Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đánh giá tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu đối với sinh kế người dân các xã vùng đệm vườn quốc gia cát bà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.12 KB, 21 trang )

Đánh giá tính dễ bị tổn thương do biến đổi
khí hậu đối với sinh kế người dân các xã
vùng đệm Vườn quốc gia Cát Bà

Nguyễn Văn Công

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Luận văn Thạc sĩ ngành: Khoa học môi trường; Mã số: 60 85 02
Người hướng dẫn: PGS. TS. Trần Văn Thụy
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Dự báo các tác động của biến đổi khí hậu với khu vực Vườn Quốc gia
Cát Bà. Đánh giá khả năng thích ứng và tính dễ bị tổn thương biến đổi khí hậu của
các nhóm cộng đồng ven biển tham gia hoạt động sinh kế tại vùng đệm Vườn Quốc
gia Cát Bà. Cung cấp các khuyến nghị và đề xuất giải pháp giảm thiểu cho các hoạt
động sinh kế và quản lý tài nguyên hỗ trợ tăng cường khả năng thích ứng của người
dân địa phương trước tác động của biến đổi khí hậu.

Keywords: Khoa học môi trường; Biến đổi khí hậu; Ảnh hưởng môi trường; Vườn
Quốc gia Cát Bà

Content
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHÊN CỨU
1.1. Biến đổi khí hậu và các tác động của biến đổi khí hậu
1.1.1. Biến đổi khí hậu
Trong lịch sử phát triển của Trái đất, khí hậu đã có nhiều lần thay đổi do tự nhiên.
Những thời kỳ băng hà xen lẫn các thời kỳ ấm lên của Trái đất đã xảy ra từ cách đây rất lâu
(hàng vài triệu năm) cho tới khoảng 18.000 năm trước Công nguyên. Thời kỳ tiểu băng hà
gần nhất xảy ra ở châu Âu trong giai đoạn giữa hai thế kỷ XVI-XIX. Biến đổi khí hậu toàn
cầu hiện nay bắt đầu xảy ra từ giữa thế kỷ XIX. Nhiệt độ trung bình của Trái đất hiện nay
đã tăng 0,74


o
C so với năm 1850. Thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ
vừa qua. Do nóng lên, băng tuyết ở các Cực của Trái đất, các đỉnh núi cao tan ra cùng với
nước trong các đại dương nở ra, làm mực cho nước biển toàn cầu dâng lên trung bình 0,17
m trong thế kỷ XX. Theo đó, thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan (bão, lũ lụt, hạn
hán, lũ quét, lốc, nắng nóng, rét hại…) xảy ra nhiều hơn, dị thường hơn và ác liệt hơn.
Hiện tượng El Nino xảy ra thường xuyên hơn, kéo dài hơn và mạnh hơn… [11]
1.1.2. Biểu hiện và tác động của biến đổi khí hậu
Sự nóng lên toàn cầu là rất rõ ràng với những biểu hiện của sự tăng nhiệt độ không
khí và đại dương, sự tan băng diện rộng và qua đó là mức tăng mực nước biển trung bình
toàn cầu.
Biến đổi khí hậu tác động lên tất cả các thành phần môi trường bao gồm cả các lĩnh
vực của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và sức khoẻ con người trên phạm vi toàn
cầu. Tuy nhiên, mức độ tác động của biến đổi khí hậu có khác nhau: nghiêm trọng ở các
vùng có vĩ độ cao và ít hơn tại các vùng khác, sẽ lớn hơn ở các nước nhiệt đới, nhất là các
nước đang phát triển công nghiệp nhanh ở Châu Á. Trong đó, những người nghèo, những
người ít góp phần gây ra biến đổi khí hậu nhất thì lại phải chịu những thiệt hại sớm nhất và
nghiêm trọng nhất về phát triển con người do biến đổi khí hậu gây ra (Hardy, 2003;
Crutzen, 2005; Nguyễn Đức Ngữ, 2008).
1.2. Các nghiên cứu đã tiến hành trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Các nghiên cứu về biến đổi khí hậu trên thế giới và Việt Nam
1.2.1.1. Nghiên cứu về biến đổi khí hậu trên thế giới
Vào cuối thế kỷ XIX, các nhà khoa học đã bắt đầu nhận thấy mầm mống của biến
đổi khí hậu, tuy nhiên tại thời điểm đó người ta chưa nhận thức được hậu quả của nó ngày
nay. Năm 1896, nhà hóa học người Thụy Điển, Svante Arrherius đưa ra kết luận rằng việc
đốt than trong công nghiệp sẽ đẩy mạnh hiệu ứng nhà kính. Kết luận của ông về mức độ
ảnh hưởng của khí nhà kính nhân tạo gần như trùng khớp với mô hình khí hậu ngày nay,
nghĩa là nếu lượng khí nhà kính tăng gấp đôi thì nhiệt độ trung bình của toàn cầu sẽ tăng
vài độ C.
Đến nay, IPCC đã xuât bản báo cáo lần thứ 4 vào năm 2007 đây là một trong các

tài liệu quan trọng nhất về biến đổi khí hậu. Theo IPCC (2007), sự ấm lên của khí hậu là
điều chắc chắn. Hàm lượng khí CO2, loại khí nhà kính quan trọng nhất trong bầu khí
quyển toàn cầu, dao động ở mức 200-300 ppm trong suốt 800.000 năm qua, nhưng đã tăng
lên ở mức khoảng 387 ppm trong 150 năm qua, chủ yếu là do đốt nhiên liệu hóa thạch và
một nguyên nhân nhỏ hơn là từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và thay đổi việc sử dụng
đất.
1.2.1.2. Nghiên cứu về biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, biến đổi khí hậu được nghiên cứu nhiều sau khi Việt Nam tham gia
ký công ước khung liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) năm 1992 và sau đó là
tham gia nghị định thư Kyoto năm 1998. Nhiều nhà khoa học Việt Nam đã đi sâu nghiên
cứu về BĐKH như Giáo sư Nguyễn Đức Ngữ với sự ra đời cuốn sách Biến đổi khí hậu,
nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật năm 2008, và nhiều nhà khoa học khác cũng tham gia vào
lĩnh vực nghiên cứu này. Bộ Tài nguyên và Môi trường là đơn vị nhà nước Việt Nam chủ
trì các hoạt động liên quan đến biến đổi khí hậu. Cho đến này, Bộ đã xây dựng 02 kịch bản
biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam lần lượt năm 2009 và năm 2011.
1.2.2. Các nghiên cứu về sinh kế trên thế giới và Việt Nam
1.2.2.1. Các nghiên cứu về sinh kế trên thế giới
Cách tiếp cận sinh kế bền vững đã làm thay đổi các cách tiếp cận đối với phát triển
trong thời kỳ những năm 1980 và 1990 theo hướng tập trung vào phúc lợi của con người
và tính bền vững hơn là mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Năm 2001, Cơ quan Phát triển Quốc
tế Vương quốc Anh (DFID) đưa ra khung sinh kế bền vững (Sustainable Livelihoods
Framework) để xác định và thiết kế các hoạt động hỗ trợ của mình. Theo khung này, các
hộ gia đình đều có phương thức kiếm sống (chiến lược sinh kế) dựa vào những nguồn lực
sinh kế sẵn có (5 loại nguồn lực) trong một bối cảnh chính sách và thể chế nhất định ở địa
phương.
1.2.2.2. Các nghiên cứu về sinh kế tại Việt Nam
Tại Việt Nam, cùng với các hoạt động được đầu tư cho nghiên cứu về biến đổi khí
hậu, nhiều hoạt động nghiên cứu về sinh kế và sinh kế trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Năm 2010, MONRE và UNDP đã xuất bản tài liệu về “Xây dựng khả năng phục hồi:
Chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển chịu nhiều rủi ro nhất do tác động biến đổi khí

hậu ở miền Trung Việt Nam”. Tài liệu này đã cho thấy mối quan hệ sinh kế vùng ven biển
và khả năng thích ứng trước tác động của biến đổi khí hậu mà nghiên cứu điển hình được
thực hiện tại hai tỉnh Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế trong khuôn khổ dự án “Đói nghèo và
Môi trường” [5]. Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, UNDP đã sử dụng khung sinh
kế bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu để phân tích khả năng thích ứng của sinh kế
ven biển. Trong báo cáo này, các tác động của biến đổi khí hậu đã được phân tích cụ thể
đồng thời các chính sách, thể chế cũng đã được nhắc đến trong vai trò thúc đẩy khả năng
thích ứng của cộng đồng làm sinh kế ven biển. Kết quả của báo cáo là đưa ra các khuyến
nghị và một chiến lược thích ứng cho sinh kế vùng ven biển miền trung.









CHƢƠNG 2. PHẠM VI VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tác giả thực hiện trên 06 xã vùng đệm vườn Quốc gia Cát Bà,
huyện Cát Hải, Thành phố Hải Phòng bao gồm: Phù Long, Hiền Hào, Xuân Đám, Gia
Luận, Trân Châu và Việt Hải.
Các nhóm đối tượng chính: hộ gia đình trong các sinh kế chính (nông nghiệp, khai
thác thủy sản, nuôi trồng thuỷ sản, du lịch và các nghề khác)
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Phƣơng pháp hồi cứu, tổng hợp tài liệu
Phương pháp này nhằm kế thừa tối đa các tài liệu đã có để thống kê, phân tích đánh
giá các điều kiện tự nhiên, môi trường, hiện trạng KT - XH tại khu vực nghiên cứu. Thông
qua phương pháp này tác giả sử dụng các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã

công bố của Việt Nam (MONRE, 2009, 2012) và các nguồn số liệu khác, ở các cấp độ
khác nhau (quốc gia, khu vực/vùng, tỉnh)
2.2.2. Khung đánh giá tính dễ bị tổn thƣơng biến đổi khí hậu
Khung đánh giá tính dễ bị tổn thương biến đổi khí hậu được Allison đưa ra năm
2009 trong báo cáo của ông và cộng sự. Theo khung đánh giá này, các khái niệm được sử
dụng cho đánh giá tính tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu như sau:


Hình 2.1. Khung đánh giá tính dễ bị tổn thƣơng do biến đổi khí hậu (Allison và NNK,
2009)
MỨC ĐỘ
PHƠI VỚI
TÁC
ĐỘNG (E)

BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU

TÍ NH
NHẠY
CẢM (S)


TÁC ĐỘNG
TIỀM NĂNG
(PI =S+E)

NĂNG
LỰC
THÍ CH

ỨNG (AC)
TÍ NH DỄ
BỊ TỔN
THƯƠNG
(V=PI+AC
)
2.2.3. Khung sinh kế bền vững
Khung sinh kế bền vững (UNDP, 2010) dựa trên cách tiếp cận các nguồn lực: Con người, xã hội, tự nhiên, tài chính và vật chất – phương tiện
và đánh giá phân tích chính sách/thể chế, kế hoạch/chính sách/chương trình hỗ trợ thích ứng biến đổi khí hậu.
Hình 2.2. Mô hình sinh kế bền vững (UNDP, 2010)
2.2.4. Phƣơng pháp khảo sát và điều tra thực địa
Các thông tin sẽ được thu thập thông quan phỏng vấn nhóm tập trung, bằng bảng hỏi và
phong vấn cá nhân.
Phỏng vấn nhóm tập trung: Phương pháp phỏng vấn nhóm được sử dụng hiệu quả trong
việc thu thập các thông tin liên quan đến hoạt động sinh kế như hoạt động nhóm, kinh nghiệm
về các hiện tượng thời tiết cực đoan trong quá khứ. Trong mỗi cuộc phỏng vấn có khoảng 10
– 15 người dân. Ưu điểm của phương pháp này là có thể đối chứng các thông tin thu thập
thông qua phỏng vấn sâu cá nhân.
Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (Participatory Rural
Appraisal - viết tắt PRA)
Trong nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng một số công cụ trong bộ PRA như sau:
- Hồ sơ hiểm hoạ: Ghi lại các diễn tiến lịch sử về rủi ro, thảm họa hoặc sự thay đổi về
tài nguyên, kinh tế, xã hội của cộng đồng.
- Bảng phân tích tai biến/hiểm hoạ: nhằm liệt kê, mô tả các hiện tượng tai biến môi
trường tự nhiên đã xảy ra tại khu vực nghiên cứu.
- Lịch mùa vụ: là công cụ thu thập thông tin thích hợp với những gì xảy ra theo mùa
trong điều kiện tự nhiên và liên quan đến các hoạt động sinh kế của người dân trong
một năm. Lịch giúp hiểu biết về sự lựa chọn hành vi và mùa vụ được thực hiện ở địa
phương.
Điều tra hộ gia đình: Thực hiện phương pháp điều tra hộ gia đình nhằm tìm hiểu các thông

tin liên quan đến hộ như kinh tế hộ, nguồn thu nhập và ngành nghề chính…
Phỏng vấn sâu cá nhân: Phương pháp này được sử dụng nhằm khai thác thông tin từ các
chuyên gia địa phương, người có kinh nghiệm trong nghề lâu năm.
Quá trình điều tra, đánh giá tại thực địa được chia làm 03 đợt: Đợt 1 từ ngày 20 – 24/4/2012
tại xã Xuân Đám và Gia Luận và đợt 2 từ ngày 23 – 27/8/2012 tại xã Trân Châu và Việt Hải
và đợt 3 từ ngày 1 – 5/11/2012 tại xã Phù Long, Hiền Hào, Xuân Đám. Khảo sát được thực
hiện trên 120 hộ và tác giả đã thực hiện phỏng vấn sâu đối với các cán bộ tại KDTSQ Cát Bà,
VQG Cát Bà và UBND huyện Cát Hải.

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khái quát đánh giá các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên

8

Vị trí địa lý:
Hình 3.1. Khu Dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà
Đảo Cát Bà nằm phía cực đông của tỉnh Hải Phòng, thuộc huyện Cát Hải. Quần đảo
Cát Bà có hơn 366 hòn đảo lớn nhỏ kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Quần đảo Cát
Bà có vị trí địa lý 20°50’N và 106°38’E. Đảo Cát Bà nằm giáp ranh với vùng biển vịnh Hạ
Long.
Địa hình:
Cát Bà có đặc trưng là địa hình núi non hiểm trở, độ cao từ 0 - 322m so với mực nước
biển, phần lớn cao từ 50-200 m, địa hình là cao ở phía Tây Bắc và thấp dần về phía Đông
Nam. Đảo Cát Bà được cấu tạo chủ yếu bởi các thành tạo đá vôi, do đó địa hình có sự phân
cấp lớn. Có 4 loại địa hình chủ yếu là địa hình núi đá vôi sườn dốc, địa hình núi đá vôi karst,
địa hình thung lũng và địa hình ngập mặn ven biển. Trong đó địa hình karst là dạng địa hình
đặc trưng và là dạng địa hình phổ biến nhất của đảo Cát Bà nên trên đảo Cát Bà sinh kế nông
nghiệp khá hạn chế và ngành du lịch phát triển hơn.


9
Hệ động thực vật
Tính đa dạng sinh học cao về thành phần loài có trong khu vực là cơ sở rất quan trọng
cho việc khai thác nguồn lợi tự nhiên phục vụ các mục đích khác nhau của con người. Mặt
khác chúng có ý nghĩa rất lớn về nghiên cứu khoa học: tiến hóa, sinh thái học, chỉ thị môi
trường…cùng với hàng loạt các loài có khả năng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
các dịch vụ hệ sinh thái, phòng tránh thiên tai và nguồn nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp hóa học và sản xuất thuốc chữa bệnh.
Hệ sinh thái và nguồn lợi biển và ven biển
Đa dạng các hệ sinh thái biển và ven biển
 Hệ sinh thái rạn san hô: ở hầu hết các cung lõm của các đảo đá (thường có các bãi cát
phân bố phía trên) trong khu vực kỳ quan đều có san hô phân bố ở các độ sâu 3, 6, 9 và 11
mét. Hình thái của các rạn san hô được xác định chủ yếu bởi hình thái của vùng sườn ngầm và
phần nào bởi các trầm tích cacbonat có nguồn gốc sinh vật trên rạn. Kiểu rạn san hô đặc trưng
cho khu vực là kiểu rạn viền bờ và rạn đốm (Hình 3.2)
Do biến đổi của các điều kiện môi trường dưới tác động của tự nhiên và con người,
các rạn san hô hiện nay đã bị suy giảm đáng kể cả về diện tích và mức độ đa dạng của các
nhóm sinh vật sống kèm. Độ phủ của san hô sống đã bị suy giảm nhanh chóng trong những
năm gần đây: năm 1999 các rạn san hô ở Cát Bà được xếp ở mức độ rạn tốt trung bình (25-
50% độ phủ san hô sống) và rạn tốt (50-70% độ phủ san hô sống) theo kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Huy Yết (1999) [33].
Tuy nhiên hiện nay độ phủ san hô sống chỉ còn thấp hơn 40% [16]. Hiện nay san hô phân
bố chủ yếu ở vùng nước ven các đảo ở phía Đông Nam Cát Bà (Cống Lá, Áng Thảm, Ba Trái
Đào, Vạn Bội, Cống Híp, Tùng Ngón, Cọc Chèo) và trong các vụng kín thuộc đảo Long Châu
(vụng Nhà Đèn, vụng cây bàng, ven đảo phía đông nam Long Châu).
 Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Phần lớn diện tích rừng ngập mặn phân bố thuộc địa bàn
xã Phù Long với mật độ còn tương đối cao. Tổng diện tích rừng ngập mặn là 775,98ha được
chia ra làm 2 kiểu loại: rừng ngập mặn phân bố ngoài khu vực đầm nuôi (224,74ha), rừng
ngập mặn phân bố ở trong đầm nuôi (551,24ha). Chính vì diện tích rừng ngập mặn trong hệ
thống đầm nuôi là tương đối lớn cho nên các kế hoạch tổng thể và dài hạn bảo tồn rừng ngập

mặn sẽ gặp nhiều khó khăn do phải giải quyết được thỏa đáng mối quan hệ về sở hữu công -
tư.
3.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
Dân số, lao động:

10
Theo số liệu từ niên giám thống kê 2010, Đảo Cát Bà gồm 06 xã và 01 thị trấn, với
tổng diện tích đất tự nhiên là 37,050 km
2
,
dân số 16.340 người (8.042 nam và 8.092 nữ), trong
đó thị trấn Cát Bà có dân số lớn nhất với 10.799 người. Dân số tập trung trong nghành phi
nông nghiệp đặc biệt là du lịch chiếm 79,7% dân số. Tuy nhiên, tính trên 06 xã tỉ lệ nông
nghiệp chiếm tới 52,8% tổng số dân. Như vậy, dịch vụ chủ yếu tập trung chính tại thị trấn Cát
Bà nơi có nghành du lịch hết sức phát triển.
Ngành nghề: Các hoạt động kinh tế chính ở khu vực nghiên cứu bao gồm các lĩnh
vực: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch và dịch vụ.
3.1.3. Các sinh kế chính ngƣời dân khu vực vùng đệm vƣờn Quốc gia Cát Bà
Khai thác thủy sản:
Nghề khai thác cá biển ở Cát Bà có truyền thống khá lâu. Trong cơ chế quản lý nghề
cá cũ trước đây, các hợp tác xã nghề cá đã một thời rất phát triển, là một điển hình của miền
Bắc. Đạt được thành tích đó là nhờ nghề cá lúc đó là nghề cá thủ công, chỉ hoạt động đánh bắt
ở vùng gần bờ, do ở vào vị trí tự nhiên thuận lợi, nguồn lợi ven bờ còn rất dồi dào và đội ngũ
ngũ dân lành nghề, thuyền lưới và công cụ sản xuất được Chính phủ cho vay vốn
Nuôi trồng thủy sản
Khai thác và nuôi thủy sản trên đảo Cát Bà diễn ra khá sôi động. Phù Long là xã có
nhiều hình thức nuôi trồng thủy sản vùng ven bờ như: nuôi ngao, ngán, đầm nuôi tôm tự
nhiên, đầm quảng canh trong rừng ngập mặn và đầm tôm công nghiệp (Công ty Sơn Trường).
Hai xã Xuân Đám và Hiền Hào có một số bãi nuôi ngao với diện tích không lớn lắm. Nuôi cá
lồng bè rất phổ biến ở các khu vực vịnh kín thuộc thị trấn Cát Bà, xã Việt Hải và Gia Luận.

Trong quá trình đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, người dân còn gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt về vốn và khoa học kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất. Các dự
án phát triển ngư trường còn chậm triển khai. Mặc dù được tập huấn kỹ thuật song việc tiếp
thu và ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển sản xuất thủy sản ở khu vực nghiên cứu.
Trồng trọt và chăn nuôi
Các loại cây trồng không phong phú, số lượng ít, chỉ sản xuất được theo mùa do phụ
thuộc vào nguồn nước tự nhiên là chính. Hệ thống công trình thủy lợi còn rất ít, chưa đáp ứng
được nhu cầu tưới tiêu cho cây trồng. Cây trồng chủ yếu trên đảo bao gồm lúa, ngô, khoai,
sắn, rau, của quả và cây ăn trái. Diện tích đất lúa nước trên đảo tập trung ở các xã Xuân Đám,
Hiền Hào, Trân Châu và Việt Hải.
Chăn nuôi trên đảo Cát Bà phát triển theo hướng kinh tế hộ gia đình, chủ yếu là lợn,
dê, gia cầm và nuôi ong. Đàn dê được nuôi rộng rãi ở tất cả các xã và thị trấn Cát Bà. Cũng

11
như trồng trọt, chăn nuôi trên đảo không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người dân và
khách du lịch. Một lượng lớn thực phẩm được chuyển từ đất liền vào.
Lâm nghiệp
Rừng quốc gia Cát Bà là rừng không được khai thác gỗ nhưng người dân địa phương
được phép khai thác tận thu lâm sản phụ. Khai thác mật ong từ rừng đem lại giá trị kinh tế cao
(giá 1 chai 0,65l có thể lên tới 1 triệu đồng), nhưng nếu sơ ý để quên không dập tắt lửa có thể
gây ra cháy rừng. Năm 2004 và 2005 đã có 2 vụ cháy rừng do lấy mật ong gây ra, một vụ ở
gần cảng Việt Hải và một vụ ở Hiền Hào. Việc săn bắt động vật hoang dã (như tắc kè, kỳ đà,
rắn, trăn) bằng bẫy thòng, bằng lưới, bằng súng săn vẫn còn diễn ra.
Du lịch - thương mại
Du lịch dịch vụ : các loại hình dịch vụ du lịch như kinh doanh nhà hàng, khách sạn, vận
chuyển khách, hướng dẫn du lịch, dịch vụ cho khách ăn nghỉ tại nhà dân…đang ngày càng trở
thành ngành nghề quan trọng của đảo. Theo các thống kê chưa đầy đủ, hiện nay có trên 3000
người ở thị trấn Cát Bà tham gia vào dịch vụ du lịch dưới nhiều dạng khác nhau. Ở khu vực
nông thôn của Cát Hải như Gia Luận, Phù Long, Hiền Hào, Xuân Đám, Trân Châu, Việt Hải

cũng có tới 247 người tham gia.
3.2. Tác động biến đổi khí hậu tại khu vực nghiên cứu
3.2.1. Một số biểu hiện của biến đổi khí hậu khu vực đảo Cát Bà
Theo số liệu quan trắc được tại các trạm Phù Liễn và Hòn Dáu, những biểu hiện của
biến đổi khí hậu (bao gồm biến đổi về nhiệt độ, lượng mưa, xoáy thuận nhiệt đới, mực nước
biển) trên khu vực đảo Cát Bà có một số đặc điểm:

Hình 3.6. Diễn biến nhiệt độ tại Cát Bà thời kỳ 1961 - 2007
Nhiệt độ tăng khoảng 0,12°C mỗi thập kỉ, trong đó nhiệt độ mùa xuân tăng ít nhất

12
(khoảng 0,08°/thập kỉ), nhiệt độ mùa đông tăng mạnh nhất (khoảng 0,23°C/thập kỉ). Nhiệt độ
trung bình năm của thời kì gần đây (1991-2007) tăng 0,4°C so với thời kì trước (1961-1990).
Trong thời kì gần đây, tần suất mùa lạnh kết thúc sớm (tháng 11) tăng lên và tần suất mùa
lạnh kết thúc muộn giảm đi so với thời kì 1961-1990.
Trong thời kì 1960-2007, lượng mưa năm giảm (-6,99mm), lượng mưa mùa khô tăng
chút ít, hầu như không thay đổi, lượng mưa mùa mưa giảm từ 5-10%. Trong thời kì gần đây
(1991-2007), lượng mưa giảm (-168 mm) so với thời kì trước (1961-1990), tuy nhiên số ngày
mưa lớn lại có xu hướng gia tăng.

Hình 3.8. Diễn biến mực nƣớc biển tại trạm Hòn Dáu (1955 - 2007)
Mực nước biển trong khu vực đảo Cát Bà được tính theo số liệu quan trắc tại trạm
Hòn Dáu. Theo đó, mực nước biển trung bình năm có xu hướng tăng 3,88 mm/năm trong thời
kì 1960-2007, mực nước biển cao nhất năm có xu hướng tăng 5,6 m/năm, mực nước biển thấp
nhất năm tăng 2,15 mm/năm. So sánh thời kì gần đây (1991-2007) với thời kì trước (1961-
1990), mực nước biển trung bình năm tăng 7,2 cm, mực nước biển cao nhất năm tăng 7,8 cm,
mực nước biển thấp nhất năm tăng 2,7 cm.
3.2.2. Kịch bản biến đổi khí hậu cho khu vực đảo Cát Bà
Theo khuyến nghị của Bộ Tài nguyên và Môi trường, việc sử dụng kịch bản biến đổi
khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam trong đánh giá tác động và xây dựng kế hoạch ứng

phó với BĐKH cần được xem xét và lựa chọn phù hợp với từng ngành, lĩnh vực và địa
phương. Kịch bản BĐKH và nước biển dâng B2 được khuyến nghị sử dụng trong việc đánh
giá tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng và xây dựng kế hoạch hành động ứng
phó với biến đổi khí hậu.
Theo đó, kịch bản biến đổi khí hậu bao gồm kịch bản về biến đổi nhiệt độ, lượng mưa

13
cho đảo Cát Bà được sử dụng từ kịch bản do Bộ Tài nguyên và Môi trường. Bên cạnh đó, kịch
bản BĐKH của thành phố Hải Phòng đang trong quá trình xây dựng, đây là nguồn số liệu rất
tốt cho việc đánh giá và dự báo tác động của BĐKH đối với đảo Cát Bà.
Mức tăng nhiệt độ, lượng mưa và mực nước biển dâng trong khu vực chứa đảo Cát Bà
theo kịch bản phát thải trung bình được so sánh với thời kì chuẩn 1980-1999, đây cũng là giai
đoạn được IPCC sử dụng trong báo cáo đánh giá lần thứ 4.
Bảng 3.4. Kịch bản BĐKH và nƣớc biển dâng tại Hải Phòng
(theo kịch bản phát thải trung bình)
Các mốc thời gian của
thế kỷ 21
2020
2030
2040
2050
2060
2070
2080
2090
2100
Nhiệt độ (
o
C)
0,5

0,7
1,0
1,3
1,6
1,9
2,1
2,3
2,5
% lượng mưa
0,9
1,3
1,8
2,3
2,8
3,3
3,7
4,1
4,4
Mực nước biển dâng
khu vực Móng Cái -
hòn Dáu (cm)
7-8
11-
12
15-
17
20-
24
25-
31

31-
38
36-
47
42-
55
49-64
Có thể thấy, trong nửa đầu thế kỉ, các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa và mực nước biển
tăng chậm hơn so với nửa cuối thế kỉ. Theo kết quả được công bố, vào giữa thế kỉ 21, nhiệt độ
có thể tăng lên 1.3°C, lượng mưa tăng từ 2,3% và mực nước biển dâng lên 24 cm so với thời
kì 1980-1999. Vào cuối thế kỉ 21, nhiệt độ có thể tăng lên từ 2.5°C, lượng mưa tăng lên
khoảng 4,4% và mực nước biển dâng lên từ 64 cm.
3.2.3. Tác động biến đổi khí hậu đến khu vực nghiên cứu
Biến đổi khí hậu tác động không chỉ đến tự nhiên, môi trường mà còn tác động lên
mọi mặt đời sống của con người khu vực vùng đệm vườn quốc gia Cát Bà. Nhiệt độ tăng cao
ảnh hưởng đến mùa màng, các đợt hạn hán gia tăng làm suy giảm sản xuất nông nghiệp.
Lượng mưa thay đổi thất thường, mưa nhiều hơn vào mùa mưa gây ra ngập úng hơn 1/3 diện
tích đất nông nghiệp trên đảo. Nước biển dân làm gia tăng xâm nhập mặn ở các vùng thấp như
tại Phù Long, và Xuân Đám gây ra giảm năng suất thủy sản và nông nghiệp. Đồng thời các
hiện tượng thời tiết cực đoan như bão đã và đang là đe dọa lớn đối với đời sống người dân
trên đảo. Trong nghiên cứu này, tác động BĐKH sẽ được đánh giá cụ thể trên các lĩnh vực và
sinh kế chính của người dân.
Tác động đến tài nguyên nước
Trên đảo Cát Bà, lượng nước ngọt rất khan hiếm và chủ yếu nguồn nước ngầm ở đây
bị nhiễm mặn và nhiễm đã vôi. Nước mưa được người dân sử dụng làm nguồn nước ăn chính,
nước mưa được dự trữ trong các bể chứa từ tháng 3 đến tháng 9 âm lịch. Dưới tác động của
biến đổi khí hậu dòng chảy tạm thời trên các suối trong mùa mưa có thể sẽ tăng lên do sự gia
tăng lượng mưa và như vậy, lượng nước này sẽ bổ sung cho nguồn nước ngọt phục vụ sinh

14

hoạt và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể trữ nước khi
nhu cầu nước tăng cao do dân số và nhu cầu sử dụng nước của du lịch và các hoạt động kinh
tế xã hội khác tăng lên.
Tác động đến tài nguyên đất
Một phần diện tích của hơn 40 ha đất thấp canh tác nông nghiệp thuộc các xã Hiền
Hào, Xuân Đám đã bị nhiễm mặn và nguy cơ nhiễm mặn có thể sẽ tăng cao hơn trong tương
lai, dẫn đến phải chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất trồng trọt sang mục đích khác.
Tác động tới trồng trọt và chăn nuôi
Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng tới trồng trọt và chăn nuôi của Việt Nam dưới nhiều
góc độ khác nhau [44] và Cát Bà cũng không nằm ngoài các tác động đó.
Tác động tới lâm nghiệp
Nhiệt độ cao hơn, cường độ bức xạ cao hơn thúc đẩy quá trình quang hợp, song độ ẩm
giảm đi lại kìm chế chỉ số tăng trưởng sinh khối của cây rừng. Đặc biệt, khi nhiệt độ tăng cao
và bốc hơi nhiều hơn khiến gia tăng nguy cơ cháy rừng trong các tháng nóng và khô hanh
(MONRE-Vietnam, 2010). Tại khu vực rừng trên núi ở Vườn quốc gia Cát Bà, nguy cơ cháy
cao thường xảy ra vào các tháng 2 và tháng 3 ở các khu vực xa, khó dập tắt, với nguyên nhân
chủ yếu do bất cẩn của người dân khi đi vào rừng khai thác sản phẩm phi gỗ (như mật ong,
tắc kè).
Tác động đến đánh bắt, nuôi trồng thủy sản
Biến đổi khí hậu dẫn đến mưa lớn có thể xảy ra, khiến cho nồng độ muối tại những
vùng nước nông giảm đi đột ngột làm cho sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là tôm, có thể
bị sốc và chết. Theo kết quả phỏng vấn, nhiệt độ cao vào mùa hè chưa có ảnh hưởng lắm tới
các loài nuôi trong các lồng bè ở các xã và thị trấn Cát Bà. Tuy nhiên, nhiệt độ cao sẽ ảnh
hưởng đến tôm cá nuôi ở các đầm mà không đủ độ sâu thích hợp cho chúng. Vào mùa đông,
những người nuôi lồng bè ở khu vực Bến Bèo cho biết, nếu nhiệt độ xuống dưới 9
0
C, một số
loài cá nuôi trong lồng bè chậm lớn hoặc thậm chí có thể chết (ví dụ như cá sú, sao, vược).
Trong điều kiện BĐKH, nếu nhiệt độ xuống quá thấp (dưới 9
0

C) thì sẽ ảnh hưởng đến các loài
này.
Tác động đến du lịch
Du lịch biển, đảo đang trở thành một chiến lược phát triển của ngành du lịch Việt Nam
trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, những tác
động do biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành do đặc
điểm phân bố tài nguyên du lịch và hệ thống hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tập trung

15
chủ yếu ở vùng ven biển và hải đảo, là những nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí
hậu [41].
Tác động tới sức khỏe cộng đồng, sinh kế, đói nghèo
Nhiều hộ gia đình nghèo phụ thuộc vào các sinh kế và các hoạt động tạo ra thu nhập,
mà chúng dễ bị tổn thương dưới tác động của thiên tai hay các hiện tượng khí hậu theo mùa.
Biến đổi khí hậu mang mối đe dọa ngày càng tăng đối với hệ thống sinh kế ở các khu vực ven
biển do những tác động lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà những người dân ở đây phụ
thuộc trực tiếp [43]. Biến đổi khí hậu có những rủi ro tiềm ẩn đối với nhóm người nghèo ở
khu vực ven biển là một trong những nhóm đối tượng nhạy cảm nhất với những hiện tượng
khí hậu bất thường, vì nông nghiệp, đánh bắt cá là những ngành đặc biệt dễ bị tổn thương
trước những tác động của biến đổi khí hậu (MONRE/PEP/UNDP, 2008). Người nghèo
thường có khả năng chống chịu, ứng phó, phục hồi thấp hơn những nhóm người giàu (với
tiềm lực về vật chất, nguồn lực lớn hơn). Do đó, tình trạng khó khăn đa tồn tại trong các cộng
đồng này có thể trở nên nghiêm trọng hơn trong một thời gian dài.
3.3. Năng lực thích ứng của cộng đồng ven biển khu vực vùng đệm Vƣờn Quốc gia
Cát Bà
3.3.1. Nguồn lực con ngƣời
Tại Cát Bà, nhìn chung trình độ dân trí tương đối cao trong mặt bằng chung của vùng
đồng bằng bắc bộ. Theo niên giám thống kê huyện Cát Hải, đến năm 2010, toàn huyện Cát
Hải có 13.925 lao động trong đó số người có khả năng lao động đang được đào tạo là 612
người chiếm 04,4%.

Theo kết quả khảo sát, nhận thức về biến đổi khí hậu của người dân làm sinh kế trên
đảo Cát Bà cho thấy, hơn 19,5% số hộ được hỏi chưa từng được nghe về biến đổi khí hậu. Đối
tượng hiểu biết thấp về biến đổi khí hậu chủ yếu tập trung vào các hộ cận nghèo.
Theo kết quả khảo sát vào tháng 6/2012 cho thấy, nhận thức, thông tin về vấn đề biến
đổi khí hậu, ảnh hưởng của nó đến đời sống của người dân, các biện pháp ứng phó vấn còn
hạn chế. Thông tin về diễn biến của biến đổi khí hậu, cũng như những tác động và ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu chưa được thực hiện theo bài bản và chưa được đưa vào hệ thống tuyên
truyền đại chúng tới nhân dân địa phương.
3.3.2. Nguồn lực xã hội
Về mặt tổ chức xã hội, người dân trên đảo Cát Bà có tính liên kết cao. Đa số người
dân đều là người từ đảo Cát Hải, sau khi người gốc Hoa rời bỏ đảo cách đây gần 200 năm,
người dân Cát Hải đã di chuyển và định cư sinh sống tài đảo Cát Bà. Vào thời điểm đó, các xã
hiện nay là các làng và người dân sinh sống với nhau trong sinh hoạt làng xã.

16
Tuy nhiên, bên cạnh sự đoàn kết về mặt xã hội, trong các sinh kế lại thiếu sự liên kết
trong làm ăn. Cụ thể, hiện nay trên đảo chỉ có 01 chi hội nuôi trồng thủy sản và 01 chi hội
khai thác thủy sản tại xã Phù Long. Các tổ hợp tác và tổ nhóm nghề nghiệp còn rất hạn chế.
Trong số 160 người được hỏi chỉ có 18 hộ có liên kết trong làm ăn.
3.3.3. Nguồn lực tự nhiên
Các xã vùng đệm vườn Quốc gia Cát Bà có nguồn lực về tự nhiên tương đối phong
phú. Với vị trí là vùng đệm VQG Cát Bà, là một nơi có sự đa dạng sinh học lớn và phong phú
các hệ sinh thái tự nhiên như rừng tự nhiên trên cạn, rừng ngập mặn, hệ sinh thái san hô và cỏ
biển.
Nhìn chung, diện tích đất nông nghiệp đặc biệt là diện tích lúa có phần hạn chế, đa số
đất trồng lúa và trồng màu nằm trong vùng thấp và dễ bị tác động của ngập lụt và hạn hán. Về
nuôi trồng thủy sản, diện tích nuôi trồng tập trung nhiều nhất ở xã Phù Long với hơn 1.400
ha. Đa số người dân ở đây nuôi tôm trong đầm với hơn 1.000 ha và một số ít nuôi các loài
nhuyễn thể.
Với diện tích hơn 700 ha rừng ngập mặn và hệ sinh thái san hô còn giữ được sức khỏe

tốt làm nơi đẻ và dự trữ nguồn lợi thủy sản lớn cho người dân tham gia khai thác. Nguồn lợi
thủy sản tự nhiên trong rừng ngập mặn, bãi triều và khu vực biển ven bờ khá phong phú, như
các loài tôm, ngao, sò, ốc hương, ghẹ, các loài cá… Tuy nhiên, nguồn lợi này đang bị suy
giảm nghiêm trọng, trở thành một thách thức lớn của địa phương.
3.3.4. Nguồn lực tài chính
Khả năng tích lũy tài chính của người dân còn thấp: Theo kết quả khảo sát, thu nhập
trung bình của người dân trên các xã vùng đệm là khoảng 2,5 triệu đồng/tháng. Trong đó nghề
thủy sản có thu nhập cao nhất và các ngành liên quan đến nông nghiệp và ngành khác có thu
nhập thấp hơn.
Người dân tại các xã khảo sát thường không có khả năng tự cung tự cấp lương thực và
thực phẩm giống như các xã trên đất liền vì vậy mức chi tiêu thường cao và khả năng tích lỹ
thấp. Tuy nhiên, một điểm mạnh trong năng lực tài chính của các hộ dân được đánh giá cao là
tính đa dạng hóa sinh kế cao. Chỉ có dưới 20% số hộ chỉ có 01 nguồn thu nhập, còn phần lớn
là có từ hai đến bảy sinh kế. Đặc biệt có hộ có đến bảy nguồn thu nhập. Như vậy tính phụ
thuộc vào nguồn thu nhập của người dân nơi đây là không đáng kể.
3.3.5. Nguồn lực về vật chất – hạ tầng
Nguồn lực vật chất được xem là các cơ sở hạ tầng không chỉ phục vụ hoạt động sản
xuất mà còn phục vụ đời sống nhân dân. Theo khảo sát tại khu vực nghiên cứu trong tháng 3,

17
tháng 8 và tháng 11 năm 2012 cho thấy, đa số người dân cho rằng cơ sở hạ tầng trong xã chưa
thật sự yên tâm và cần nâng cấp đặc biệt trong bối cảnh BĐKH còn diễn biến phức tạp. Đặc
biệt là hệ thống đường giao thông còn hạn chế. Đối với hệ thống đường đi lại trong khu vực
nuôi trồng thủy sản theo khảo sát tại thực địa còn cần phải đầu tư nâng cấp. Đa số tuyến
đường này phải thường xuyên bồi đắp hàng năm.
3.3.6. Các hoạt động tự thích ứng
Bên cạnh các nguồn lực sinh kế, khả năng thích ứng của cộng đồng còn được đánh giá
ở mức độ tự thích ứng.
Trước biểu hiện của biến đổi khí hậu như nhiệt đột thất thường, lượng mưa thay đổi,
các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng, người dân trên đảo Cát Bà đã có nhiều hoạt động

nhằm tự thích ứng trước biến đổi bất lợi của thời tiết
3.3.7. Phân tích các chính sách thích ứng
a. Các chính sách từ trung ƣơng
- Quyết định số 1589/2008/QĐ-TTg ngày 2 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2011 – 2015 của Bộ
TNMT (Quyết định số 2418/QĐ-BTNMT của Bộ trưởng Bộ TNMT).
- Xây dựng và công bố Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam
(tháng 6.2009) và công bố kết quả cập nhật kịch bản (2011)
- Chiến lược quốc gia về phòng chống và giảm nhẹ thiên tai đến 2020, Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn xây dựng, được phê duyệt theo quyết định số 172/2007/QĐ-
TTg ngày 16/11/2007 của Thủ tướng chính phủ.
- Khung Chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu của ngành Nông
nghiệp và PTNT giai đoạn 2008-2020.
b. Từ thành phố Hải Phòng và huyện Cát Hải
- Chính sách/dự án hướng tới phát huy lợi thế của huyện Cát Hải phát triển du lịch và
phát triển tiềm năng nuôi trồng thủy sản. Điều đó được thấy rõ qua Quy hoạch chi tiết
phát triển nuôi trồng hải sản trên vùng biển Hải Phòng năm 2015, định hướng đến năm
2020 (Sở Nông nghiệp và PTNT, 2010).
- Chính sách/dự án hướng tới phát triển bền vững nâng cao khả năng thích ứng với biến
đổi khí hậu cho người dân. Điều này được thấy rõ trong Đề án xây dựng chương trình
phát triển bền vững khu dự trử sinh quyển quần đảo Cát Bà [1].
- Thành phố triển khai “Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển
dâng thành phố Hải Phòng đến năm 2025”.

18
3.4. Đánh giá tính dễ bị tổn thƣơng do biến đổi khí hậu đối với sinh kế ngƣời dân và
các giải pháp giảm thiểu
3.4.1. Tình trạng dễ bị tổn thƣơng của sinh kế do biến đổi khí hậu
Theo khung đánh giá tính dễ bị tổn thương (Alisson, 2009), tính dễ bị tổn thương được

xác định bởi tác động của biến đổi khí hậu và năng lực thích ứng của cộng đồng.
Tính nhạy cảm của sinh kế và tác động của biến đổi khí hậu: Như phân tích ở trên,
biến đổi khí hậu tác động đến sinh kế người dân các xã vùng đệm VQG Cát Bà đang ngày
càng rõ rệt. Hạn hán gia tăng làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và vật nuôi. Đi kèm với
sự thay đổi nhiệt độ là sự bùng phát các dịch bệnh trên đàn dê, gà (ở Xuân Đám), trên các loài
cây hoa màu. Biến đổi khí hậu dẫn đến xảy ra mưa lớn kéo dài gây ra ngập úng thiệt hại đến
nông nghiệp ở Gia Luận, Xuân Đám, làm mất và suy giảm năng suất nuôi trồng thủy sản tại
Phù Long. Bão diễn biến bất thường và gây thiệt hại lớn đến hoạt động sinh kế người dân.
Thời gian vừa qua, cơn bão số 8 năm 2012 đã làm thiệt hại 5 ha hoa màu, 30 ha đầm,
hồ nuôi trồng thủy sản bị vỡ bờ gây mất thủy sản, 01 ha lúa bị ngập úng 22.800 cây ăn quả bị
đổ ngã… Với đặc thù là các sinh kế phụ thuộc nhiều vào thời tiết như nuôi trồng thủy sản,
khai thác thủy sản, trồng trọt nên các sinh kế người dân càng dễ bị ảnh hưởng bởi các điều
kiện thay đổi bất thường của thời tiết.
Bên cạnh đó, với đặc điểm là đảo và nằm trong vùng chịu tác động nhiều của thiên tai
như bão, không khí lạnh, mưa lớn… các xã vùng đệm VQG Cát Bà đang nằm trong vùng dễ
bị tác động của biến đổi khí hậu. Ngoài ra, khu vực cũng đang phải đối mặt với vấn đề suy
giảm nguồn lợi thủy sản và sự thu hẹp diện tích sản xuất do phát triển du lịch.
Năng lực thích ứng của các sinh kế: Nhìn chung, khả năng thích ứng của sinh kế
vùng đệm VQG Cát Bà ở mức trung bình. Nhận thức và kỹ năng của các đối tượng tham gia
sinh kế còn hạn chế trong đó có khoảng 20% người dân chưa có thông tin về biến đổi khí hậu
và hơn 70% chưa được đáp ứng đầy đủ về kiến thức và kỹ năng phục vụ sản xuất. Tuy có tính
liên kết trong cộng đồng cao, nhưng tính tổ chức và tính hợp tác trong sản xuất còn ở mức
thấp.
Người dân tại khu vực vùng đệm VQG Cát Bà có mức đa dạng thu nhập tương đối
cao, đây là yếu tố hỗ trợ khi xảy ra điều kiện khó khăn đối với các sinh kế phụ thuộc nhiều
vào thiên nhiên. Tuy vậy, số hộ có từ 1 – 2 sinh kế vẫn còn ở mức cao hơn 50% nên người
dân sẽ dễ gặp khó khăn trong việc gia tăng nguồn thu nhập. Về cơ sở vật chất và hạ tầng phục
vụ đời sống và sinh kế vấn ở mức trung bình và cần tiếp tục được nâng cấp thêm.
Nguồn lực tự nhiên là một trong các điểm mạnh hỗ trợ tăng cường năng lực thích ứng
đối với sinh kế người dân ven biển tại Cát Bà trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Theo thống kê


19
cho thấy, Cát Bà có đa dạng sinh học thuộc vào loại cao nhất ở miền bắc Việt Nam, đồng thời
với các giá trị tài nguyên đa dạng như các hệ sinh thái ven biển, thảm phủ thực vật đây chính
là các giá trị cần được bảo vệ và giữ gìn nhằm hỗ trợ phát triển sinh kế bền vững và thích ứng
với biến đổi khí hậu. Thêm vào đó, với hệ thống các văn bản chính về biến đổi khí hậu và
nâng cao năng lực của sinh kế từ cấp trung ương đến địa phương sẽ là yếu tố thúc đẩy khả
năng thích ứng của cộng đồng và sinh kế tại các xã ven biển VQG Cát Bà trong trong bối
cảnh biến đổi khí hậu.
Tính dễ bị tổn thương: Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, phụ nữ và người nghèo là đối
tượng dễ bị tổn thương hơn. Phụ nữ dễ bị tổn thuơng hơn nam giới vì khả năng và mức độ
tiếp cận nguồn lực sinh kế thấp hơn, đặc biệt là hoạt động khai thác thủy sản bằng thuyền (gần
như 100% nam giới mới có sức khỏe để tham gia hoạt động này). Hơn nữa, thông thường khi
bão lụt và thiên tai xảy ra, phụ nữ sẽ ít có khả năng phản ứng nhanh vì phần đông không biết
bơi và hơn nữa, do phân công lao động trong gia đình, nên khả năng di chuyển của phụ nữ sẽ
khó khăn hơn.
Đối với các sinh kế, trồng trọt và nuôi trồng thủy sản là các sinh kế dễ bị tổn thương
hơn do biến đổi khí hậu. Các ngành này có sự phụ thuộc cao vào các yếu tố thời tiết và khí
hậu. Bão, hạn hán và ngập lụt ảnh hưởng lớn nhất đến trồng trọt do hệ thống thủy lợi hạn chế,
kỹ thuật và nhận thức người dân còn thấp. Trong khi đó, bão và mưa lớn kéo dài, xâm nhập
mặn ảnh hưởng nhiều hơn đến nuôi trồng thủy sản dẫn đến vỡ bờ đầm, thiệt hại lớn đến thu
nhập của người dân.
3.4.2. Các giải pháp giảm thiểu tính dễ bị tổn thƣơng
Để giảm thiểu tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu đối với người dân các xã vùng
đệm vườn Quốc gia Cát Bà, ngoài các giải pháp tạm thời cần hướng đến các giải pháp nhằm
nâng cao tính thích ứng trong thời gian dài hạn.
Về ngắn hạn, người dân đang nuôi trồng thủy sản trong đầm tại xã Phù Long cần thực
hiện gia cố bờ đầm, tăng cường trồng rừng ngập mặn nhằm bảo vệ bờ đầm. Đối với người dân
trồng lúa và hoa màu tại các xã Hiền Hào, Xuân Đám, Gia Luận, và Việt Hải cần tăng cường
cải tạo hệ thống tiêu thoát nước nhằm giảm ngập lụt, hạn hán và xâm nhập mặn.

Nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu và kỹ thuật sản xuất: Đối với người dân tại
các vùng dễ bị tác động bởi thiên tai, hiểm họa như xã Phù Long, Việt Hải cần nâng cao nhận
thức về biến đổi khí hậu. Trước hết, cần tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức
cho cán bộ và người dân về biến đổi khí hậu và các tác động của nó đến sinh kế của cộng
đồng dân cư. Chính quyền xã và các bên liên quan hỗ trợ tổ chức các lớp tập huấn về phòng
chống thảm họa và tác động của biến đổi khí hậu.

20
Rà soát, xây dựng quy hoạch và nâng cấp cơ sở hạ tầng: Quy hoạch và cơ sở hạ tầng
là cơ sở quan trọng nhất trong việc thúc đẩy và quản lý các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế
- xã hội trên địa bàn. Cấp chính quyền trong quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới tại
các xã Phù Long, Hiền Hào, Xuân Đám cần đầu từ xây dựng các quy hoạch cơ bản bao gồm
quy hoạch sử đất, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành (như nuôi trồng thủy
sản)… nhằm hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao tầm nhìn dài hạn trong bối cảnh biến
đổi khí hậu.
Từng bước thay đổi cơ cấu thu nhập: Kết quả đánh giá cho thấy cơ cấu các nguồn thu
nhập của hộ tại các xã còn hạn chế. Tại xã Phù Long, người dân đa phần chỉ có một đến hai
nguồn thu nhập chính, đặc biệt đối với hộ có nguồn thu từ thủy sản. Như vậy, để nâng cao
năng lực thích ứng của người dân, cần có các hỗ trợ nhằm tăng cường đa dạng hóa và thay đổi
cơ cấu nguồn thu nhập của hộ.
Thay đổi đối tượng nuôi trong đầm, đa dạng hóa cây trồng vật nuôi và tăng tính hợp
tác trong sản xuất: Hiện nay do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và môi trường, một số đối
tượng nuôi trong đầm không cho năng suất cao. Nuôi tôm tại đầm ở Phù Long đang cho hiệu
quả kem, người dân gặp khó khăn và mất mát lớn khi tôm bị dịch bệnh. Vì thế, để tăng hiệu
quả kinh tế hoạt động làm đầm, các hộ làm đầm nên phối hợp với các nhà khoa học cũng như
kinh nghiệm thực tế để lựa chọn lại phương thức nuôi và một số đối tượng nuôi cho phù hợp.

Thực hiện quyết liệu bảo vệ nguồn lợi thủy sản tự nhiên: Là một trong các nguồn lực
nhằm phát triển sinh kế, nguồn lợi thủy hải sản đóng vai trò hết sức quan trọng nhằm đảm bảo
đời sống và sự bền vững của các sinh kế phụ thuộc biển.


KẾT LUẬN
1. Biểu hiện và tác động của biến đổi khí hậu đối với môi trường, hệ sinh thái và sinh kế
người dân tại vùng đệm vườn Quốc gia Cát Bà đã bước đầu được nghiên cứu. Biểu hiện
chính của biến đổi khí hậu tại đây là sự gia tăng nhiệt độ, lượng mưa, mực nước biên dâng
và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Biến đổi khí hậu dẫn đến hạn hán, mưa lớn kéo dài,
xâm nhập mặn đã ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp và sản lượng đánh bắt, nuôi trồng
thủy hải sản tại các xã vùng đệm vườn Quốc gia Cát Bà.
2. Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy năng lực thích ứng của các sinh kế và người dân
vẫn đang cần phải được phải nâng cao hơn nữa. Đối với nguồn lực thích ứng về con
người, xã hội, cơ sở vật chất đang còn ở mức thấp cần tiếp tục được đầu tư, phát triển.
Đồng thời cần phát huy thế mạnh về nguồn lực tự nhiên.

21
3. Sinh kế của người dân vùng đệm vườn Quốc gia Cát Bà đang ở trong tình trạng dễ bị tổn
thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Trong đó, sinh kế nông nghiệp và thủy sản là dễ
bị tổn thương hơn. Các sinh kế này có tính phụ thuộc cao vào các điều kiện thời tiết do đó
chịu ảnh hưởng lớn từ các tác động biến đổi khí hậu. Vì vậy, cần tiếp tục nâng cao về khả
năng thích ứng của các sinh kế này. Bên cạnh đó, nhóm phụ nữ và người nghèo là dễ bị
tổn thương hơn cả. Họ là đối tượng chịu tác động và có khả năng tiếp cận thấp đến các
nguồn lực sinh kế.
4. Bước đầu đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường năng lực thích ứng và giảm thiểu
tính dễ bị tổn thương của các sinh kế do biến đổi khí hậu. Các giải pháp bao gồm nâng cao
nhận thức về biến đổi khí hậu, kỹ thuật sản xuất; nâng cấp một số hạ tầng; tiếp tục đa dang
hóa sinh kế, các loài nuôi và tăng cường hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản tự nhiên.
Các giải pháp cần ưu tiên trong thời gian tới là nâng cấp cơ sở hạ tầng nhằm ứng phó với
các mối thách thức hiện thời. Bên cạnh đó, cần tăng cường thực hiện các giải pháp dài hạn
như tăng cường nhận thức, xây dựng chiến lược sinh kế thích ứng và duy trì bảo vệ các
nguồn lợi, hệ sinh thái tự nhiên.


×