kẻ phản bội ở bên trong,
thậm chí cả những người đứng đầu cơ quan đảng và nhà nước đã tấn công làm
sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
Như vậy sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu và Liên Xơ
có ngun nhân sâu xa là những sai lầm của các đảng cộng sản, các nhà nước xã
hội chủ nghĩa, sự chống phá quyết liệt của kẻ thù và sự phản bội của một số người
cộng sản, chứ hồn tồn khơng phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và lý luận
khoa học về chủ nghĩa xã hội như một số người vẫn đang rêu rao.
Đây cũng là bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước
xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn từ đầu những năm 1990 tới nay.
Giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái
trào. Cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô,

nhiều đảng cộng sản và công nhân bị tan rã, nhiều đảng viên xin ra khỏi đảng.
Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên chủ nghĩa xã hội, nhưng giờ
8


đây mất chỗ dựa về vật chất và tinh thần, các lực lượng phản động giành lại
chính quyền đưa đất nước theo con đường khác. ảnh hưởng của chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới giảm đi nghiêm trọng.
Những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương, nghìn kế
bằng nhiều luận điệu khác nhau để xố bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và phá hoại
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại,
nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản trên thế giới.
Lịch sử đang đặt ra những thử thách to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Để vượt qua những thử thách đó, các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi
mới, phải khắc phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ tạo ra, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải
thiện đời sống nhân dân, để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, những người cộng sản ở các nước
thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt kẻ
thù, đang ra sức tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi
phục những giá trị của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã hội
chủ nghĩa.
Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân
tiến bộ trên thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ
nghĩa tư bản hiện đại, từ đó mà đồn kết nhau lại để đấu tranh xoá bỏ chủ
nghĩa tư bản, đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài
học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân

tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến
hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".

9


CHƯƠNG 2
TÍNH PHỨC TẠP VÀ XU THẾ VẬN ĐỘNG
CỦA THỜI ĐẠI NGÀY NAY
2.1. Tính phức tạp của thời đại ngày nay
2.1.1. Sự tồn tại song song chủ nghĩa tư bản – chủ nghĩa xã hội và
vấn đề vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu,
trước tình hình thay đổi chung của toàn thế giới theo hướng toàn cầu hóa,
quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội cũng được điều chỉnh theo
hướng cùng tồn tại trong hịa bình và hợp tác để phát triển. Xu thế hịa bình,
hợp tác và phát triển giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản được quy định
và được thúc đẩy bởi các yếu tố cơ bản như:
Thứ nhât, sự tồn tại của vũ khí giết người hàng loạt và sức mạng gủy
diệt khủng khiếp của nó làm cho giới cầm quyền nào, dù ở phe XHCN hay
TBCN cũng đều phải toan tính kỹ vấn đề cái giá của chiến tranh. Vì nếu chiến
tranh xảy ra thì sẽ khơng có bên thắng bên thua mà chỉ có một kết cục, đó là
sự hủy diệt.
Thứ hai, cục diện thế giới đa cực là xu thế tất yếu của thế giới, các
nước quan hệ với nhau trong khuôn khổ vừa hợp tác vừa đấu tranh. Hợp tác
nhưng không dẫn đến liên minh, đấu tranh nhưng không dẫn tới xung đột vũ
trang.
Thứ ba, sự phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia khiến chon nguy cơ
xung đột vũ trang bị đẩy lùi, vì nếu có chiến tranh hậu quả sẽ lại là xuy thối
kinh tế tồn cầu, một kết cục mà khơng quốc gia nào muốn.

Thứ tư, đó là các vấn đề toàn cầu về hợp tác an ninh quốc tê, chống vũ
khí hủy diệt, chống khủng bố, vấn đề môi trường…
Thứ năm, nhu cầu phát triển của mỗi quốc gia địi hỏi mơi trường hịa
bình để tập trung mọi nguồn lực cho sự phát triển.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa CNTB và CNXH vẫn được coi là mâu
thuẫn cơ bản, sâu sắc và khơng thể xóa bỏ trong thời đại ngày nay. CNTB
ln tìm mọi thủ đoạn để đoạt quyền lãnh đạo của các Đảng cộng sản trên
phạm vi thế giới, thơng qua chiến lược “diễn biến hịa bình” chủ nghĩ tư bản
phương Tây ln tìm cách dung dưỡng và thúc đẩy phe đối lập chính trị ở
các nước XHCN tiến hành bạo loạn lật đổ, đoạt quyền lãnh đạo quốc gia từ
tay các Đảng cộng sản, đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
10


Chính vì vậy, cuộc đấu tranh giữa CNTB và CNXH hiện nay so với trươc đây
không kém phần gay go quyết liệt.
2.1.2. Quan hệ giữa những nước lớn trong trật tự thế giới mới
Trật tự thế giới được quan niệm như một tiêu chí căn bản quyết
định quan hệ quốc tế, là sự xác lập đảm bảo cho đời sống thế giới có sự bình
ổn, có tổ chức. Trật tự này được xác lập bằng các hiệp định, quy ươc, luật lệ
chung nhất cho các hoạt động chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế trên
trường quốc tế.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trật
tự thế giới hai cực cũng mất đi. Mỹ muốn vươn lên làm bá chủ thế giới với
nhiều chương trình khống chế tồn cầu song đều khơng thể thành công trong
thế kỷ XXI và càng không thể thành cơng trong tương lai về sau nữa vì có quá
nhiều lực cản. Sự sắp đặt trật tự thế giới thuộc về cả cộng đồng chứ không
phải của riêng một mình Mỹ. Trật tự thế giới mới đang hình thành nhưng đó
là trật tự thế giới đa cực. Trong trật tự thế giới đa cực nổi lên vai trò của các
nước lớn và quan hệ của các nước này trong trật tự thế giới mới chính là một

nhân tố quan trọng khiến cho tình hình thời đại ngày nay thêm phức tạp.
Sau chiến tranh lạnh, kể từ thập kỷ 90 của thập kỷ XX, Mỹ trở thành
siêu cường duy nhất của thế giới. Song thời gian gần đây sức mạnh của Mỹ
dần suy giảm, kinh tế suy thoái, sa lầy chiến tranh ở Trung Đông… là những
nhân tố làm Mỹ dần mất đi sức mạnh của mình. Tuy nhiên, cho đến thời điểm
này chưa có một quốc gia nào trên thế giới đủ sức thách thức vị trí siêu siêu
cường số một của Mỹ.
Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ về mọi mặt, sự trỗi dậy hịa bình của
Trung Quốc như một sự thách thức đối với thế giới là nét nổi bật của đầu thế
kỷ XXI. Sự lớn mạnh của Trung Quốc làm cho các quốc gia trên thế giới quan
ngại về “mối đe dọa từ Trung Quốc”. “Hiện tượng” Trung Quốc tác động
mạnh đến lực lượng so sánh giữa các nước lớn.
Nhật Bản tuy có sự chững lại trong phát triển kinh tế nhưng vẫn duy trì
được vị trí siêu cường kinh tế hàng đầu khu vực và thế giới. Tuy nhiên, hiện
nay nước này đang phải đối diện với những thách thức bắt nguồn từ sự bất ổn
định chính trị bên trong quốc gia. Nhật Bản ni tham vọng trở thành cường
quốc chính trị, cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc trong phạm vi khu
vực và trên trường quốc tế.

11


EU trở thành một tổ chức khu vực hùng mạnh, một trung tâm kinh tế
của thế giới, có trình độ liên kết cao, phạm vi liên kết rộng. Tuy nhiên, EU
chưa thực sự có tiếng nói đáng kể trong giải quyết khủng hoảng trên thế giới.
Nga có những bước tiến mạnh từ năm 2003 trở lại đây, dần lấy lại hình
ảnh một siêu cường như Liên Xơ trước đây, mặc dù vậy Nga cũng phải chịu
nhiều sức ép từ phía Mỹ và phương tây. Ngoài ra, Ấn Độ và Braxin cũng
vươn lên mạnh mẽ trở thành những nước lớn có tầm ảnh hưởng trên thế giới.
Quan hệ giứa các nước lớn và những điều chỉnh của họ có ảnh hưởng

rất to lớn tới đời sống chính trị thế giới và quan hệ quốc tế, một nhân tố hàng
đầu trong sự hình thành trật tự thế giới mới. Quan hệ Mỹ - Trung Quốc; quan
hệ Mỹ - EU; quan hệ Mỹ - Nga; quan hệ Mỹ - Nhật Bản; quan hệ Nga –
Trung Quốc; quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản… Các mối quan hệ này hầu hết
là vừa hợp tác vừa đấu tranh điều này có tác động rất lớn đến sự hình thành
trật tự thế giới mới trong thời đại ngày nay, là một nhân tố quan trọng khiến
tình hình thế giới thêm phức tạp.
2.1.3. Cách mạng khoa học và công nghệ đang gây ra những thay
đổi to lớn trên thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại là sự biến đổi tận gốc
lực lượng sản xuất của xã hội hiện đại, thực hiện vai trò dẫn đường của khoa
học trong tồn bộ chu trình: Khoa học - Công nghệ - Sản xuất - con người Môi trường và là sự thể hiện sinh động dự đoán của C.Mác về việc khoa học
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra điều kiện nhanh chóng
phát triển lực lượng sản xuất trên thế giới. Trung bình 10 - 15 năm của cải nhân
loại tăng gấp đơi, do vậy, nhìn chung mức sống của con người không ngừng
được nâng cao. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ra những
thay đổi trong nhiều quan niệm của đời sống xã hội từ kinh tế tới chính trị,
văn hố, quan hệ quốc tế v.v., đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, nắm vững và
thích ứng.
Cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ đang tạo ra xu hướng tồn cầu
hố trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế tới chính trị, văn hố,
v.v.. Song tác động của nó đến các quốc gia, các dân tộc lại rất khác nhau tùy
thuộc và điều kiện, hoàn cảnh chủ quan và khách quan của mỗi nước. Tuy
nhiên, nó tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng;
khoảng cách sự phân hoá giàu nghèo giữa các nước ngày càng lớn. Điều này
làm cho mâu thuẫn giữa các quốc gia trong q trình phát triển ln vận động
12



và biến đổi, nó như sợi dây xích làm cho các quốc gia không tách rời nhau
vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau vì lợi ích quốc gia và lợi ích chung của
nhân loại.
2.1.4. Đấu tranh giai cấp và dân tộc, tôn giáo diễn ra gay gắt trên
phạm vi thế giới.
Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn
diễn ra quyết liệt trên thế giới. Chủ nghĩa xã hội vẫn là đối trọng chính của chủ
nghĩa tư bản. Do vậy, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xơ và
Đơng Âu, chủ nghĩa tư bản tìm mọi cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội cả trên lý
luận và trên thực tế. Giai cấp tư sản tìm nhiều biện pháp để chia rẽ, phá hoại
phong trào công nhân, bằng cách dành đặc quyền đặc lợi cho đội ngũ công
nhân có trình độ cao: "cơng nhân cổ cồn, cơng nhân áo trắng". Sau chiến tranh
lạnh, chủ nghĩa xã hội lâm vào thối trào, đấu tranh giai cấp có nhiều nét mới.
Tại các nước tư bản chủ nghĩa cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiềm ẩn
trong xã hội cùng với sự bất công, phân cực giàu nghèo ngày càng sâu sắc,
với cảnh cơ cực của đội quân thất nghiệp ngày càng đông đảo, sự phá hủy và
suy đồi đạo đức xã hội vì cơn lốc của lợi nhuận. Tại đây, phong trào cơng
nhân và lao động chống lại các chính sách bóc lột của các cơng ty tư bản và
của chính quyền tư sản ngày càng dâng cao, đi sâu vào thêm nữa ta thấy rằng
nguồn gốc của sự xung đột giai cấp trong xã hội tư bản vẫn là logic phát triển
trong điều kiện bất bình đẳng, đa số phải phục tùng lợi ích và quyền lực của
thiểu số; vẫn là do xã hội vận hành trên cơ sở quan hệ bóc lột và bị bóc lột.
Mặc dù giai cấp tư sản hiện nay có sự mềm dẻo nhất định trong từng việc, ở
từng nơi, từng lúc, nhưng về cơ bản, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ngày
càng gay gắt vaf chứa đựng sự bùng nổ xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp của
những người lao động chống bóc lột và bất cơng ở các nước tư bản chủ nghĩa
hiện nay diễn ra không chỉ trong khuôn khổ kiến trúc thượng tầng, mà cả ở cơ
sở hạ tầng, làm thay đổi nền móng xã hội, mà những mầm mống và yếu tố của
nó sẽ là những điều kiện dẫn tới sự thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công
hữu, trên cơ sở cuộc đấu tranh giai cấp được tiến hành theo một cách thức

mới.
Ở các nước đang phát triển thuộc thế giới thứ ba cuộc đấu tranh giai
cấp cũng diễn ra vô cùng quyết liệt, không hề ngưng nghỉ kể cả sau chiến
tranh lạnh. Cuộc đấu tranh giữa nhân dân lao động ở các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây cũng diễn ra rầm rộ cả trên đường phố và ở trong nghị trường

13


chống lại tầng lớp tư sản mới làm giàu nhờ tham ô, tham nhũng và cướp đoạt
tài sản quốc gia trước kia.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp thể hiện cả trong việc
bảo vệ lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa Mác – Lênin lẫn việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ở các nước này, trong điều kiện mở cửa và hội nhập
với thế giới, Đảng cộng sản cầm quyền càng phải đề cao cảnh giác, mài sắc ý
chí cách mạng, kiên định lập trường giai cấp, nhận dạng rõ ràng các hành
động, âm mưu thù địch để có biện pháp đấu tranh hiệu quả.
Nguy cơ chiến tranh thế giới đã bị đẩy lùi, nhưng xung đột sắc tộc, dân
chủ, tôn giáo xảy ra gay go, quyết liệt và diễn biến phức tạp trên thế giới.
Chạy đua vũ trang, chủ nghĩa khủng bố đang gây ra hậu quả rất lớn làm tổn
thất về người và của cho nhiều dân tộc.
Thời đại ngày nay, vấn đề dân tộc nổi lên như là một vấn đề tồn cầu,
nó đe dọa nền an ninh của mỗi quốc gia, nền hịa bình của thế giới. Vấn đề
xung đột sắc tộc ở châu Phi, tại các nước thuộc Liên Xô trước đây, vấn đề dân
tộc ở Nam Tư… Nguyên nhân của những cuộc đụng độ sắc tộc có thể điểm
qua gồm:
Một là, do lịch sử để lại. Đó là những mâu thuẫn tích tụ từ lâu đời.
Hai là, xu thế độc lập dân tộc được khẳng định làm ý chí mỗi dân tộc
được củng cố mạnh hơn.
Ba là, vai trò của quốc tế trong việc dập tắt cá xung đột sắc tộc có giới

hạn.
Bốn là, các xung đột sắc tộc có sự đan xen lợi ích của các quốc gia
đứng ngoài với các quốc gia trực tiếp tham gia.
Năm là, chủ nghĩa đế quốc và bọn lái sung châm dầu vào lửa, kích
động mâu thuẫn dân tộc chen vào kiếm trác.
Sáu là, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ và Đơng Âu
có tác động mạnh mẽ tới vấn đề dân tộc.
Để giải quyết tôt vấn đề dân tộc chúng ta cần hiểu rõ và vận dụng đúng
quan điểm của Lênin về quyền tự quyết của các dân tộc, trên cơ sở này thì vấn
đề dân tộc mới có thể tìm được lối thốt thực sự, tránh sự kích động từ các thế
lực hiếu chiến, sôvanh, diều hâu khát máu.
Vấn đề dân chủ luôn là đề tài nổi bật trong các tranh luận quốc tế về
nhân quyền và nó cũng là một chiêu bài lợi hại được chủ nghĩa đế quốc sử
dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia mà chúng coi là
thiếu nhân quyền. Thực tế cho thấy, dân chủ ln mang tính giai cấp. Các nhà
14


kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều khẳng định: các thiết chế dân chủ
và quyền công dân chỉ để dành cho những kẻ chiếm hữu về tư liệu sản xuất,
quyền lực chính trị căn bản nằm trong tay giai cấp tư sản. Bên cạnh đó, một
số thiết chế dân chủ trong chủ nghĩa tư bản còn là kết qủa đấu tranh của quần
chúng nhân dân lao động. Do đó, nhân dân lao động mà giai cấp tiên tiến là
công nhân cần biết sử dụng thành quả dân chủ để bảo vệ những lợi ích kinh tế
và chính trị của mình lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cách mạng thiết lập nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự phủ định biện chứng dân chủ tư sản.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đa số nhân dân gắn với công bằng xã
hội, chống áp bức bất công, được thực hiện trong thức tế trên tất cả các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hơi, được thể chế hóa bằng luật và được

pháp luật bảo đảm. đó là một nến dân chủ tiến bộ gấp nhiều lần dân chủ tư
sản.
Trên thế giới ngày nay tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau, tôn giáo là một
phạm trù thuộc ý thức hệ rất đặc biệt, bởi lẽ tôn giáo tồn tại xuyên thời gian
và không gian. Khoa học hiện nay đang đóng vai trị vơ cùng quan trọng, song
nó khơng phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề, tơn giáo giống
như một làn điệu trong trẻo hịa quện vào bản tình ca của nhân loại. Con
người cần một chỗ dựa tinh thần và đó chỉ có thể là tơn giáo. Hiện nay, tâm
linh tơn giáo đóng vai trị tối quan trọng trong nền văn hóa nhân loại, thẩm
thấu vào tư tưởng của con người. Nhưng, một số thế lực lợi dụng tôn giáo để
can thiệp vào công việc nội bộ của quôc gia khác, khuấy động tôn giáo chống
phá chính quyền, gây ra sự kỳ thị giữa các tơn giáo, thương mại hóa tơn giáo
để thu lợi cá nhân, gây mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc, lợi dụng lịng tin tơn
giáo phục vụ các mưu toan chính trị và bạo lực.
2.1.5. Những vấn đề tồn cầu đòi hỏi sự hợp tác giải quyết của
các quốc gia.
Hiện nay, cộng đồng quốc tế đang đứng trước những vấn đề có tính
tồn cầu, địi hỏi các quốc gia, các tổ chức quốc tế phải cùng nhau giải quyết,
không phân biệt chế độ xã hội, biên giới như: khoảng cách chênh lệch giữa
các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng tăng; sự gia tăng dân số cùng
với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài
nguyên; môi trường sinh thái bị huỷ hoại; khí hậu trái đất diễn biến ngày càng
xấu, thay đổi thất thường kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các bệnh
dịch lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng phát triển, chủ nghĩa
15


khủng bố... Tất cả những điều đó địi hỏi phải có sự hợp tác, liên kết giữa các
quốc gia cùng nhau giải quyết.
Tóm lại, tình hình thế giới hiện nay đang đan xen những yếu tố phức

tạp, phát triển và suy thoái, hợp tác và đấu tranh, ổn định và mất ổn định. Tuy
rằng, hiện nay sự vận động của thế giới diễn ra phức tạp như vậy, nhưng
chúng ta cần phải thấy được những xu thế chủ yếu, trên cơ sở đó mà đề ra
những đường lối chính sách cho đúng nhằm tranh thủ những thuận lợi, vượt
qua những thách thức để nhanh chóng đưa đất nước ta phát triển lâu bền.
2.2. Những xu thế chủ yếu của thời đại ngày nay
Tồn cầu hố
Cách mạng khoa học và cơng nghệ là một động lực xuyên quốc gia, nó
đang tạo cơ sở vật chất cho q trình tồn cầu hố, thúc đẩy sự chuyển dịch
kinh tế, cơ cấu kinh tế, làm thay đổi nhiều quan niệm cũ về nhiều lĩnh vực
trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Ảnh hưởng chính trị, xã hội của tồn cầu
hóa kinh tế theo hướng tạo sự phụ thuộc lẫn nhau làm gia tăng các lợi ích
chung của các quốc gia, do đó thúc đẩy hịa bình hwpj tác và phát triển.
Tồn cầu hố là một xu thế khách quan, vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực đang bị các quốc gia phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia chi phối. Tồn cầu hóa cịn là tiến trình tấn cơng vào chủ quyền quốc
gia, làm xói mịn văn hóa và truyền thống địa phương. Tồn cầu hóa cũng tạo
ra khả năng quốc tế hóa các mặt tiêu cực của đời sống xã hội như buôn bán
ma túy, mại dâm, du nhập llois sống đồi trụy… Tồn cầu hố vừa mang tính
tích cực vừa mang yếu tố tiêu cực chính vì vậy nó địi hỏi các quốc gia một
mặt chủ động xác định lộ trình hội nhập vào mọi mặt đời sống nhất là lĩnh
vực kinh tế của thế giới, mặt khác cần hạn chế mặt tiêu cực của toàn cầu hóa
đồng thời tranh thủ các mặt tích cực của nó. Đây được coi là tư tưởng chủ đạo
của mỗi quốc gia.
Hồ bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển
Từ những hậu quả các cuộc chiến tranh trên thế giới, các quốc gia đều
nhận thấy được tầm quan trọng của hồ bình, ổn định để phát triển, xu thế hịa
bình và phát triển tác động tới mọi nhóm nước và mọi mối quan hệ quốc tế.
Trong thực tế không một nước nào có thể phát triển được trong hồn cảnh có
chiến tranh, do vậy, hồ bình đã trở thành nhu cầu bức xúc của các dân tộc trên

thế giới. Có hồ bình mới có điều kiện thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài,
mới huy động được sức người, sức của trong nhân dân để phát triển đất nước.
Một khi kinh tế phát triển mới có điều kiện nâng cao mức sống nhân dân, mới
16


có điều kiện chăm lo tới y tế, giáo dục từ đó mới có sự ổn định và phát triển
đất nước.
Phần lớn các nước trên thế giới đã dành những ưu tiên cho phát triển
kinh tế, thơng qua đó mà phát triển tiềm lực của mình, tạo điều kiện giữ gìn
hồ bình trong nước và trên thế giới. Các nước có chế độ chính trị khác nhau
thực hiện phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại trong hịa
bình. Nguyện vọng, địi hỏi bức xúc của lồi người là phấn đấu đạt đến cái
đích: hịa bình, hợp tác và phát triển
Gia tăng xu hướng liên kết, hợp tác giữa các quốc gia
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, tạo ra xu hướng tồn cầu hố trong các lĩnh vực. Khơng một quốc
gia nào có thể phát triển được nếu khơng có sự hợp tác khu vực, hợp tác quốc
tế. Do vậy, hợp tác là xu hướng tất yếu trên thế giới hiện nay.
Hình thức hợp tác quốc tế hiện nay rất đa dạng: hợp tác song phương,
hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế. Các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc,
Quỹ tiền tệ quốc tế, Tổ chức thương mại thế giới, v.v. ngày càng tham gia
nhiều vào đời sống kinh tế, đời sống chính trị của các nước.
Lĩnh vực hợp tác giữa các nước ngày càng đa dạng: hợp tác kinh tế,
khoa học kỹ thuật, hợp tác thương mại, hợp tác nghiên cứu chinh phục vũ trụ
và cả hợp tác chính trị.
Các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường
Với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, của phong
trào cách mạng trên thế giới, của phương tiện thông tin, các dân tộc ngày càng
ý thức được những quyền lợi dân tộc cơ bản của mình như: quyền độc lập dân

tộc, quyền tự quyết chế độ chính trị, quyền lựa chọn con đường phát triển,
v.v.. Mặt khác, các nước lớn, các nước giàu thường ỷ lại vào những thế mạnh
về kinh tế, quân sự để chi phối các nước nhỏ, các nước nghèo bằng cách áp
đặt quan điểm chính trị, dùng thủ đoạn bóc lột về kinh tế thông qua quan hệ
trao đổi mua bán không bình đẳng, thậm chí tiến hành cả những cuộc chiến
tranh xâm lược, lật đổ. Điều đó đã dẫn tới những cuộc đấu tranh của các nước
dân tộc chủ nghĩa đòi quyền bình đẳng, địi tơn trọng lợi ích quốc gia dân tộc
của họ.
Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và cơng nhân kiên trì
đấu tranh vì hồ bình, tiến bộ và phát triển

17


Tình hình quốc tế hiện nay có những diễn biến phức tạp, nhưng phấn
đấu cho hồ bình, ổn định, tiến bộ và phát triển vẫn là xu thế chung của nhân
loại. Hiện nay, tuy rằng chủ nghĩa xã hội đang gặp khó khăn rất lớn, đang phải
đấu tranh chống lại những âm mưu phá hoại của kẻ thù, nhưng các nước xã
hội chủ nghĩa, cùng với các đảng cộng sản và công nhân quốc tế vẫn là lực
lượng đi đầu, là nòng cốt trong cuộc đấu tranh chống lại những thế lực gây
chiến, bảo vệ hồ bình thế giới, phấn đấu cho sự phát triển và tiến bộ của
nhân loại.
Các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh
cùng tồn tại trong hồ bình
Các nước xã hội chủ nghĩa là những nước có nền kinh tế phát triển
thấp, trình độ khoa học - cơng nghệ chưa phát triển, do vậy, cần tranh thủ
khoa học - kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước tư bản phát triển để phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, tăng năng lực cạnh tranh của sản
phẩm hàng hố.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận. Các nước tư bản

chủ nghĩa thấy được những tiềm năng to lớn về đầu tư, mở rộng buôn bán
trong các nước xã hội chủ nghĩa. Cho nên, sự hợp tác giữa các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa là tất yếu.
Song, sự đối lập về hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và giai cấp tư
sản không hề giảm. Mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân vẫn là mâu thuẫn cơ bản nhất. Cho nên, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội vừa hợp tác vừa đấu tranh là tất yếu.
Thế giới hiện nay đang đồng thời tồn tại cả những thời cơ và thách
thức, những thuận lợi và khó khăn, những người cộng sản phải đi sâu nghiên
cứu nắm bắt thời cơ, tranh thủ những thuận lợi để vượt qua những khó khăn,
thách thức đưa cách mạng tiến lên.
Cuộc đấu tranh này vơ cùng gay go phức tạp, địi hỏi các đảng cộng
sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi mới, phải tiếp tục bổ sung,
phát triển về mặt lý luận, đấu tranh khắc phục tình trạng yếu kém trong quản
lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý nhà nước để đưa cách mạng tiến lên. Các
nước xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng tập hợp lực lượng, khắc phục những
bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, kịp thời ngăn chặn
những âm mưu hiếu chiến của những thế lực phản động quốc tế, thơng qua đó

18


mà phát huy ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, đấu tranh cho dân sinh,
dân chủ và thực hiện thắng lợi mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản.
2.3. Nhận thức về thời đại ngày nay và định hướng phát triển ở
Việt Nam
2.3.1. Nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về thời đại ngày nay
Những vấn đề nổi bật trong thời đại ngày nay
Chúng ta tiến hành xây dựng CNXH với một điểm xuất phát, từ một
nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, nông nghiệp là chủ yếu, hậu quả chiến

tranh tàn phá nặng nề trên phạm vị cả nước chưa khắc phục được. Cùng lúc
đó ta lại mắc phải sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan :
bố trí cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, cơ chế quản lý kinh tế theo lối tập trung
quan liêu bao cấp, nóng vội trong cải tạo XHCN, chỉ chú trọng cơng hữu hóa
tư liệ sản xuất. Hậu quả là người lao động bị kìm hãm, sức lao động không
được phát triển. Kinh tế phát triển chậm, sản xuất trì trệ, cung khơng đủ cầu.
Nền kinh tế quốc dân khơng có dự trữ, khủng hoảng trầm trọng, phải nhập
khẩu gạo trong khi nạn thất nghiệp tràn lan, ruộng đất bị bỏ hoang, phân phối,
lưu thông ách tắc.
Trên thực tế, những năm 1976 – 1980, ta đã đẩy mạnh cơng nghiệp hóa
trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết. Về cơ cấu, nền kinh tế không kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý,
chưa coi trọng, phát triển đúng vị trí của nơng nghiệp, trong nền kinh tế quốc
dân, những chỉ tiêu đặt quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất,
không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại các ngành kinh tế,
thiên về xây dựng công nghiệp và những cơng trình có quy mơ lớn. Kết quả
đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp, dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế,
đời sống khó khăn, hàng hóa thiếu, giá cả tăng nhanh, lạm phát leo thang. Có
một số chủ trương sai lầm trong việc cải cách giá cả và tiền lương, công tác tư
tưởng và tổ chức ván bộ phạm nhiều khuyết điểm, dẫn đến trong nhận thức và
hành động chưa đúng.
Bên cạnh những khó khăn trong nước, tình hình quốc tế diễn biến cũng
hết sức phức tạp, khủng hoảng dẫn đến tan rã chế độ XHCN ở một số nước
Đơng Âu và Liên Xơ. Từ đó cho thấy mơ hình CNXH kiểu cũ khơng cịn thích
hợp, cần có sự thay đổi cho phù hợp với nhu cầu khách quan, nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội nhận định
năn năm qua là một chặng đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta.
19



Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những
thuận lợi cơ bản nhưng cũng có nhiều mặt phức tạp, khó khăn.
Từ thực tiễn cách mạng đó, Đại Hội VI nêu ra những bài học kinh
nghiệm :
Một là, trong hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy
dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ cuat nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một
Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.
Trong dự thảo NQ HN TƯ 7/ Tháng 8 – 1989, Đảng ta đánh giá quan hệ
chính trị trên thế giới : Trên thế giới, vài năm gần đây, hình thức đối thoại, đàm
phán ngàu càng mở rộng. Nhiều cuộc họp cấp cao Xô – Mỹ để bàn về các vấn đề
giảm vũ khí hạt nhân và nhiều vấn đề khác. Nhiều cuộc gặp gỡ giữa các nguyên
thủ của Liên Xô với các nguyên thủ nhiều nước phương Tây. Hoặc ở một số
nước, số khu vực, có những cuộc đàm phán để giải quyết các xung đột. Đó là sự
thật, nhưng từ đó có một số Đảng đi tới nhận định khái quát : ngày nay thế giới
đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Trong Đảng ta, cũng có người nhận định
như vậy. Đảng ta cho rằng quan điểm đó khơng đúng, bởi vì trên thế giới, cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai hệ thống XHCN và TBCN đang diễn ra rất
phức tạp và quyết liệt. Bọn đế quốc chưa bao giờ từ bỏ mưu đồ chống phá và
tiêu diệt CNXH, chống phá phong trào giải phóng dân tộc và độc lập xã hội,
chống phá phong trào dân chủ và hịa bình. Chúng vẫn và đang tiến hành chiến
tranh cục bộ qua các tay sai, dùng bạo lực lật đổ, phá hoại về chính trị, kinh tê, tư
tưởng, văn hóa ở nước này hay nước khác. Các dân tộc bị áp bức, lệ thuộc,
GCCN các nước tư bản đang đấu tranh chống CNĐQ, chống giai cấp tư sản,
giành và bảo vệ độc lập dân tộc, dân chủ,CNXH và bảo vệ hịa bình thế giới

bằng nhiều hình thức đấu tranh, một biểu hiện, xu hướng trong quan hệ chính trị
giữa một số nước. Và thực chất của đối thoại cũng là đấu tranh giai cấp gay go,
phức tạp. Cho nên không thể quy kết trạng thái thế giới hiện nay thành công thức
: ngày nay thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Nói như vậy sẽ gây mơ hồ,
thấy bản chất đấu tranh giai cấp. Sử dụng đối thoại, đàm phán như một hình thức
đấu tranh trong những điều kiện nhất định là cần thiết và nên dùng, nhưng khái

20


quát đối thoại thành một xu hướng chính trị chủ yếu trong quan hệ với CNĐQ là
không đúng, gây mơ hồ về cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống.
Trên thế giới, cuộc đấu tranh cho hồ bình, ngăn ngừa chiến tranh ht
nhõn do Liên Xô và Trờn th gii, cuc đấu tranh cho hồ bình, ngăn ngừa
chiến tranh hạt nhân do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đề xướng ngày
càng tập hợp được đông đảo nhân dân thế giới chống bọn đế quốc hiếu chiến
đứng đầu là đế quốc Mỹ. Phong trào bảo vệ độc lập dân tộc và giải phóng dân
tộc tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn tiếp diễn. Sự
kiện nổi lên hiện nay là tình hình cải tổ, cải cách, đổi mới ở nhiều nước xã hội
chủ nghĩa và những âm mưu, hành động của chủ nghĩa đế quốc chống phá
chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị TW lần thứ 8 khóa VI ngày 27 – 3 – 1990 về tình hình các
nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp
bách của Đảng ta đã nhấn mạnh : Các nước XHCN đang lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng nhất từ trước tới nay. Ở một số nước, lực
lượng chống chủ nghĩa xã hội đã nắm được chính quyền, đang đưa các nước
đó đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản và công nhân bị suy
yếu nghiêm trọng, đã trở thành phe thiểu số đối lập; có đảng tan rã trong một
thời gian rất ngắn, có đảng bị phân liệt, có đảng chuyển sang khuynh hướng

xã hội dân chủ. Ở một số nước xã hội chủ nghĩa khác, các đảng cộng sản và
cơng nhân vẫn nắm được chính quyền, nhưng đang gặp nhiều khó khăn với
mức độ khác nhau: có nước khủng hoảng diễn ra rất nghiêm trọng, nhiều tổ
chức, đảng phái chống chủ nghĩa xã hội ra đời và đang ráo riết hoạt động, tình
hình xã hội rối ren, các cuộc xung đột dân tộc, biểu tình, bãi cơng diễn ra liên
tiếp; có nước, tuy chưa diễn ra những rối ren lớn về chính trị, nhưng có nhiều
nhân tố khơng ổn định; có nước vẫn giữ được sự ổn định về chính trị, thu
được những thành tựu quan trọng trong đổi mới, nhưng vẫn chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Cuộc khủng hoảng hiện nay ở các nước xã hội chủ nghĩa đang tác
động tiêu cực tới phong trào cách mạng thế giới, làm cho so sánh lực lượng
trên thế giới về nhiều mặt, trong đó có thế cân bằng chiến lược về quân sự,
thay đổi bất lợi cho cách mạng.
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ,
cuốn hút tất cả các nước với những mức độ khác nhau. Chỉ từ vài thập kỷ lại
đây đã xuất hiện nhiều cuộc bùng nổ khoa học - kỹ thuật làm đảo lộn nền sản
21


xuất hiện đại. Sự xuất hiện của một nền công nghệ mới có tác dụng to lớn đối
với sự phát triển của các lực lượng sản xuất xã hội, dẫn đến sự thay đổi cơ cấu
kinh tế của nhiều quốc gia, thúc đẩy mạnh q trình phân cơng lao động và
giao lưu quốc tế. Bước tiến phi thường của khoa học - kỹ thuật đánh dấu đỉnh
cao mới của sự phát triển trí tuệ lồi người, mở ra một nền văn minh mới, có
ảnh hưởng sâu sắc đối với cuộc sống của các dân tộc.
Hồ bình, hồ hỗn, quốc tế hố kinh tế, chuyển giao cơng nghệ, trao
đổi văn hố, thông tin trở thành xu thế chung và là một thời cơ lớn đối với các
nước đang phát triển.
Bức tranh toàn cảnh của thế giới thật là phức tạp và đầy mâu thuẫn giữa
đối lập và thống nhất, đấu tranh và hợp tác, hồ hỗn và đối đầu. Nội dung cơ

bản của thời đại chúng ta vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là một thời đại lịch sử lâu dài trải qua
nhiều thế hệ, qua nhiều thế kỷ đấu tranh. Hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ
nghĩa nhất định sẽ thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là
quy luật phát triển tất yếu của lịch sử.
Trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn, chúng ta cần tranh thủ
thời gian, phấn đấu rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước phát
triển. Chấp nhận thách thức, nắm lấy thời cơ, vươn lên kịp bước tiến chung
của các dân tộc và của thời đại - đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
Tồn cầu hóa là xu thế phát triển chính của thời đại ngày nay
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về
thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã khơng ngừng bổ sung, phát triển, hồn
thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của
công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam trong đó, vấn đề tồn cầu
hóa ln được đặt lên vị trí hàng đầu trong chính sách phát triển đất nước thời
kỳ quá độ ở nước ta.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
tại Đại Hội VII, Đảng ta cũng khẳng định :
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là nhằm mục tiêu tranh
thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời góp phần vào sự nghiệp hồ bình và cách mạng của nhân dân thế
giới. Hồn cảnh quốc tế hiện nay rất phức tạp, đồng thời có những thuận lợi
để nhân dân ta thực hiện mục tiêu nói trên.

22


Đảng và Nhà nước ta tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ và đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết

hợp lợi ích dân tộc chính đáng với lợi ích chung của nhân dân thế giới, gắn
liền chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Việt Nam mong muốn mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị và giúp đỡ
lẫn nhau với các nước đang phát triển ở châu á - Thái Bình Dương, châu Phi
và Mỹ latinh nhằm khắc phục nghèo nàn lạc hậu, bảo vệ lợi ích chính đáng về
chính trị và kinh tế. Chúng ta đặc biệt coi trọng việc phát triển quan hệ với
các nước Đông Nam á, xây dựng khu vực này thành khu vực hồ bình, ổn
định, tự do và trung lập. Việt Nam tiếp tục hoạt động tích cực trong Phong
trào khơng liên kết vì mục tiêu cao cả chung là hồ bình, độc lập dân tộc và
phát triển. Việt Nam sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác
với tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên
cơ sở năm nguyên tắc cùng tồn tại hồ bình, tơn trọng độc lập, chủ quyền,
khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực và đe doạ
dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, mở rộng đến mức cao nhất có thể được sự
hợp tác bình đẳng, cùng có lợi.
Trong quan hệ quốc tế, hịa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày
càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Các
nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết
định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia; tham gia ngày
càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế,
thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Hợp tác ngày càng tăng nhưng
cạnh tranh cũng rất gay gắt.
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, đấu tranh chống lại sự áp
đặt và can thiệp của nước ngồi, bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Các lực lượng
xã hội chủ nghĩa, cách mạng và tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nước có chế độ chính trị
xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình.
Tồn cầu hóa tác động đối với Việt Nam
Việt Nam là nước đang phát triển, nhờ q trình tồn cầu hóa, chúng ta
có lợi thế của nước đi sau để đi tắt, đón đầu trong một số lĩnh vực kỹ thuật,

cơng nghệ. Chúng ta có điều kiện thuận lợi để mở rộng thương mại quốc tế,
thu hút đầu tư và nguồn lực bên ngoài nhằm phát triển các ngành sản xuất mà
ta có lợi thế, qua đó, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tồn cầu hóa,
23


đặc biệt là tồn cầu hóa kinh tế, một mặt, tạo cơ hội cho những tổ chức, cá
nhân có năng lực phát huy được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích cho cá
nhân và cho cả xã hội. Nhưng mặt khác, tồn cầu hóa kinh tế cũng đem đến tác
động tiêu cực trong phát triển kinh tế. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế lợi nhuận
lên trên hết, do đó mà một số tổ chức, cá nhân làm giàu bất chính bằng bất cứ
giá nào. Điều đó góp phần làm băng họai nền đạo đức xã hội, làm cho quan hệ
giữa người với người trở nên lạnh lùng, xa lạ, khơng tình, khơng nghĩa và đây
thực sự là một nguy cơ của sự suy thóai đạo đức, lối sống con người Việt Nam
hiện nay.
Ngoài những tác động về kinh tế, tồn cầu hóa cịn tác động tích cực
đến sự phát triển văn hóa. Do tác động của tồn cầu hóa và chính sách mở cửa
của Đảng và Nhà nước ta, trình độ dân trí được nâng cao rõ rệt. Nhờ tiếp thu
những thành tựu công nghệ, thông tin, chúng ta có thể tiếp cận với nbơuồn tri
thức khổng lồ, cập nhật được nhiều thơng tin mới về tình hình thế giới. Cũng
qua đó, ý thức chính trị về các vấn đề trong nước và trên thế giới cũng được
nâng cao. Nhờ q trình tồn cầu hóa dân tộc ta hiểu biết hơn các dân tộc trên
thế giới, bổ sung và làm giàu nền văn hóa của dân tộc mình. Cũng thơng qua
mở cửa, hội nhập, cạnh tranh quốc tế, con người Việt Nam trở nên năng động
hơn. Trong bối cảnh mới, nhiều người Việt Nam đã thay đổi lối sống của
mình, từ cuộc sống có phần khép kín, thiếu năng động sang cuộc sống cởi mở
hơn, năng động hơn và hiện đại hơn.
Những thay đổi trong đời sống kinh tế văn hóa, tinh thần theo hướng
ngày càng tất đẹp hơn làm người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới, hội

nhập kinh tế quốc tế của Đảng đề ra là đúng đắn, theo kịp trào lưu của thời
đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, cải
thiện đời sống nhân dân, đưa nước ta lên một vị trí xứng đáng trên trường
quốc tế.
Tuy nhiên, tồn cầu hóa đã gây ảnh hưởng khơng nhỏ tới lối sống và
những giá trị đạo đức của người Việt Nam. Những sản phẩm văn hóa độc hại
từ nước ngồi đưa vào nước ta đã tác động tiêu cực tới đời sống tinh thần, văn
hóa của một bộ phận nhân dân. ảnh hưởng của lối sống thực dụng đã làm xuất
hiện tâm lý chạy theo đồng tiền, coi tiền là trên hết, không cần biết đến đạo lý
phải trái, đánh mất nhân cách và nhân tính. Khơng ít trường hợp vì tiền và
danh lợi mà chà đạp lên tình đồng chí, đồng nghiệp, bạn bè, tình nghĩa gia

24


đình, quan hệ thầy trị. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy án đã
trở nên khá phổ biến.
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “ Tệ
sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối
sống thực đụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân
tộc. Khơng ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa
gia đình, quan hệ thầy trị, đồng chí, đồng nghiệp”.
Lối sống thực dụng, vị kỷ đang dẫn đến thái độ bàng quan, thờ ơ với
công việc của cộng đồng và với những người xung quanh. Điều đó làm cho
mối dây liên kết giữa cá nhân và cộng đồng, giữa người và người trở nên lỏng
lẻo. Đây thực sự là nguy cơ của việc đẩy xa nhau giữa con người với con
người, đi ngược lại với truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc.
Một trong những tác động tích cực của tồn cầu hóa là việc soi chiếu
các giá trị đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá nhân. Nhưng cũng
chính mặt tích cực này khi bị con người đẩy lên quá mức sẽ trở thành tiêu

cực. Ý thức đề cao cá nhân, một khi bị tuyệt đối hóa sẽ dẫn đến việc cái cá
nhân lấn át cái cộng đồng. Điều đó dẫn đến việc đặt lợi ích cá nhân lên trên
lợi ích xã hội, coi lợi ích cá nhân là trên hết, lúc đó, lợi ích tập thể sẽ bị lấn át,
thậm chí bị phế bỏ, từ đó mà tham nhũng, lãng phí ngày càng có cơ hội gia
tăng: Tham nhũng, lãng phí làm tha hóa phẩm chất đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm nảy sinh nhiều vấn đề
xã hội bức xúc, làm cho nhân dân lo lắng, bất bình và nguy hiểm hơn, đó là
làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Như vậy, có thể thấy, những hiện tượng tiêu cực diễn ra trong đời sống
xã hội Việt Nam như phân tích ở trên là biểu hiện của sự xa rời những chuẩn
mực đạo đức truyền thống, những chuẩn mực vẫn còn giá trị trong xã hội hiện
đại. Một khi những chuẩn mực đó khơng được giữ vững như là định hướng
trong họat động của con người thì sự suy thối là điều khơng tránh khỏi. Vì
vậy, việc giữ vững định hướng chính trị và định hướng giá trị tinh thần trong
thực tiễn xây dựng đất nước, cũng như trong họat động thực tiễn đạo đức là
yêu cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn sự suy thóai và nguy cơ suy thóai
đạo đức, lối sống con người Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.
2.3.2. Định hướng phát triển đất nước trong điều kiện phức tạp của
thời đại ngày nay
Trong phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong
5 năm 1986-1990 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản
25


×