Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.5 KB, 18 trang )

Pháp luật về Khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia
tăng tại Việt Nam

Đào Thị Ngọc Ánh

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Làm rõ khái niệm, đặc điểm, bản chất của thuế Giá trị gia tăng (GTGT);
khấu trừ, hoàn thuế GTGT và các quy định pháp luật về thuế GTGT, khấu trừ, hoàn
thuế GTGT ở Việt Nam. Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về khấu
trừ và hoàn thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. Từ những nghiên cứu và thực trạng
pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT ở Việt Nam rút ra những nhận xét, đánh giá
những mặt tồn tại để có những kiến nghị góp phần khắc phục và hoàn thiện hơn nữa
pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT ở Việt Nam.

Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; Thuế giá trị gia tăng

Content
MỞ ĐẦU

I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước (NSNN), là công cụ quan trọng
để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân và là vấn đề đại cục
của mỗi Quốc gia, đặc biệt trong tiến trình hội nhập quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng
đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện cải cách thuế bước hai. Điểm nổi bật của cuộc cải cách
này là thay thế Luật Thuế Doanh thu bằng Luật thuế giá trị gia tăng 1997 được thông qua tại
kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Việt Nam bắt đầu
thi hành một luật thuế mới, đó là thuế giá trị gia tăng (GTGT). Sau hơn mười năm thực hiện


đến nay, Luật Thuế GTGT đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế của đất nước, đã
khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước, thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài, mở rộng
và phát triển xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo nguồn thu ổn định và ngày càng
tăng cho ngân sách nhà nước…Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã gặp những vướng mắc
khó khăn. Trong những năm gần đây, hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT
của các doanh nghiệp để bòn rút tiền ngân sách Nhà nước đã trở thành một vấn nạn của toàn
xã hội.
Trước thực tế này, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT tại
Việt Nam”, không có tham vọng sẽ giải quyết toàn bộ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng mà chỉ dừng lại ở việc hiểu rõ bản chất của các
quy định pháp luật hiện hành về khấu trừ và hoàn thuế GTGT ở Việt Nam, thực trạng các quy
định pháp luật về khấu trừ, hoàn thuế GTGT và qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc
phục được phần nào của thực trạng nêu trên.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

2
Khấu trừ và hoàn thuế là vấn đề muôn thuở của Luật Thuế GTGT, mặc dù đã có nhiều
công trình nghiên cứu khai thác vấn đề này, tuy nhiên đây là vấn đề khá rộng và phức tạp
dưới nhiều góc độ khác nhau. Đi sâu vào khai thác thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra
những tồn tại hạn chế, đề xuất giải pháp khắc phục cho vấn đề “Pháp luật về khấu trừ, hoàn
thuế GTGT” là vấn đề rất quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về thuế GTGT ở Việt
Nam. Luận văn “Pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam” sẽ là một
trong những đề tài tiếp tục việc nghiên cứu những vấn đề pháp luật về thuế GTGT ở Việt
Nam.
III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn: “Pháp luật về khấu trừ,
hoàn thuế GTGT tại Việt Nam” nhằm hai mục đích:
Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận về thuế GTGT nói chung, pháp
luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT tại Việt Nam.
Thứ hai: Về mặt thực tiễn, nhằm đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về khấu trừ,

hoàn thuế GTGT tại Việt Nam hiện nay. Qua đó đưa ra một số đánh giá và kiến nghị hoàn
thiện các quy định của pháp luật hiện hành về khấu trừ và hoàn thuế GTGT tại Việt Nam.
Xuất phát từ hai mục đích cơ bản nêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, bản chất của Thuế GTGT khấu trừ, hoàn thuế GTGT
và các quy định pháp luật về thuế GTGT, khấu trừ, hoàn thuế GTGT ở Việt Nam;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về khấu trừ và hoàn Thuế
GTGT ở Việt Nam hiện nay;
- Từ những nghiên cứu và thực trạng pháp luật về khấu trừ và hoàn Thuế GTGT ở
Việt Nam rút ra những nhận xét, đánh giá những mặt tồn tại để có những kiến
nghị góp phần khắc phục và hoàn thiện hơn nữa pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế
GTGT ở Việt Nam.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật liên quan đến khấu trừ và hoàn
thuế GTGT, thực tiễn áp dụng pháp luật về khấu trừ, hoàn thuế GTGT tại Việt Nam hiện nay.
Qua đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT.

V. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài là công trình khoa học có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ các vấn đề lý
luận về khấu trừ, hoàn thuế GTGT và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về
khấu trừ, hoàn thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT tại Việt Nam, đặc biệt nhằm khắc phục những tồn
tại trong quy định hiện hành về khấu trừ và hoàn thuế GTGT tại Việt Nam hiện nay.
VI. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu có tính chất bao trùm được quán triệt để thực hiện trong luận
văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin, kết hợp
với các phương pháp so sánh. Theo đó vấn đề điều chỉnh pháp luật phải được đặt trong bối
cảnh lịch sử, cụ thể của quá trình hình thành và phát triển cơ chế thị trường ở nước ta trên cơ
sở vận dụng các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về chính sách khấu trừ, hoàn thuế
GTGT.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn để

làm rõ cơ sở lý luận về khấu trừ, hoàn thuế GTGT ở Việt Nam.
VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, kết cấu của luận văn được trình bày theo 2 phần
như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thuế GTGT và các quy định của pháp luật về
khấu trừ, hoàn thuế GTGT ở Việt Nam.

3
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT ở Việt Nam
và một số kiến nghị hoàn thiện.

4
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ GTGT VÀ
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHẤU TRỪ, HOÀN THUẾ GTGT Ở VIỆT
NAM

1.1. Định nghĩa về thuế GTGT
1.1.1. Sự ra đời của thuế GTGT ở Việt Nam
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu. Thuế GTGT ra đời là sự thay thế hợp
lý của thuế doanh thu, tuy là một sắc thuế khá trẻ, nhưng cho đến nay đã có trên 130 quốc
gia áp dụng. Nước đầu tiên trên thế giới áp dụng thuế GTGT là Pháp, vào năm 1954. Thuế
GTGT tự bản thân nó là một sắc thuế tiên tiến được áp dụng rộng rãi và thành công ở hơn
100 quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, thuế GTGT được bắt đầu nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách thuế bước
1 (năm 1990). Luật Thuế GTGT đuợc Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi
hành ngày 01/01/1999, thay thế cho Thuế Doanh thu trước đây. Kể từ khi bắt đầu áp dụng cho
tới nay đã có 07 lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế vào các năm: 1999,
2000, 2001, 2002, 2003, 2005 và 2008.
1.1.2. Khái niệm thuế GTGT

Hiện nay khái niệm về thuế GTGT được hiểu dưới nhiều giác độ, khía cạnh và nhiều
quan điểm khác nhau.
Tại Việt Nam, Điều 2, Luật Thuế GTGT năm 2008 thuế GTGT được hiểu: “Thuế giá
trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình
từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Đa số các nước trên thế giới hiện nay áp dụng Luật thuế
GTGT đều đưa ra khái niệm với nội hàm tương tự như vậy.
1.2. Căn cứ tính thuế và phƣơng pháp tính thuế GTGT
1.2.1. Giá tính thuế GTGT
Để xác định giá tính thuế cho hàng hóa dịch vụ thuộc diện chịu thuế, các quốc gia có
thể lựa chọn giá chưa có thuế hoặc giá đã có thuế. Phần lớn các quốc gia áp dụng thuế GTGT
đều quy định cơ sở tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT. Tại Việt Nam, do ưu điểm
của phương án xác định thuế trên cơ sở giá chưa có thuế, pháp luật thuế giá trị gia tăng Việt
Nam quy định “giá tính thuế GTGT là giá chưa có thuế GTGT” song song với việc quy định
chi tiết giá tính thuế đối với các hoạt động kinh doanh phổ biến và một số hoạt động kinh
doanh đặc thù.
1.2.2. Thuế suất thuế GTGT
Hiện nay các nước áp dụng thuế GTGT có sự khác nhau trong việc thiết kế mức thuế
suất và số lượng thuế suất trong đạo luật thuế giá trị gia tăng.
Tại Việt Nam, năm 1998, Luật thuế GTGT ban hành quy định 4 mức thuế suất khác
nhau (0%,5%,10%,20%). Từ năm 2004 trở lại đây, đặc biệt theo Luật thuế GTGT năm 2008
Việt Nam áp dụng 3 mức thuế suất khác nhau: 0%, 5%, 10% được áp dụng đối với từng loại
hàng hoá, dịch vụ sản xuất-kinh doanh trong nước hoặc nhập khẩu. Việc qui định các mức
thuế suất khác nhau nhằm thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối
với hàng hoá, dịch vụ khác nhau.
1.2.3. Phƣơng pháp tính thuế GTGT
a. Phƣơng pháp khấu trừ thuế
Việc xác định nghĩa vụ thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ hoàn toàn loại trừ khả
năng thuế tính chồng lên thuế. Theo quy định của Luật thuế GTGT hiện hành nội dung cơ bản
của phương pháp khấu trừ thuế thể hiện: Số thuế GTGT phải nộp bằng số thuế GTGT đầu ra
trừ (-) số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Chủ thể nộp thuế theo phương pháp này cũng

phải đáp ứng những điều kiện nhất định do pháp luật quy định.

5
Tính thuế theo phương pháp khấu trừ là phương pháp đặc thù độc đáo của thuế GTGT.
Đây cũng là phương pháp mà các nhà kinh tế học khuyến cáo các quốc gia nên áp dụng
b. Phƣơng pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng
Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT là phương pháp tính thuế mà theo đó “số
thuế phải nộp bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ nhân với thuế suất thuế GTGT”
(Theo Khoản 2, Điều 9, Luật thuế GTGT).
Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT chỉ là phương pháp kế toán, không thể áp
dụng trong hành thu thuế. Mặt khác, việc áp dụng phương pháp này đã gây bất bình đẳng giữa
các cơ sở sản xuất kinh doanh khi cùng tham gia thị trường nhưng lại có cách tính thuế và
hưởng chế độ khấu trừ khác nhau.
1.3. Khái niệm, đặc điểm của khấu trừ và hoàn thuế GTGT
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm khấu trừ thuế GTGT
Có thể hiểu khấu trừ thuế GTGT là việc số thuế GTGT phải nộp được tính trên cơ sở
số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Khấu trừ thuế là một nội dung cơ bản và
hết sức quan trọng của pháp luật về thuế GTGT.
Về đặc điểm của khấu trừ thuế GTGT được thể hiện: Thứ nhất, phần thuế GTGT được
khấu trừ là số thuế được xác định một cách trực tiếp, là hiệu số thuế của các khâu trong quá
trình sản xuất, lưu thông mà không phải phần giá trị gia tăng được xác định trực tiếp qua các
khâu. Thứ hai, căn cứ để xác định số thuế đầu vào được khấu trừ là số thuế GTGT ghi trên
hóa đơn GTGT khi mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT đối với hàng hóa
nhập khẩu.
1.3.2. Khái niệm, đặc điểm hoàn thuế GTGT
Luật thuế GTGT năm 2008 không đưa ra định nghĩa khái niệm hoàn thuế GTGT. Tuy
nhiên có thể xem xét khái niệm hoàn thuế GTGT dưới nhiều góc độ khác nhau. Qua thực tiễn
pháp lý cho thấy “Hoàn thuế GTGT là việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại số tiền thuế
GTGT đã nộp vuợt quá của chủ thể nộp thuế”.
Hoàn thuế GTGT có những đặc điểm nổi bật sau đây: Thứ nhất, chủ thể được hoàn thuế

GTGT là những đối tượng nộp thuế GTGT theo quy định của pháp luật. Thứ hai, hoàn thuế
GTGT là một thủ tục pháp lý đặc biệt do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm
hoàn trả lại cho tổ chức, cá nhân một khoản tiền thuế mà họ đã nộp thừa vào NSNN nhưng
không có căn cứ pháp lý. Ngoài ra, đặc điểm của hoàn thuế GTGT còn được thể hiện dưới hai
góc độ: Hoàn thuế GTGT với tư cách là một quyền của người nộp thuế và Hoàn thuế GTGT
với tư cách là một quan hệ pháp luật.
1.4. Sự cần thiết phải khấu trừ và hoàn thuế GTGT
1.4.1. Sự cần thiết phải khấu trừ thuế GTGT
Việc khấu trừ thuế GTGT là cần thiết, bởi: Nó giúp cho việc xác định đúng số thuế
phải nộp ở từng khâu, từng chủ thể nộp thuế, chống thất thu thuế; Đảm bảo thu đủ số thuế cần
thiết điều tiết thu nhập của người tiêu dùng; đảm bảo sự động viên kịp thời một phần thu nhập
quốc dân; Đơn giản hóa quá trình quản lý và thu thuế; Khấu trừ thuế còn thúc đẩy các tổ chức
kinh tế tiến hành hạch toán theo chuẩn mực pháp luật.
1.4.2. Sự cần thiết phải hoàn thuế GTGT
Việc phải có các quy định về hoàn thuế GTGT là cần thiết, bởi các lý do sau: Hoàn thuế
GTGT giúp bảo đảm tính công bằng, bình đẳng cho các chủ thể nộp thuế, góp phần buộc các
đối tượng thuộc diện nộp thuế thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn chứng từ theo quy định
pháp luật. Và, xét một cách tổng quát thì hoàn thuế GTGT góp phần kích thích hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung, kích thích hoạt động
xuất khẩu; Giảm bớt khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp trong kinh doanh là đối
tượng nộp thuế; Việc hoàn thuế GTGT còn góp phần khuyến khích xuất khẩu; Trả lại số thuế
do thay đổi tính chất của việc sử dụng hàng hoá; Hoàn thuế GTGT thể hiện tính minh bạch
của chính sách thuế gián thu;…

6
1.5. Mối liên hệ giữa khấu trừ và hoàn thuế GTGT
Khấu trừ thuế GTGT là cơ sở cho việc áp dụng hoàn thuế GTGT bởi cơ sở kinh doanh
chỉ được áp dụng việc hoàn thuế GTGT khi nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Mặt
khác, hoàn thuế sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp có thể được hoàn lại khoản tiền thuế của
mình do đã nộp thừa vào NSNN mà chưa được khấu trừ hết.

Khi nghiên cứu về mối liên hệ giữa khấu trừ thuế GTGT và hoàn thuế GTGT, quan
điểm cho rằng, hoàn thuế GTGT là một dạng đặc biệt của khấu trừ thuế GTGT đầu vào là
không hợp lý.
1.6. Các quy định của pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT ở Việt Nam
1.6.1. Đối tƣợng và các trƣờng hợp đƣợc khấu trừ và hoàn thuế GTGT
a. Đối tƣợng và các trƣờng hợp đƣợc khấu trừ thuế GTGT
Theo quy định của pháp luật về thuế GTGT hiện hành thì đối tượng sau đây sẽ được
khấu trừ thuế GTGT: hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp
luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, cụ
thể đối với các trường hợp sau:
- Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng được khấu trừ toàn bộ;
- Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng đồng thời cho sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế thì chỉ được khấu trừ số thuế giá
trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế giá trị gia tăng.
- Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng thì không được khấu trừ, trừ trường hợp
pháp luật quy định.
- Thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh mua vào để sản xuất
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế để
viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại quy định Luật Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
toàn bộ.
- Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho hoạt động tìm kiếm,
thăm dò, phát triển mỏ dầu khí được khấu trừ toàn bộ.
- Thuế giá trị gia tăng đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi
xác định số thuế phải nộp của tháng đó.
- Số thuế giá trị gia tăng đầu vào không được khấu trừ, cơ sở kinh doanh được hạch
toán vào chi phí để tính thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc tính vào nguyên giá của tài sản cố
định.

b. Đối tƣợng và trƣờng hợp đƣợc hoàn thuế GTGT đƣợc quy định nhƣ sau:
Theo quy định của pháp luật về thuế GTGT hiện hành đối tượng và trường hợp được
hoàn thuế GTGT được quy định như sau:
- Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế giá trị
gia tăng nếu trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu
trừ hết.
- Cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp
thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ, hoặc dự án tìm kiếm thăm dò và phát triển
mỏ dầu khí đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, nếu thời gian đầu tư từ 01
năm trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho đầu tư theo
từng năm.
- Cơ sở kinh doanh đang hoạt động (trừ các doanh nghiệp hạch toán toàn ngành) thuộc
đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư cơ sở sản xuất
mới thành lập tại địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác với tỉnh, thành phố nơi
đóng trụ sở chính, đang trong giai đoạn đầu tư chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký kinh

7
doanh, chưa đăng ký thuế, nếu có số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử
dụng cho đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng.
- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu có số thuế giá trị gia
tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng
theo tháng.
- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi chia, tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở
hữu; giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước có số thuế giá trị gia tăng đầu vào
chưa được khấu trừ hết hoặc có số thuế giá trị gia tăng nộp thừa.
- Hoàn thuế giá trị gia tăng đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) không hoàn lại hoặc viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo.
- Đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao theo quy định của Pháp lệnh về
Ưu đãi miễn trừ ngoại giao mua hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam để sử dụng được hoàn
thuế giá trị gia tăng đã trả ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng hoặc trên chứng từ thanh toán

ghi giá thanh toán đã có thuế giá trị gia tăng
- Cơ sở kinh doanh có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan có thẩm theo quy định
của pháp luật.
1.6.2. Thủ tục khấu trừ và hoàn thuế GTGT
a. Thủ tục khấu trừ thuế GTGT
Điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được pháp luật hiện hành quy
định như sau: Có hóa đơn giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào; Có chứng từ thanh
toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào; Đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu,
ngoài 2 điều kiện nêu trên còn phải đáp ứng đủ 2 điều kiện: Có hợp đồng bán, gia công hàng
hóa xuất khẩu; Có chứng từ thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng.
b. Thủ tục hoàn thuế GTGT
*) Hồ sơ hoàn thuế GTGT
Đối với trường hợp trong ba tháng liên tục có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết,
hoặc đối với trường hợp đang trong giai đoạn đầu tư chưa có thuế giá trị gia tăng đầu ra, hoặc
bù trừ số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho dự án đầu tư: Bản kê khai
thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh; Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu NSNN.
Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng đối với trường hợp xuất khẩu:
Thứ nhất, trường hợp xuất khẩu thanh toán bằng tiền: Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu
NSNN; Bảng kê hồ sơ xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; Biên bản thanh lý hợp đồng hoặc
Biên bản đối chiếu công nợ định kỳ; Văn bản xác nhận của bên nhận uỷ thác xuất khẩu kèm
theo bảng kê chi tiết.
Thứ hai, trường hợp xuất khẩu thanh toán bằng hàng: Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu
NSNN; Bảng kê hồ sơ xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; Văn bản xác nhận của bên nhận uỷ
thác xuất khẩu.
Thứ ba, trường hợp xuất khẩu tại chỗ: Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu NSNN; Bảng
kê hồ sơ xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; Văn bản xác nhận của bên nhận uỷ thác xuất
khẩu.
Thứ tư, trường hợp hàng hoá gia công chuyển tiếp: Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu
NSNN; Bảng kê hồ sơ xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; Văn bản xác nhận của bên nhận uỷ
thác xuất khẩu.

Thứ năm, trường hợp hàng hoá xuất khẩu để thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài:
Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu NSNN; Bảng kê hồ sơ xuất khẩu hàng hoá đầu tư ra nước
ngoài; Văn bản xác nhận của bên nhận uỷ thác xuất khẩu.
Hoàn thuế GTGT đối với dự án ODA: Thứ nhất, đối với Chủ dự án và Nhà thầu chính:
Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu NSNN; Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá dịch vụ mua
vào; Quyết định của cấp có thẩm quyền; Xác nhận của cơ quan chủ quản dự án ODA. Thứ
hai, đối với Văn phòng dự án ODA: Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu NSNN; Bảng kê hoá

8
đơn, chứng từ hàng hoá dịch vụ mua vào; Văn bản thoả thuận giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam với Nhà tài trợ.
Hoàn thuế đối với tổ chức Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không
hoàn lại: Giấy đề nghị hoàn trả khoản thu NSNN; Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá dịch
vụ mua vào; Quyết định phê duyệt các khoản viện trợ; Văn bản xác nhận của Bộ Tài.
Hoàn thuế GTGT đối với đối tượng hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao : Giấy đề nghị
hoàn trả khoản thu NSNN ; Bảng kê thuế GTGT ; Bản gốc kèm theo 2 bản chụp hoá đơn
GTGT.
Hoàn thuế GTGT đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng: Giấy đề
nghị hoàn trả khoản thu NSNN; Bảng kê hồ sơ xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ.
*) Thủ tục gải quyết yêu cầu hoàn thuế GTGT hồ sơ hoàn thuế
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục giải quyết yêu cầu hoàn thuế gồm các
bước như sau:
- Nộp hồ sơ đề nghị hoàn thuế GTGT
- Tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế
- Phân loại hồ sơ hoàn thuế
- Giải quyết hồ sơ hoàn thuế
1.6.3. Quyền và nghĩa vụ của đối tƣợng đƣợc khấu trừ và hoàn thuế GTGT
Đối tượng thuộc trường hợp được khấu trừ, hoàn thuế có các quyền và nghĩa vụ sau
đây: Đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ; Thực hiện đầy đủ chế độ kế toán,
hóa đơn, chứng từ làm căn cứ xét khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT; Lập hồ sơ đề nghị khấu

trừ, hoàn thuế; Bổ sung hồ sơ hoặc giải trình, cung cấp hồ sơ bổ sung hoặc giải trình theo yêu
cầu của cơ quan thuế; Lưu giữ đầy đủ hồ sơ tại cơ sở; Quyền được cơ quan thuế khấu trừ tiền
thuế; Quyền được khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan thuế, công chức thuế trái với quy định pháp luật; Các quyền và nghĩa vụ khác.
1.6.4. Trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc hoàn thuế GTGT
a. Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế trong việc tiếp nhận
hồ sơ hoàn thuế: tiếp nhận hồ sơ và kiểm tra sơ lược tính hợp pháp, đầy đủ của hồ sơ.
b. Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế như
sau: Phân loại hồ sơ hoàn thuế; Quyết định xử lý đối với các trường hợp hoàn thuế cụ thể;
Giải quyết tạm hoàn số thuế đã đủ điều kiện hoàn; yêu cầu người nộp thuế giải trình, bổ sung
hồ sơ và xử lý hoàn thuế khi có đủ điều kiện; Quá thời hạn do lỗi của cơ quan quản lý thuế thì
cơ quan quản lý thuế còn phải trả tiền lãi; …
1.6.5. Về kiểm tra sau hoàn thuế GTGT
Kiểm tra sau hoàn thuế là công tác kiểm tra sau khi đã hoàn thuế cho đối tượng nộp
thuế. Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc kiểm tra sau hoàn thuế:
- Bộ phận giải quyết hồ sơ thuộc diện hoàn thuế trước, kiểm tra sau, hàng tháng gửi
danh sách hồ sơ (do bộ phận giải quyết) đã có Lệnh hoàn trả đến bộ phận kiểm tra sau hoàn
thuế
- Bộ phận kiểm tra sau hoàn thuế: căn cứ danh sách các hồ sơ hoàn thuế thuộc diện
hoàn thuế trước, kiểm tra sau đã có lệnh hoàn trả (trường hợp ứng dụng tin học đã hỗ trợ thì
kiểm tra trên ứng dụng) để thực hiện kiểm tra sau hoàn thuế theo quy định.
- Trường hợp kiểm tra sau hoàn thuế xác định có số thuế không đủ điều kiện được
hoàn thuế thì Bộ phận kiểm tra sau hoàn thuế trình thủ trưởng CQT quyết định thu hồi số thuế
đã hoàn và xử phạt theo quy định.
- Trường hợp cần phải thanh tra: Bộ phận giải quyết hồ sơ hoàn thuế có liên quan
trình lãnh đạo cơ quan thuế phê duyệt giao Phòng Thanh tra thuộc Cục Thuế thực hiện thanh
tra theo quy định.
Nội dung chủ yếu của kiếm tra sau hoàn thuế:

9

Thực hiện kiểm tra sau hoàn thuế 100% hồ sơ của người nộp thuế đang báo cáo kết
quả kinh doanh lỗ; lỗ nhiều năm liên tục; số lỗ vượt quá vốn điều lệ đã đăng ký nhưng vẫn
đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh; Doanh nghiệp kinh doanh nhiều hoạt động, trong đó có
hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ có tỷ lệ doanh thu từ hoạt động kinh doanh
thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn so với tổng doanh thu của người nộp thuế; Doanh
nghiệp lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế nhiều lần, số tiền hoàn thuế lớn; Doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu thương mại thuần tuý; Người nộp thuế đã có hành vi vi phạm về sử dụng hoá đơn nhưng
chưa đến mức bị xử lý về hành vi trốn thuế, gian lận về thuế trong thời gian một năm trước
khi đề nghị hoàn thuế.
Trình tự thực hiện kiểm tra sau hoàn thuế:
Đối với doanh nghiệp được hoàn thuế trước kiểm tra sau, cơ quan thuế phải tổ chức
kiểm tra sau hoàn thuế theo chế độ quy định. Hàng tháng, các Cục Thuế, Chi cục Thuế có
trách nhiệm tổng hợp Báo cáo chi tiết kết quả kiểm tra sau hoàn thuế và Báo cáo tổng hợp kết
quả kiểm tra sau hoàn thuế của toàn cơ quan thuế. Chi cục Thuế, Cục Thuế gửi các báo cáo
nêu trên bằng văn bản về cơ quan thuế cấp trên trực tiếp.


10
CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KHẤU TRỪ, HOÀN THUẾ GTGT Ở VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

2.1. Thực tiễn áp dụng và những bất cập của pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT
ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Thực tiễn áp dụng và những bất cập của pháp luật về khấu trừ GTGT
Theo một thống kê chưa đầy đủ của Bộ Tài chính, tính đến ngày 27.11.2010, trong
58/64 tỉnh thành phố có tới 1.878 đơn vị kinh doanh bỏ trốn, nghỉ, không thanh quyết toán
hoá đơn. Số lượng hoá đơn mà các đơn vị này "ẵm" theo lên tới 58.669 hoá đơn GTGT loại
được khấu trừ thuế (chiếm 76%), 21.225 hoá đơn GTGT trực tiếp và 6.268 hoá đơn GTGT
loại cũ. Hành vi của các đối tượng này nhằm mục đích sử dụng hóa đơn để được khấu trừ thuế

GTGT một cách bất hợp pháp.
Trong quá trình áp dụng pháp luật về thuế GTGT nói chung và pháp luật về khấu trừ
thuế GTGT nói riêng đã cho thấy pháp luật còn nhiều tồn tại, bất cập, cụ thể:
Về phương pháp khấu trừ thuế GTGT:
Việc áp dụng hai phương thức tính thuế, theo chúng tôi, đây chính là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân dẫn đến hàng loạt các bất cập khác trong việc thực thi pháp luật thuế GTGT
trong thời gian qua trong đó có cả gian lận trong hoàn thuế.
Thứ nhất: Theo pháp luật thuế GTGT hiện hành, chỉ khi những đơn vị nào nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ và có lập hoá đơn GTGT hợp pháp. Một thực tế trớ trêu là
số thuế đầu vào không có thật thì được khấu trừ còn số thuế đầu vào có thật thì không được
khấu trừ hoặc chỉ khấu trừ một phần. Quan niệm rằng: mọi chủ thể kinh doanh đều phải được
bình đẳng, tức là nếu khi mua hàng họ phải tạm nộp thuế GTGT thì họ phải được khấu trừ,
hoàn thuế.
Thứ hai: Cách khấu trừ khống thuế đầu vào đối với hàng nông sản thực phẩm chưa
qua chế biến. Qui định này là mảnh đất màu mỡ cho các gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế
GTGT.
Thứ ba: Hiện nay, có ý kiến cho rằng áp dụng 2 phương pháp tính thuế dẫn đến hai
"sân chơi", không đảm bảo công bằng giữa đối tượng nộp thuế theo 2 phương pháp khác
nhau.
Về đối tượng chịu thuế và đối tượng không thuộc diện chịu thuế:
Việc quy định đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT hiện nay quá rộng dẫn đến
phát sinh nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Một số hàng
hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế được đưa vào luật nhằm thực hiện chính sách xã hội
đối với đối tượng là người có thu nhập thấp. Tuy nhiên, việc qui định như vậy là không rõ căn
cứ, rất khó xác định đâu là hàng hóa, dịch vụ của cá nhân có thu nhập thấp, cá nhân có thu
nhập cao.
Các quy định khác về khấu trừ thuế GTGT:
Pháp luật thuế GTGT gia tăng hiện hành đang tồn tại nhiều quy định ngoại lệ trái với
nguyên tắc mà chính các văn bản này đã tạo ra.
Thứ nhất: Pháp luật cho phép đối với tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh

hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế thì được khấu trừ toàn bộ. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra là việc cho phép khấu trừ toàn bộ thuế GTGT của tài sản cố định dùng chung thể hiện
sự thiếu công bằng so với các doanh nghiệp chỉ có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ không chịu thuế và cũng dẫn đến tình trạng để được tận dụng số thuế GTGT đầu vào
nhiều doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hàng hóa dịch vụ không
chịu thuế, doanh thu phần lớn cũng từ hoạt động này nhưng cố gắng sản xuất, kinh doanh một
ít sản phẩm chịu thuế bằng tài sản cố định dùng để sản xuất, kinh doanh dịch vụ không chịu
thuế.

11
Thứ hai: Pháp luật quy định hàng hóa thuộc diện không chịu thuế nhứng thuế GTGT
đầu vào vẫn được khấu trừ. Đơn cử như thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở kinh
doanh mua vào để sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho tổ chức, cá nhân nước
ngoài, tổ chức quốc tế viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại.
Về điều kiện khấu trừ thuế GTGT:
Pháp luật thuế GTGT hiện hành còn bỏ ngỏ, thiếu hoặc quy định nhưng không rõ ràng
về điều kiện khấu trừ thuế gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình kê khai, nộp
thuế, khấu trừ thuế GTGT.
Về điều kiện phải có "chứng từ thanh toán qua ngân hàng". Đây là quy định rất kịp
thời hạn chế việc mua bán hóa đơn khống và gian lận trong giao dịch nhưng pháp luật lại
chưa có quy định rõ ràng, cụ thể và thống nhất với các luật khác về “thế nào là thanh toán qua
ngân hàng” đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào.
Về điều kiện "tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam". Do doanh nghiệp chế xuất không
phải là đối tượng nộp thuế GTGT nên không được khấu trừ GTGT đầu vào của hàng hóa,
dịch vụ này mà phải đưa vào chi phí sản xuất kinh doanh làm tăng chi phí. Điều này thật bất
lợi cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng. Dù là tiêu dùng trong hay ngoài nội địa thì mục
đích cuối cùng vẫn là phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa xuất khẩu ra nước
ngoài nên về nguyên tắc phải được hưởng thuế suất 0%. Bên cạnh đó, vấn đề đặt ra là tại sao
chỉ ràng buộc điều kiện về dịch vụ tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam đối với dịch vụ cung
cấp cho tổ chức, cá nhân ở trong khu phi thuế quan mà không áp dụng đối với dịch vụ cung

cấp cho tổ chức, cá nhân nước ngoài nói chung? Nếu không áp dụng thì cơ sở đánh thuế đối
với trường hợp người nước ngoài đến Việt Nam và sử dụng các dịch vụ tại Việt Nam là gì?.
Về thời hạn khấu trừ thuế GTGT:
Khi mua hàng người mua đã trả tiền thuế GTGT, do vậy về nguyên tắc họ sẽ được
khấu trừ ngay để đảm bảo thu lại tiền thuế đã nộp khâu trước (nằm trong giá mua). Do vậy,
quy định thời hạn cho phép khấu trừ thuế là không hợp lý đối với doanh nghiệp. Thực tế việc
không khấu trừ tiền thuế kịp thời là hoàn toàn bất lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp không
cố tình vi phạm vì bất lợi cho mình (bị chiếm dụng vốn). Mặt khác, nếu không cho khấu trừ
thì doanh nghiệp sẽ bị tăng chi phí, giảm lợi nhuận tương ứng với tiền thuế không được khấu
trừ.
2.1.2. Thực tiễn áp dụng và những bất cập của pháp luật về hoàn thuế GTGT
Sau hơn mười năm thực hiện, đã có hơn 36.000 đơn vị đề nghị hoàn thuế so với hơn 5
triệu đối tượng nộp thuế. Tính đến tháng 8/2010, số thuế thực hoàn hơn 35.000 tỷ đồng. Bên
cạnh đó, một số đối tượng đã lợi dụng cơ chế hoàn trước - kiểm sau và việc khấu trừ theo tỷ lệ
% nhất định đối với hàng nông sản để chiếm đoạt tiền thuế. Thực tế cho thấy, việc chiếm đoạt
tiền thuế thông qua việc hoàn thuế và khấu trừ theo tỷ lệ % đã và đang diễn ra ngày một cách
tinh vi.
Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT đã gặp những bất cập
sau đây:
Về đối tượng được hoàn thuế:
Thứ nhất: Quy định về các trường hợp thuộc diện được hoàn thuế GTGT của Thông
tư so với Luật không đồng nhất. Đây chính là biểu hiện của hiện tượng văn bản dưới luật
hướng dẫn luật xa rời, biến dạng luật và không thống nhất giữa các văn bản pháp luật. Điều
này liên quan đến thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hiệu lực pháp lý của
chúng.
Thứ hai: Theo nguyên lý về thuế GTGT, đối tượng nộp thuế chỉ được khấu trừ và
hoàn thuế GTGT khi xác định được số thuế đầu ra và số thuế đầu vào. Về nguyên tắc, nếu đối
tượng nộp thuế có phát sinh thuế đầu ra nhưng lại không có thuế đầu vào (hàng hoá, dịch vụ
mua vào rơi vào trường hợp không chịu thuế GTGT) thì sẽ không được khấu trừ thuế vì
không xác định được cơ sở để tiến hành khấu trừ thuế. Trường hợp đối tượng nộp thuế có


12
phát sinh số thuế đầu vào nhưng lại không có thuế đầu ra (hàng hoá, dịch vụ bán ra không
thuộc diện chịu thuế GTGT) thì đối tượng nộp thuế cũng không được hoàn thuế.
Thứ ba: Việc hoàn thuế GTGT đối với dự án sử dụng nguồn vốn ODA, các tổ chức
sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài
để mua hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam là bất hợp lý.
Về quy trình hoàn thuế:
Việc quy định về quy trình hoàn thuế hiện nay theo quy định của pháp luật hiện hành
còn nhiều tồn tại, bất cập:
- Việc quy định “hoàn thuế trong trường hợp có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ
quan có Nhà nước có thầm quyền” là một quy định làm mất định tính thực thi của Luật Thuế
GTGT.
- Việc định lượng thời gian xác minh doanh nghiệp có dấu hiệu gian lận hay không là
không đủ, bởi vì việc xác minh các hóa đơn mất rất nhiều thời gian, thậm chí không được cơ
quan thuế các địa phương phản hồi.
- Việc hoàn thuế GTGT dựa trên những hóa đơn chứng từ đã có, còn tính trung
thực của các hoá đơn chứng từ này (đã phát sinh từ 3 tháng trước đó) thì không được xác
minh đầy đủ. Hơn nữa, hiện nay theo quy định của pháp luật thời gian hoàn thuế là trong
vòng 15 ngày, tối đa là 30 ngày là quá ngắn.

Về hồ sơ hoàn thuế:
Tương ứng với từng đối tượng được hoàn thuế, từng trường hợp hoàn thuế pháp luật
yêu cầu các hồ sơ chứng từ khác nhau. Song tính chính xác hợp pháp, hợp lý của các chứng từ
thì cơ quan thuế khó có thể kiểm tra ít ra là trong trường hợp hoàn thuế đối với hàng hoá là
nông sản thực phẩm xuất khẩu qua các cửa khẩu đường bộ, thanh toán không qua ngân hàng.
Về chế độ hoá đơn chứng từ:
Hệ quả của hai phương thức tính thuế GTGT là hai loại hoá đơn chứng từ trong thuế
GTGT: hoá đơn GTGT và hoá đơn bán hàng (hoá đơn thông thường). Hoá đơn bán hàng chỉ
được sử dụng khấu trừ khống với tỷ lệ 3% giá trị hàng hoá trên hoá đơn, hoá đơn GTGT thì

được khấu trừ toàn bộ. Chính qui định này tạo sự gãy khúc, giảm tính liên thông của thuế
GTGT.
2.1.3. Một số trƣờng hợp thực tế trong việc áp dụng pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế
GTGT
Công ty TNHH T.N (quận 4 - TP.Hồ Chí Minh), chuyên xuất khẩu cà phê, đã gửi đơn
kiến nghị đến Cục Thuế TP.HCM xem xét cho công ty được hoàn hàng tỉ đồng tiền thuế giá
trị gia tăng (GTGT). Nguyên nhân là Tại điểm 1.3b mục III phần B Thông tư số
129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính về thuế GTGT quy định điều kiện khấu
trừ thuế GTGT đầu vào đối với hoạt động mua bán hàng hóa có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên
chỉ hướng dẫn chung chung là có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch
vụ mua vào, trừ trường hợp tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lân theo hóa đơn dưới
hai mươi triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT. Vì vậy, công ty nộp tiền trực tiếp vào 1 Ngân
hàng tại TP.Hồ Chi Minh có cùng hệ thống với Ngân hàng mà nhà cung cấp mở tài khoản
nhằm thanh toán qua Ngân hàng cùng hệ thống (khác địa bàn) để nhà cung ứng nhận được
tiền ngay. Tuy nhiên, đến ngày 20/3/2009, Bộ Tài chính mới có văn bản 3046/BTC – TCT
hướng dẫn cụ thể: “Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng
minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán”. Căn cứ theo văn
bản này, ngành thuế đã từ chối hoàn thuế cho toàn bộ số thuế GTGT lên đến vài tỉ đồng của
doanh nghiệp đã lỡ thanh toán bằng cách nộp tiền trực tiếp vào tài khoản của ngân hàng cùng
hệ thống với nhà cung cấp hàng.
Công ty Cổ phần Mỹ thuật G. L (quận 3) cũng đang dở khóc dở cười vì không được hoàn
thuế. Do sản xuất theo đơn đặt hàng nên đa phần công ty mua nguyên liệu ở chợ đầu mối hay

13
các cơ sở nhỏ và nhiều khi chỉ giao dịch mua một vài lần nên hai bên chủ yếu thanh toán bằng
tiền mặt cho nhanh gọn. Vì vậy, hầu như tháng nào công ty cũng “vướng” vài vụ mua hàng trị
giá 40- 50 triệu đồng nhưng bên bán không có tài khoản Ngân hàng hoặc tài khoản không
cùng hệ thống Ngân hàng với công ty
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT ở Việt Nam
hiện nay

2.2.1. Một số kiến nghị đối với Luật Thuế GTGT và các văn bản hƣớng dẫn thi hành
Về phương pháp tính thuế GTGT:
Từ những bất cập nêu trên của việc áp dụng hai phương pháp tính thuế GTGT,
phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT, chúng tôi kiến
nghị nên nghiên cứu áp dụng thống nhất một phương pháp trong tính thuế GTGT là phương
pháp khấu trừ thuế GTGT.
Về điều kiện khấu trừ, hoàn thuế GTGT:
Kiến nghị về thuế suất 0% đối với dịch vụ cần phải có qui định cụ thể trong luật thuế
VAT. Luật VAT nên qui định: Dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% khi thỏa mãn
cùng 1 lúc các điều kiện sau: có hợp đồng cung cấp dịch vụ ký với đối tác nước ngoài; Có
chứng từ thanh toán tiền dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng; Tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt
Nam. Trường hợp không xác định được địa điểm tiêu dùng thì áp dụng thuế suất như đối với
tiêu dùng nội địa.
Về tỷ lệ khấu trừ thuế GTGT đầu vào: kiến nghị pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể
hơn về tổng doanh số hàng hóa dịch vụ bán ra để tính tỷ lệ thuế giá trị gia tăng được khấu trừ,
và không tính doanh thu từ hoạt động tài chính, sử dụng vốn như tự doanh chứng khoán, lãi
tiền gửi ngân hàng, repo chứng khoán của các công ty chứng khoán vào tổng doanh số bán
hàng hóa dịch vụ khi thực hiện tính tỷ lệ thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
Tiết b, khoản 2 Điều 12 Luật Thuế GTGT quy định một trong những điều kiện để
được khấu trừ thuế GTGT là: "b) Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa,
dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng". Đề
nghị bổ sung thêm trường các trường hợp được coi là thanh toán qua ngân hàng gồm:
- Người mua và người bán thanh toán bù trừ công nợ
- Người mua chuyển tiền vào tài khoản của người bán qua bưu điện;
Từ đó, sửa tiết b, khoản 2 Điều 12 như sau:"b) Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng
đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai
mươi triệu đồng. Trường hợp thanh toán bù trừ công nợ có biên bản thanh toán bù trừ và các
chứng từ hợp pháp chứng minh; người mua chuyển tiền vào tài khoản của người bán qua bưu
điện cũng được coi là thanh toán qua ngân hàng".
Ngoài ra, Luật thuế GTGT nên thêm quy định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế

GTGT là thời điểm xuất hoá đơn đối với hoạt động chuyển giao hàng hoá và cung ứng dịch
vụ, bởi lẽ khi xuất hoá đơn, các hàng hoá, dịch vụ đã được coi như chuyển giao, cung ứng cho
khách hàng, khách hàng có thể thanh toán ngay hoặc trả chậm tuỳ thuộc vào sự thoả thuận.
Thêm vào đó, tại thời điểm xuất hoá đơn, GTGT của hàng hoá, dịch vụ đã được xác định, do
đó nghĩa vụ thuế GTGT mặc nhiên phát sinh.
Về đối tượng được khấu trừ và hoàn thuế GTGT:
Mở rộng đối tượng chịu thuế, thu hẹp diện không chịu thuế VAT bằng cách chuyển
một số hàng hóa, dịch vụ sang diện chịu thuế hoặc loại bỏ một số hàng hóa, dịch vụ không
thuộc diện chịu thuế.
Bỏ khoản 25, Điều 5, Luật Thuế GTGT: “Hàng hóa, dịch vụ của cá nhân kinh doanh
có mức thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với tổ
chức, doanh nghiệp trong nước” vì khó áp dụng, thiếu tính thực tế.
Về khấu trừ thuế, chúng tôi kiến nghị nên huỷ bỏ qui định về khấu trừ thuế theo
tỷ lệ % đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào không có hoá đơn GTGT. Quy định rõ việc

14
không áp dụng thuế suất 0% đối với một số sản phẩm dịch vụ của các doanh nghiệp nội
địa cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất.
Pháp luật thuế GTGT nên có những sửa đổi theo hướng thu hẹp các đối tượng được
hoàn thuế.
Cuối cùng, cần tiến hành phân loại đối tượng khấu trừ, hoàn thuế theo những tiêu chí
về sự tình tuân thủ qui định pháp luật về khấu trừ, hoàn thuế. Tương ứng với từng đối tượng
sẽ qui định thời gian xem xét, kiểm tra hồ sơ hoàn thuế.
Về quy trình, thời hạn khấu trừ và hoàn thuế GTGT:
Pháp luật cần quy định theo hướng không nên hạn chế thời gian doanh nghiệp được
khấu trừ thuế đầu vào.
Quy trình hoàn thuế được xây dựng dựa trên luật thuế GTGT. Sửa đổi quy trình hoàn
thuế đòi hỏi phải sửa đổi luật thuế GTGT. Trước mắt, cần thực hiện những vấn đề sau:
- Nên xây dựng một qui trình hoàn thuế hợp lý, đặc biệt trong đó phân định nghĩa vụ,
trách nhiệm một cách minh bạch, rõ ràng của nhân viên cơ quan thuế trong công tác hoàn

thuế.
- Qui trình hoàn thuế GTGT dựa trên quan điểm doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo cơ
chế tự khai báo thuế và tự nộp thuế; doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về tính trung thực về số
thuế đã nộp.
- Tiếp tục thay đổi việc hoàn thuế bởi hoàn thuế hợp lý vừa tạo điều kiện thuận lợi cho
DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh lại vừa tạo ra hiệu quả đối với ngành thuế trong quá
trình hành thu.
- Khấu trừ khống: nên bỏ khấu trừ khống.
Đối với các quy định về hóa đơn trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT:
Pháp luật nên bỏ qui định khấu trừ thuế VAT đối với các hóa đơn, chứng từ kê khai
quá thời hạn 6 tháng.
Kiến nghị khác đối với Luật thuế GTGT:
- Luật thuế GTGT nên có điều luật về giải thích từ ngữ để tránh tình trạng có các cách
hiểu và vận dụng khác nhau về cùng một vấn đề: Thanh toán qua ngân hàng, …
- Luật thuế GTGT sửa đổi nên quy định hoạt động chịu thuế GTGT là các hoạt động
chuyển giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ ở Việt Nam của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh, nhập khẩu hàng hoá thay vì đối tượng chịu thuế theo Luật hiện hành
- Có qui định phù hợp để xử lý các trường hợp chiếm đoạt tài sản của Nhà nước bằng
hình thức khấu trừ thuế, hoàn thuế, các trường hợp không thực hiện nhiệm vụ thu thuế hoặc
thực hiện không đầy đủ.
2.2.2. Kiến nghị đối với các văn bản pháp luật khác có liên quan
Đề xuất sửa đổi Pháp lệnh điều tra vụ án hình sự, bổ sung chức năng điều tra, khởi tố
các vụ án hình sự trong lĩnh vực thuế để cơ quan thuế chủ động trong công tác quản lý thuế,
đẩy mạnh kỷ cương, ý thức chấp hành pháp luật thuế của các đối tượng nộp thuế.
2.2.3. Các kiến nghị khác
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế, phát hiện và xử lý kịp thời các
trường hợp vi phạm hoàn thuế GTGT: tổ chức lại bộ máy quản lý thuế, qui định rõ trách
nhiệm cán bộ thuế trong việc xử lý hoàn thuế, tăng cường cán bộ có trình độ nghiệp vụ, phẩm
chất đạo đức tốt làm công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế, tổ chức tập huấn thanh tra sau
hoàn thuế.

Đề xuất ban hành qui định nghiệp vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp, cá nhân phải
được thực hiện theo phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua hệ thống ngân
hàng.
Khẩn trương xây dựng mạng vi tính toàn quốc về việc quản lý, sử dụng hoá đơn phục
vụ việc đối chiếu chéo hoá đơn nhằm đảm bảo tính kịp thời, chính xác trong kê khai khấu trừ

15
thuế, nộp thuế của các tổ chức, cá nhân trong toàn quốc, khắc phục tình trạng đối chiếu thủ
công, hạn chế tới mức thấp nhất sự thất thoát về thuế.
Phối hợp với các Bộ, ngành, các địa phương trong việc thực hiện các biện pháp tăng
cường quản lý hoàn thuế GTGT.
Cần ban hành cơ chế hoàn thuế mới, trong đó áp dụng đồng thời cả hai cơ chế: “hoàn
trước, kiểm sau” và “kiểm trước, hoàn sau”.


16
KẾT LUẬN

Kể từ khi ban hành cho đến nay, thuế giá trị gia tăng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt
của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh lớn và nhỏ. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
những cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam rất lớn. Để giúp các doanh
nghiệp có thể đứng vững trên thương trường và cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước
ngoài, để các sản phẩm của doanh nghiệp được người tiêu dùng ưa chuộng, đòi hỏi chính
sách, pháp luật thương mại nói chung, pháp luật thuế nói riêng của Việt Nam phải có những
sửa đổi cơ bản, hướng tới các mục tiêu minh bạch, hiệu quả, công bằng, đảm bảo các nguyên
tắc của WTO. Đặc biệt đối với Luật thuế GTGT, nếu chúng ta sửa không khéo sẽ làm nảy
sinh những tác động tiêu cực của thuế GTGT đối với hoạt động thương mại, ảnh hưởng tới
môi trường đầu tư, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế, sẽ làm
thất thoát số tiền rất lớn của ngân sách nhà nước.
Trong phạm vi một Luận văn, bằng những kiến thức, lập luận của cá nhân và dựa trên

các nguồn tài liệu tham khảo, Luận văn tập trung đi sâu vào khai thác những vấn đề lý luận và
pháp luật hiện hành về khấu trừ và hoàn thuế GTGT tại Việt Nam, qua đó Luận văn cũng đi
sâu vào đánh giá, chỉ ra những bất cập, hạn chế ở khía cạnh các quy định pháp luật và có
những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế
GTGT nói riêng, pháp luật về thuế GTGT nói chung.
Mặc dù luận văn đã cố gắnng đưa ra những cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật
và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về khấu trừ, hoàn thuế GTGT tại Việt nam hiện nay.
Nhưng do kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn và trong phạm vi một luận văn thạc sĩ
không thể giải quyết thấu đáo, đầy đủ mọi vấn đề, do vậy luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế . Rất mong nhận được sự quan tâm, đánh giá để luận văn này thực sự mang
tính khoa học.

References
Tài liệu Tiếng Việt:
1. Bộ Tài chính (1993), Mô hình áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (1994), Thuế GTGT và vấn đề áp dụng tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
3. Bộ Tài chính (1999), Báo cáo việc triển khai thực hiện các luật thuế mới trong 9 tháng
đầu năm 1999, Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (2008), Cải cách cơ cấu thu ngân sách, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2007), Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14 tháng 6 năm 2007 của Bộ
Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế 2006 và hướng dẫn thi
hành Nghị đinh số 85/2007/NĐ-CP.
6. Bộ Tài chính (2008), Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành
Nghị định số 123/2008/NĐ-CP.
7. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 04/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 13 tháng 01
năm 2009 hướng dẫn thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số
30/2008/NQ-CP 11/12/2008 của Chính phủ.

8. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 28 /2011/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 28 tháng 02
năm 2011 Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi
hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định số 106/2010/NĐ-
CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ.
9. C.Mác – Ph. Ăngghen (1962), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội;
10. Lê Đình Chân (1973), Tài chánh công, Nxb Luật khoa Đại học Sài Gòn.

17
11. Chính phủ (2007), Nghị định số 85/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 5 năm
2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.
12. Chính phủ (2008), Nghị định số 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 8 tháng 12 năm
2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng.
13. Nguyễn Văn Dậu (2001), “Thuế GTGT cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện”, Tạp chí
thuế nhà nước (số 1), tr.10-15.
14. Nguyễn Thị Dung (2000), Hoàn thuế GTGT – thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ
khoa học kinh tế, Trường Đại học Tài chính – Kế toán Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991, 1996, 2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII,VIII, IX, Nxb Sự thật, Hà Nội
16. Trần Thị Minh Hiền (2006), Pháp luật về thuế GTGT ở Việt Nam – Thực trạng và
hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội.
17. Trần Hải Hiệp (Tháng 1/2003), Kỷ yếu hội thảo khoa học “Gian lận trong khấu trừ
thuế, hoàn thuế và hướng hoàn thiện thuế GTGT trong tiến trình hội nhập AFTA
(CEPT)”, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, tr.1-4.
18. Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Việt Cường (chủ biên) (2007), “cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế và
những vấn đề đặt ra ở Việt Nam”, Nxb Tài chính, Hà Nội.
19. Học viện Tài chính (2009), Giáo trình thuế, Nxb Tài chính, Hà Nội.
20. Đàm Văn Huệ (2004), Hoàn thiện những điều kiện áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế.
21. Nguyễn Thị Thương Huyền (2002), Những vấn đề pháp lý về việc áp dụng thuế GTGT ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế.

22. Khoa Kinh tế, Đại học Công nghiệp Đồng Nai (2009), Chuyên đề thuế và quản lý thuế
nâng cao.
23. Lê Thị Bích Liên (2001), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật thuế GTGT ở
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, trường ĐH Luật Hà Nội.
24. Nguyễn Kim Thái Linh (2010), Hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, trường ĐH Quốc gia Hà Nội.
25. Báo Lao động, (số 272), ngày 28 tháng 11 năm 2010, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội,
tr.4,5, 41-43.
26. Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10, ngày 29
tháng 11 năm 2006.
27. Luật Thuế Giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, ngày
03 tháng 6 năm 2008.
28. Bùi Công Quang (2006), Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học.
29. Phan Anh Thông, “Một số ý kiến góp ý cho dự thảo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế giá trị gia tăng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử, cập nhật ngày 04/3/2008,
link:
vibonline.com.vn/viVN/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=1886.
30. Tổng Cục thuế (1993), Báo cáo về thuế GTGT ở các nước Pháp, Thụy Điển, Trung
Quốc, Hà Nội.
31. Tổng cục thuế (2003), Thuế giá trị gia tăng, Hà Nội.
32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật Tài chính ngân hàng, Nxb Công
an nhân dân.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, 2008.
34. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2002), Giáo trình Luật Tài chính Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
35. Trường Đại học Tài chính – kế toán Hà nội (2000), Giáo trình thuế, Nxb Tài chính.

18

36. Đỗ Thị Thìn (1996), “Thuế suất thuế giá trị gia tăng”, Tạp chí Tài chính, (số 9).
37. Lê Thị Thu Thủy (2011), “Luật thuế GTGT nên sửa đổi theo hướng nào?”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, tr.2-4.
38. Nguyễn Đình Vũ (1998), “Cải cách thuế ở Việt Nam”, Tạp chí tài chính, (số 9).
Tài liệu Tiếng Anh:
39. “Value Added Tax (VAT) Definition”, Economywatch, link:

40. “VAT in Thailand”, Asia Business, Trade & Publishing Post, link:


×