Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận cao học đặc điểm của báo chí việt nam thời kỳ chống mỹ 1955 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.9 KB, 17 trang )

Đặc điểm của Báo chí Việt Nam thời kỳ kháng chiến
chống mỹ (1955 - 1975)

I. Mở đầu:
Đà 34 năm qua ®i kĨ tõ ngµy ®Êt níc ta ®øng dËy tõ 2
cuộc chiến tranh tàn khốc. Nhng những dấu tích đau thơng
vẫn còn hằn sâu trên từng thớ thịt của quê hơng. Trong đó
hai thập kỉ chống Mỹ cứu nớc (1954 - 1975) là những tháng
ngày chia cắt gian khổ, đau thơng nhất của dân tộc và
cũng là những tháng ngày cả nớc ta đoàn kết một lòng đấu
tranh quyết liệt nhất với quân thù. Miền Nam là chiến trờng
thì vật lộn giành giữ từng tấc đất của quê hơnẳnTong khi
đó thì miền Bắc hăng say lao động xây dựng chủ nghĩa
xà hội và là hậu phơng vững chắc cho chiến trờng miền
Nam. Cha bao giờ những chuyến xe chở lơng thực và vũ khí,
quân trang, quân dụng lại đi lại nô nức trong bom đạn của
quân thù nh thế. Cũng cha bao giờ báo chí của hai miền Nam
Bắc lại đoàn kết, gắn bó bất chấp sự kiểm duyệt bắt bớ
gắt gao của kẻ thù nh thế. Vì báo chí cách mạng không đứng
ngoài cuộc với đất nớc và nhân dân. Đặc biệt, báo chí chống
Mỹ giai đoạn 1954 1975 lại chứa đựng một thực tiễn quá
khứ phức tạp và một giai đoạn đặc biệt của lịch sử dân tộc.
Chúng ta cần nhìn lại để rút ra những bài học xơng máu
cho công việc làm báo và quản lý báo chí. Những bài học cha
bao giờ hết ý nghĩa trong tiến trình của một nền báo chí
cách mạng không ngừng của nớc ta.
II. Khái quát về 84 báo chí cách mạng Việt Nam và
vị trí của báo chí giai đoạn chống Mỹ
1



1. Phác hoạ một chặng đờng 84 báo chí cách mạng
Việt Nam.
Kể từ khi số 1 của tờ báo Thanh niên

ra đời ngày

21/6/1925, đánh dấu bớc ngoặt trong lịch sử b¸o chÝ ViƯt
Nam, khai sinh ra nỊn b¸o chÝ c¸ch mạng, một nền báo chí
lấy chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa xà hội làm ánh sáng
chỉ đờng, lấy mục đích giải phóng dân tộc, tự do, hạnh
phúc của nhân dân, sự giàu mạnh phồn vinh của đất nớc làm
lí tởng phấn đấu - đến nay đà đợc 84 năm.
Có thể nói, báo chí cách mạng Việt Nam ra đời do nhu
cầu tất yếu và cấp bách của cuộc cách mạng nhằm giải phóng
dân tộc khỏi ách ngoại xâm và sự đô hộ của đế quốc,
phong kiến, mang lại tự do hoà bình, cơm no áo ấm cho
nhân dân. Vì thế, báo chí cách mạng đà đồng hành với lịch
sử dân tộc hơn 80 năm qua và trở thành một bộ phận gắn
bó hữu cơ, không thể tách rời với sự nghiệp đấu tranh hào
hùng ấy của dân tộc. Với tiến trình song song cùng lịch sử
dân tộc ấy, ta có thể chia hơn 80 năm lịch sử báo chí cách
mạng Việt Nam ra làm 5 thời kỳ:
- Thời kỳ vận động thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
- Thêi kú 1930 – 1945
- Thêi kú kh¸ng chiÕn chèng Ph¸p 1945 – 1954
- Thêi kú chiÕn tranh chèng Mü cứu nớc và xây dựng chủ
nghĩa xà hội ở miền Bắc 1955 1975.
- Thời kỳ 1976 đến nay.
Trong đó, báo chí chống Mỹ đà chứa đựng trong mình
một giai đoạn chia cắt đau thơng về địa lý nhng gắn bã

2


sắt son ruột thịt về tinh thần của dân tộc ta giữa hai miền
Nam Bắc. Bất chấp ma bom bÃo đạn, bất chấp sự bắt bớ,
chém giết, gông xiềng của quân địch, báo chí cách mạng
vẫn cùng cả dân tộc vùng đứng lên, phản kháng đấu tranh
bằng mọi cách, lăn xả và quyết liệt cha từng có. Sức mạnh ấy
có đợc là nhờ cả một quá trình nén chịu và tôi rèn trớc đó
mà chúng ta phải tính đến từ buổi khai sinh báo chí cách
mạng Việt Nam.
+ Buổi đầu hoạt động, báo chí cách mạng Việt nam
thời kỳ vận động thành lập Đảng 1925 1930 ra đời và hoạt
động trong hoàn cảnh rất khó khăn. Bọn thực dân xâm lợc
cấu kết với bộ máy phong kiến thiết lập một hệ thống cai trị
xà hội khắc nghiệt, đàn áp không thơng tiếc mọi mầm mống
cách mạng đe doạ sự thống trị của chúng. Những tổ chức
cách mạng ở nớc ngoài đà xuất bản một loạt tờ báo nh: Thanh
niên, Đỏ, Công Nông, Lính Kách Mệnh, Đồng Thanh, Thân ái.
ở trong nớc, trong điều kiện vô cùng khó khăn nguy hiểm do
sự kiểm duyệt, đàn áp, bắt bớ của chính quyền thực dân
và tay sai, nhiều tờ báo của các tổ chức cách mạng vẫn đợc
xuất bản và bí mật lu hành: Búa Liềm, Cờ Cộng sản, Nhân
loại của Đông Dơng Cộng sản Đảng, Cờ đỏ của An Nam Cộng
sản Đảng, Sao đỏ ở Hải Phòng, Mỏ than ở Hồng Quảng, Tia
sáng ở Nam Định, Bôn-sê-vích ở Trung Kỳ. Những tờ báo này
không chỉ mang đến cho một bộ phận quần chúng cách
mạng những hiểu biết cơ bản nhất về chủ nghĩa Mác
Lênin, về con đờng giải phóng dân tộc, mà nó còn mang
đến cho những ngời dân nô lệ một niềm tin sự động viên


3


to lớn để lựa chọn, dấn thân vào con đờng cách mạng, con
đờng đấu tranh giải phóng cho mình.
Tờ báo có ý nghĩa đó quan trọng trong thời kỳ này là tờ
Thanh niên do Nguyễn ái Quốc sáng lập, trực tiếp viết bài,
biên tập và tổ chức in ấn. Tờ Thanh Niên đợc coi là cơ quan
của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội một tổ
chức cách mạng tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam. Đồng
thời Thanh niên cũng là tờ báo khai sinh ra nền báo chí cách
mạng Việt Nam. Báo Thanh niên trở thành tờ báo đầu tiên
của những ngời làm cách mạng, xuất bản bằng chữ quốc
ngữ, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và t tởng cách mạng
giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Báo Thanh niên còn đóng
vai trò là một trờng học, đào tạo những cán bộ cách mạng để
đa về nớc, vận động quần chúng, giáo dục, chuẩn bị lực lợng
tiến hành thành lập Đảng cộng sản.
+ Bớc sang những năm 1930 1946, cao trào vận động
cách mạng thì báo chí cách mạng đà trở thành một mặt trận
hết sức sôi động và quyết liệt. Gắn bó chặt chẽ với những
cao trào vận động cách mạng liên tiếp diễn ra: Xô Viết Nghệ
Tĩnh (1930 - 1931), Mặt trận dân chủ (1936 - 1939), Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền từ tay Nhật Pháp (1941 1945) thì báo chí cách mạng lúc này trở thành một công cụ
tuyên truyền vận động đắc lực. Trong cao trào 1930 1931,
các tổ chức của Đảng cộng sản Đông Dơng đều xuất bản báo
để tuyên truyền vận động cách mạng. Các tờ báo này đều
đợc xuất bản dới hình thức rất thô sơ, chủ yếu là viết tay in
giấy sáp, hoặc in thạch và lu hành trong hình thức bí mật.

Đến cao trào mặt trận dân chủ, Đảng đà chớp lấy thời c¬, tỉ
4


chức ra báo công khai hoặc đa cán bộ tham gia làm các báo
để tranh thủ khả năng mở rộng quy mô tác động và quần
chúng nhân dân, tuyên truyền vận động lực lợng cách mạng.
Các tổ chức Đảng ở các địa phơng đà trực tiếp tổ chức ra
các báo: Travaille, Peuple, Dân chúng, Tin tức, đời nay, Dân,
Dân tiến, Ngày mới, Nhành lúa...
Khi Nguyễn ái Quốc về nớc, mùa xuân năm 1941. Một
trong những việc làm đầu tiên của Ngời là ra tờ báo Việt
Nam độc lập cơ quan tuyên truyền vận động cách mạng và
tờ báo Việt Nam độc lập trở thành cơ quan của mặt trận
Việt minh ba tỉnh Cao Bắc Lạng. Cùng với Việt Nam độc
lập còn có tạp chí cộng sản, báo giải phóng, cờ giải phóng,
cứu quốc, lao động bẻ xiềng xích Hệ thống báo chí Việt
Nam thời kỳ này đà truyền bá những t tởng của cách mạng
giải phóng, cổ vũ, động viên lòng yêu nớc, căm thù giặc và
góp phần tổ chức quần chúng cách mạng, chuẩn bị cho cuộc
cách mạng tháng 8/1945 thắng lợi.
Bên cạnh đó, thời kỳ này còn xuất hiện tờ báo trong tù.
Hầu nh ở nhà tù nào, các chiến sỹ cộng sản cách mạng yêu nớc
cũng tìm cách để ra đợc báo. Mặc dù phạm vi lu hành hạn
hẹp trong các bức tờng nhà tù đế quốc, thực dân nhng
những tờ báo này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
nâng cao nhận thức củng cố ý chí và niềm tin, giữ vững
tinh thần chiến đấu cho những cán bộ cách mạng bị tù đầy.
Đây là giai đoạn cuối cùng của nền Báo chí thuộc địa,
là giai đoạn mà báo chí cách mạng đạt con số 400 tờ (1939).

Tuy nhiên con số này giảm dần khi quân Nhật tràn vào, đến
1945 chỉ còn kho¶ng 200 tê.
5


+ Sau cách mạng tháng 8/1945, chính quyền cách mạng
non trẻ Việt Nam phải đơng đầu với nhiều khó khăn, thử
thách, thiên tai, địch hoạ, giặc đói giặc dốt Tuy nhiên, với
thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng 8, chính quyền về tay
nhân dân và báo chí có thời cơ phát triển mới, chế độ mới,
nền độc lập tự do cùng những nhiệm vụ mới mẻ của cách
mạng đặt ra, báo chí cũng phải gánh vác những trách nhiệm
mới nặng nề hơn, tầm hoạt động mới rộng lớn hơn. Sự ra đời
của Đài phát thanh (7/9/1945) và Thông tấn xà Việt Nam
(1946) đà mang lại không chỉ diện mạo mà cả chất lợng hoạt
động mới cho hệ thống báo chí cách mạng. Và cả hệ thống
báo chí ấy đà lên đờng đi kháng chiến, tới các chiến khu trở
thành nguồn thông tin chính yếu, nguồn động viên cổ vũ
mạnh mẽ, vị khÝ tỉ chøc thùc hiƯn

c¸c nhiƯm vơ kh¸ng

chiÕn. ChÝnh trong thử thách khắc nghiệt của kháng chiến,
một loạt các cơ quan báo chí mới đà ra đời: Sự thật, Nhân
dân, Văn nghệ, Quân đội nhân dân, Đài tiếng nói Nam Bộ,
báo nhân dân Miền Nam Bằng trí tuệ, tài năng, lòng yêu
nớc và cả máu và mồ hôi, những ngời làm báo kháng chiến đÃ
hoàn thành trách nhiệm của mình, đóng góp xứng đáng
vào chiến thắng chung của cả dân tộc - đánh bật thực dân
xâm lợc Pháp và bọn can thiệp Mỹ, làm nên một Điện Biên Phủ

lẫy lừng năm châu, chấn động địa cầu.
+ Bớc sang thời kỳ 1955 1975, báo chí cách mạng đà có
những cơ hội thuận lợi hơn để phát triển nhng cũng phải
đối mặt với những khó khăn, thử thách vô cùng khắc nghiệt.
Miền Bắc giải phóng bớc vào thời kỳ xây dùng chđ nghÜa x·
héi nhng cha hÕt kÕ ho¹ch 5 năm lần thứ nhất đà phải đối

6


mặt với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải
quân của đế quốc Mỹ với mức độ ác liệt và dà man cha từng
thấy trong lịch sử chiến tranh. Mét nưa tỉ qc – miỊn Nam
– n»m díi sù đô hộ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nớc.
Dới sự lÃnh đạo của Đảng, cả nớc đồng thời thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lợc là xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xà hội ở
miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc xâm lợc giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Vào thời điểm trớc thềm Đại hội lần thứ ba Hội nhà báo
Việt Nam (1962) riêng miền Bắc đà có 1500 nhà báo làm
việc trong khoảng 120 cơ quan báo chí các loại. Báo chí thời
kỳ này đà thực sự trở thành động lực góp phần to lớn tạo
dựng và tổ chức những phong trào thi đua, những cuộc vận
động rầm rộ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm
thực hiện các nhiệm vụ chính trị nh: Sóng Duyên hải, Giờ Đại
Phong, Cờ Ba Nhất,

Thanh niên ba sẵn sàng, Phụ nữ ba

đảm đang.... Những tấm gơng điển hình trong lao động,

chiến đấu đợc báo chí tuyên truyền, kết quả thành những
biểu tợng có sức động viên, cổ vũ mạnh mẽ.
Báo chí cách mạng miền Nam nh Báo chí tiền phơng
đà bám sát thực tế chiến đấu, có mặt ngay tại các chiến
hào, tại các mặt trận ác liệt nhất, phản ánh sinh động, kịp
thời cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào, chiến sĩ ta. Các
nhà báo tiền phơng thực sự là những chiến sĩ ra trận, vừa
cầm súng, vừa cầm bút cầm máy ảnh, máy quay phim, đóng
góp xứng đáng vào chiến thắng chung của dân téc trong
chiÕn dÞch Hå ChÝ Minh lÞch sư.

7


+ Sau năm 1975 Tổ quốc thống nhất, non sông thu về
một mối, báo chí cách mạng Việt Nam cũng đợc hởng niềm
vui thống nhất, lần đầu tiên trở thành nền báo chí duy nhất
của nớc Việt Nam dân chủ, tự do dới sự lÃnh đạo của Đảng và
sự quản lý của miền Nam. Trên cơ sở là một nền báo chí cách
mạng có bề dày chống ngoại xâm, với những kinh nghiệm xơng máu của cha ông và những nhiệm vụ mới đặt ra trớc
cuộc sống mới miền Bắc Việt Nam vẫn không ngừng là
những miền Bắc cách mạng. Trên mặt trận chống tiêu cực,
họ vẫn nh những ngời chiến sĩ tiên phong, sẵn sàng dũng
cảm vạch trần và tiêu diệt cái xấu, gióng lên tiếng chuông
cảnh tỉnh giáo dục nhân dân.
Trong suốt chặng đờng 84 năm của cách mạng cách
mạng, gian khổ mà hào hùng đáng kể ra không thể thiếu báo
chí giai đoạn chống Mỹ ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa
xà hội ở miền Bắc (1955 - 1975). Đây là giai đoạn lịch sử
phức tạp, chứa đựng nỗi đau chia cắt và đánh dấu một

chặng đờng đấu tranh gian khổ mà quyết liệt, anh hùng
của dân tộc ta. Tuy nhiên những nghiên cứu về báo chí giai
đoạn này còn rất ít. Nên đòi hỏi một bề dày kiến thức và
kinh nghiệm sống vô cùng sâu sắc. Nên để tìm hiểu về
giai đoạn này ở đây chúng ta chỉ đề cập đến những nét
phác thảo sơ lợc nhất những mắt xích lịch sử tiêu biểu mà
cha ông ta đà kì công tạo nên trong giai đoạn nay.
2. Báo chí chống Mỹ cứu nớc (1957 - 1975)
1954 1975 là một giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt
Nam, gắn liền với sự kiện cơ bản - đất nớc bị chia cắt, hình
thành các thể chế chính trị và các lực lợng xà hội khác nhau.
8


Theo đó, dòng chảy của đời sống báo chí Việt Nam đà có
một bớc ngoặt quan trọng và rõ rệt hơn các giai đoạn trớc
đó, nớc có sự phân nhánh thích ứng một bối cảnh chính trị
xà hội thực tế.
Nhìn chung có 2 khu vực lớn của báo chí thời kỳ này:
Báo chí miền Bắc và báo chí miền Nam.
2.1. Báo chí miền Bắc.
Đội ngũ nhà báo đợc hình thành từ hai nguồn: những
nhà báo đà trải qua kháng chiến thực dân Pháp và những
nhà báo thế hệ mới. Có cơ sở đào tạo báo chí chuyên nghiệp.
Từ những năm 1960, đội ngũ này và các phơng tiện làm báo
còn đợc chi viện cho báo chí cách mạng miền Nam. Hội nhà
báo đợc tổ chức lại chính quy hơn và t tởng giữ vai trò một
thành viên của OIJ.
- Báo chí ở miền Bắc thời kỳ này phát triển mạnh: các tờ
báo từ chiến khu đa về xuất bản tại Hà Nội và vẫn giữ vai trò

chủ đạo, một số tờ báo t nhân đợc cải tạo vào năm 1960 xuất
hiện nhiều tờ báo mới đáp ứng nhu cầu của đời sống và dân
trí (khoảng 50 tờ báo và bản tin địa phơng, 50 tờ báo và tập
san của các ngành, 24 tờ báo của các tổ chức xà hội những
con số này ngày càng tăng).
- Các cơ quan truyền thông khác đà có sẵn đợc phát
triển theo quy mô lớn và hiện đạt hơn. Đài Tiếng nói Việt
Nam và hệ thống đài địa phơng, khu vực Việt Nam Thông
tấn xà và các phân xà ở khắp nớc và nớc ngoài. Năm 1970 Đài
tiếng nói Việt Nam ra đời.

9


Quan hệ quốc tế đợc mở rộng: có báo chí đối ngoại, các
nhà báo và các hÃng thông tấn lớn trên thế giới có mặt tại Hà
Nội
Báo chí chuyển từ thời bình sang thời chiến từ năm
1964, mang theo những bài học kinh nghiệm của một nền
báo chí chiến đấu và xây dựng.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, nhờ có nửa nớc phía
Bắc đợc giải phóng và thực hiện công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xà hội, trình độ học vấn của nhân dân ta đà đợc
nâng cao nhanh chóng. Vốn là một dân tộc hiếu học, chúng
ta nhanh chóng xoá nạn mù chữ, bổ túc văn hoá và các lứa
tuổi đến trờng đều đợc nhập học. Phần lớn nhiều chiến sĩ
cách mạng đều là những cậu tú, những cô, cậu sinh viên cử
nhân tòng quân ra trận. Nh vậy, công chúng đông đảo của
báo chí cách mạng không chỉ mang tầm cao trí tuệ từ ý chí
căm thù giặc và nguyện vọng nung nấu giải phóng miền

Nam, thống nhất Tổ quốc mà cả tầm cao trí tuệ từ học vấn,
kiến thức lịch sử, văn hoá, khoa học kỹ thuật. Những ngời
làm báo thời kỳ này, ngời cũ thì dày dạn kinh nghiệm hơn lới
ngời mới đông đảo thì đợc đào tạo bài bản hơn, phơng tiện
vật chất và cơ sở kỹ thuật cho báo chí, phát thanh và thông
tấn cũng đạt tới trình độ tơng ứng. Nội dung và thể loại trên
báo chí và phát thanh cũng đa dạng hơn, nhanh nhạy hơn,
thông tin không còn là những thông tin phát chậm cả tuẩn, cả
tháng mà đà chuyển sang th«ng tin nhanh tõng phót, tõng
giê. Quan hƯ cđa báo giới và công chúng đà có bớc phát triển
mới. Công chúng không chỉ thụ động nghe và làm theo báo.
Họ đà đặt ra yêu cầu cao hơn, những đòi hỏi nghiêm khắc
10


hơn với báo chí. ĐÃ cò nhiều th bạn đọc phê bình những
thông tin thiếu chuẩn xác. Họ đà phê phán báo chí trong khi
tố cáo tội ác Mỹ, Nguỵ ở miền Nam có những bài viết gieo bi
luỵ cha đủ sức động viên căm thù để tổ chức thành phong
trào hành động miền Nam ruột thịt. Trong khi hởng ứng
phong trào thi đua: Sóng Duyên hải, Gió đại dơng, Cờ Ba
Nhất, Trống Bắc ký Nhiều bạn đọc đà phát hiện những
nhân tố mới không kém tiêu biểu nh là tấm gơng khai thác
hầm lò ở Quảng ninh, những tổ sản xuất xi măng ở Hải
Phòng, những nữ anh hùng lao động trong ngành dệt ở Nam
Định, những tấm gơng trong khôi phục đờng sắt, những
sáng kiến của cán bộ và giáo viên của trờng học kiểu mới ở
Hoà Bình. Nếu công chúng nhiệt liệt hởng ứng phong trào
ba sẵn sàng, ba đảm đang và cuộc vận động thi đua đạt
chỉ tiêu 5 tấn thóc trên 1ha thì không ít th gửi về toà soạn

nhắc nhở báo chí phải đi sâu đi sát, không viết tin theo
báo cáo. Họ cũng nhắc nhở đến tình trạng quan liêu, thiếu
công tâm và báo cáo không đúng sự thật về những diễn
biến tình hình ở cơ sở. Đơng nhiên, nổi lên hơn cả là
những bài viết, những thông tin phản ánh và bổ sung thêm
những thành tích, những nỗ lực của nhiều cá nhân, tập thể
trong sản xuất, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Có khối lợng đồ sộ th từ, bài vở, hình ảnh và cả những tập trờng ca
khi những tấm gơng Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý, những
cuộc đấu tranh trong các nhà tù của Mỹ, Nguỵ đợc thông tin
trên mặt báo và sóng phát thanh. Những phản hồi từ công
chúng về báo chí không chỉ là nguồn động viên mà còn là
những bài học thiết thực để cho những ngời làm báo và cơ

11


quan báo chí phấn đấu tự nâng cao hoàn thiện mình cho
phù hợp. Trong những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến
tranh đó trong cuộc chiến đấu 12 ngày đêm của Thủ đô Hà
Nội chống máy bay Mỹ và chiến cuộc mùa xuân năm 1975,
công chúng hay nói đúng hơn là nhân dân, quân đội và
báo chí đà kết lại làm một. Có thể nói trong lịch sử cha hề
diễn ra hiện tợng gần gũi, gắn bó giữa nhân dân quân đội
và báo chí hơn thời kỳ này. Từ ngời dân bình thờng đến ngời chiến sĩ từng giờ từng phút dõi theo những thông tin từ
các cơ quan báo chí. Nhiều chục năm qua, hàng trăm nhà báo
vẫn giữ mÃi niềm cảm xúc và biết ơn đối với nhân dân và
quân đội, luôn dành cho họ những u đÃi, ®iỊu kiƯn tèt nhÊt
®Ĩ hä cã thĨ cïng song hµnh với những đội quân đi đầu
kịp thời vào viết bài, chụp ảnh, quay phim những diễn biến
ở Sài Gòn trong ngày 30/4/1975.

2.2. Đặc điểm của báo chí miền Nam
Nhìn đại thĨ, cã hai khu vùc b¸o chÝ cđa thêi kú này:
báo chí miền Bắc và báo chí miền Nam. Tuy nhiên, sự phân
chia mang tính lịch sử độc đáo và phức tạp lại thể hiện rõ
nhất ở báo chí miền Nam. Báo chí khu vực này lại tiếp tục đợc phân nhánh thành hai khu vực nhỏ.
+ Báo chí cách mạng miền Nam: có mối quan hệ chặt
chẽ với báo chí chủ nghĩa xà hội ở miền Bắc và báo chí yêu
nớc tiến bộ trong thành phố.
+ Báo chí Sài Gòn: gồm có bộ phận công khai là báo chí
của chính quyền Nguỵ, và bộ phận bí mật là báo chí yêu nớc
toàn bộ.

12


Có thể nói, dù phân nhánh khá phức tạp nhng mạng lới
báo chí cách mạng miền Nam vẫn giăng mắc, len lỏi vào mọi
ngõ ngách của đời sống Sài Gòn. Báo chí trở thành chiến trờng và mỗi nhà báo là một chiến sĩ thực thụ trên chiến trờng
ấy.
2.2.1. Đặc điểm báo chí cách mạng miền Nam
Đội ngũ nhà báo đợc hình thành từ nhiều nguồn. Đó là
các nhà báo đà trải qua kháng chiến thực dân Pháp, các nhà
báo đợc đào tạo tại chỗ, lực lợng nhà báo đợc chi viện từ miền
Bắc và một số nhà báo từ các đô thị đi theo cách mạng. Họ
tác nghiệp trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nguy hiểm
nh mọi nhà báo chiến tranh nhng báo chí đà nhanh chóng có
mặt ở mọi nơi. Từ những năm đầu 1960, khoảng 40 bản tin
của các địa phơng in bằng 4 thứ tiếng Pháp, Anh, Trung
Quốc và Khơme. Xuất hiện các cơ quan thông tin mới: Thông
tấn xà giải phóng (L.P.A) ra đời năm 1961; Đài phát thanh giải

phóng 1962 (một Đài nữa đặt trên đất Bắc) ngoài ra còn có
vai trò của hÃng phim Giải Phóng. Báo chí cách mạng miền
Nam lúc này đợc xây dựng theo mô hình báo chí miền Bắc
(Nhân dân - Cờ giải phóng, quân đội nhân dân, quân giải
phóng, Phụ nữ Việt Nam - phụ nữ giải phóng) Hơn thế nữa
báo chí cách mạng miềnNam còn thiết lập đợc mối quan hệ
với báo chí quốc tế. Tháng 1/1962 Hội nhà báo nớc ngoài đà có
mặt tại căn cứ cách mạng. Có sự giúp đỡ về phơng tiện báo
chí của bè bạn xà hội chủ nghĩa..
Tóm lại, một nền báo chí hình thành và phát triển trong
khói lửa chiến tranh t cách ngời chiến sĩ của những ngời làm
báo, sự gắn bó khăng khít và độc đáo cđa nã víi b¸o chÝ
13


miền Bắc, đó là điểm nổi bật của báo chí cách mạng miền
Nam giai đoạn này.
2.2.2. Đặc điểm của báo chí yêu nớc tiến bộ trong
lòng các đô thị
Bộ phận báo chí này thì có đội ngũ nhà báo đa
dạng. Một số nằm vùng từ thời chống thực dân Pháp, một
số đợc đa vào Sài Gòn theo dạng hồi c (do cách mạng chỉ
đạo), một số hình thành từ các phong trào học sinh sinh
viên yêu nớc, một số vốn có cảm tình với cách mạng và
kháng chiến Cũng có trờng hợp đi thẳng từ Hà Nội vào
(Nguyễn Văn Bổng và tờ Tin Văn, 1967).
Nhiều tờ báo mới đợc xuất bản, nhng chủ yếu là tranh
thủ sử dụng những tờ báo đà có sẵn. Phơng thức hoạt động
của các nhà báo cực kỳ linh hoạt, thích hợp từng thời kỳ (kết
hợp văn báo, mợn các danh nghĩa để hoạt động các phong

trào, các tổ chức) Nội dung báo chí thì luôn bám sát tình
hình chiến tranh và thời cuộc diễn ra sôi động trong lòng
các đô thị, gây thanh thế có lợi cho phong trào cách mạng.
Khôn khéo tranh thủ uy tín của các hÃng thông tấn và các
nhà báo nớc ngoài có mặt ở Sài Gòn trong việc đa tin ra thế
giới. Thành công đáng ghi nhận là suốt 20 năm trong vùng
chiếm đóng, luôn luôn có một phong trào báo chí chống đối
chế độ Mỹ Nguỵ với một lối làm báo sắc sảo và hoàn toàn
thích hợp với hoàn cảnh sống của những ngời làm báo.
2.2.3. Đặc điểm báo chí của chính quyền Sài
Gòn

14


Lực lợng nhà báo nòng cốt lúc đầu là các nhà báo đÃ
từng làm việc cho chính quyền Nguỵ thời Pháp và một số
cây bút di c từ miền Bắc. Về sau, lực lợng này đợc bổ sung
các thế hệ nhà báo trẻ đợc đào tạo bài bản về nghề nghiệp
và quan điểm chống cộng trong nớc và nớc ngoài.
Phơng tiện và điều kiện làm báo của bộ phận này thì
đạt tới mức tối u. Hầu hết các phơng tiện làm báo hiện đại
nhất lúc bấy giờ đều có mặt khá sớm ở Sài Gòn (chẳng hạn,
từ năm 1967 họ đà đợc trang bị máy in ốpsét nhiều màu).
Ngời Mỹ thông qua chính quyền Sài Gòn đà không tiếc tiền
để tung ra hàng loạt tờ báo chống cộng và lôi kéo các nhà
báo, cải tổ hoặc cho ra đời những cơ quan truyền thông
mới: Việt Tấn XÃ, Đài phát thanh Sài Gòn và các đài tâm lý
chiến Truyền hình (1966). Có cả một chính sách với những
hoạch định cụ thể nhằm đa báo chí vào guồng máy chiến

tranh để chống phá. Cách mạng và đàn áp, kiểm soát các
khuynh hớng báo chí tiến bộ, yêu nớc. Báo chí là một bộ phận
không tách rời của chiến tranh tâm lý (các tờ báo và Đài phát
thanh Nguỵ dân tộc, các chiến dịch thông tin đen do CIA
khởi xớng, báo chí trở thành tài liệu tuyên truyền cho các
đoàn cán bộ bình định.) Các hÃng thông tấn và các nhà
báo nớc ngoài thờng xuyên có mặt tại Sài Gòn và trên các mặt
trận, tuy nhiên nhiều ngời trong số họ vẫn giữ đợc thái độ
trung thực và khách quan khi phản ánh bộ mặt chiến tranh
tàn bạo của Mỹ tại miền Nam Việt Nam. (Bộ ảnh chiến tranh
của phóng viên I.Bundo ngời Nhật Bản là một ví dụ).
Tóm lại, đây là một dòng báo chí chống cộng vừa quyết
liệt, vừa tinh vi theo phơng thức chủ nghĩa thực dân mới.
15


3. Những bài học xơng máu của cha ông
Cuộc chiến tranh khốc liệt nhất của lịch sử dân tộc đÃ
lùi xa 3 thập niên. Nhng những vết thơng chiến tranh vẫn hằn
sâu trên từng thớ thịt quê hơng, trong tâm tởng kí ức của
mỗi ngời. Cùng với nó là những bài học kinh nghiệm đà đợc rút
ra từ mồ hôi xơng máu của cha ông. Là ngời làm báo trong xÃ
hội mới, chúng ta cần luôn nhận thức đợc bản chất của nền
báo chí ta vẫn không ngừng là báo báo chí cách mạng. Và
đặt ra cho nó là những trọng trách mang tầm thời đại, mà
mỗi nhà báo cần nhận thức và sẵn sàng vợt qua.
Trởng thành trong các quá trình của cách mạng dân tộc
và nhân dân ta nền báo chí cách mạng của ta đà hội nhập tơng đối thuận lợi với nền thông tin toàn cầu và đang vơn lên
nhanh chóng. Hội nhập quá trình thông tin toàn cầu, báo chí
cách mạng Việt Nam thể hiện bản chất quần chúng của

mình, là tiếng nói của một dân tộc tự do, khác hẳn báo chí
của các thế lùc t b¶n chđ nghÜa. Cịng nh thÕ kû XX, báo chí
của ta vẫn là thông tin ngôn luận của Việt Nam. Nó thuộc
dòng báo chí cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Báo chí là phơng tiện của nhân d©n tù do, cđa mét
d©n téc tù do gåm 1000 ấn phẩm trên 700 cơ quan báo chí
đà đăng ký, đều có tiếng nói riêng trong tiếng nói chung
của dân tộc và nhân dân ta. Sức mạnh to lớn của báo chí
cách mạng Việt Nam từ khi mới ra đời là sự phối hợp hoạt
động. Báo viết, báo nói, báo h×nh, líp häc, trêng häc chÝnh

16


trị, sinh hoạt chính trị trong tổ chức Đảng và các đoàn thể
đều có chung một tiếng nói, hình thành một dàn đại hợp xớng cách mạng.
Ngời làm báo cách mạng không giống ngời làm báo tự do,
lấy nghề báo làm nghề mu sinh. Họ khác vì họ là ngời cách
mạng làm cách mạng tự nguyện, làm cách mạng bằng ngòi
bút, là chiến sĩ trên mặt trận t tởng, góp phần hình thành t
tởng, d luận xà hội hớng dẫn hoạt động cách mạng, cải tạo
cuộc sống xà hội, cải tạo con ngời.
Mỗi ngời làm báo cách mạng đà sống và chiến đấu nh
ngời chiến sĩ quân đội, chiến sĩ du kích chịu đựng mọi
gian khổ cùng quần chúng.
Là cơ quan hớng dẫn t tởng cho hàng triệu ngời các cơ
quan báo chí và những ngời làm báo chúng ta cần phải bồi dỡng ý chí cách mạng và thể hiện ý chí ấy qua bài viết của
mình. Làm báo thời nay thuận lợi nhiều mà khó khăn cũng
không nhỏ.


17



×