Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Triết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.5 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Vấn đề dân tộc là một nội dung có ý nghĩa chiến lược của chủ nghĩa MácLênin và của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải được giải quyết một cách
đúng đắn và thận trọng. Dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về
vấn đề dân tộc; dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách
mạng thế giới và cách mạng Nga, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh dân tộc. Trong đó
nên rõ “Các dân tộc hồn tồn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên
hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc “các dân
tộc được quyền tự quyết”, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra những chủ
trương, chính sách phù hợp để giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta cũng như
trong mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới. Để hiểu
kỹ hơn về vấn đề này, em xin được phép chọn và phân tích đề 11: Nguyên tắc
“Các dân tộc được quyền tự quyết” trong cương lĩnh dân tộc của Lê Nin và sự
vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam.

2


NỘI DUNG
Chương 1: Cương lĩnh dân tộc của Lê Nin
1.1.

Khái niệm dân tộc:

Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai
nghĩa phổ biến nhất:
Một là, chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh


hoạt kinh tế chung, có ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù; xuất hiện
sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc,
bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân dư cộng đồng đó. Dân
tộc là một bộ phận của quốc gia, là cộng động xã hội theo nghĩa các tộc người,
ví dụ: Dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc Mường....
Hai là, chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước,
có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch
sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Ở đây, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc
gia đó (quốc gia dân tộc), ví dụ: Quốc gia Ấn Độ, quốc gia Trung Hoa, quốc gia
Việt Nam,...
Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc và biểu hiện của
hai xu hướng đó trong thời đại hiện nay
Xu hướng thứ nhất, ở những quốc gia, khu vực tư bản chủ nghĩa gồm
nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc dân tộc người khác nhau làm ăn, sinh
sống.
Đến một thời kỳ nào đó, sự trưởng thành của ý thức mà các cộng đồng dân cư
đó muốn tách ra khỏi nhau để thành lập các dân tộc độc lập. Bởi theo họ, chỉ
trong cộng đồng độc lập dân tộc đó, họ mới có quyền quyết định vận mệnh của
mình mà cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát
triển của dân tộc mình. Trong thực tế, xu hướng này phát triển thành phong trào
đấu tranh chống áp bức dân tộc để đi tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
1.2.

3



Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí, các dân tộc
ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã
hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc,
tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các
dân tộc xích lại gần nhau. Xu hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai
đoạn đế quốc.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin đang phát
huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa
dạng.
Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu
hướng thứ nhất biểu hiện sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và phồn
vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ
để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hịa hợp với
nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống; Sự xích lại gần nhau
trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân
tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh. Sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc
trong cùng quốc gia có nghĩa là những tinh hoa, những giá trị của các dân tộc đó
thâm nhập vào nhau, bổ sung, hòa quyện vào nhau để tạo thành những giá trị
chung. Tuy nhiên, sự hịa quyện đó khơng xóa bỏ sắc thái của từng dân tộc,
khơng xóa nhịa những đặc thù dân tộc; ngược lại, nó bảo lưu, gìn giữ và phát
huy những tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc.
Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể
hiện rất nổi bật: Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy,
xóa bỏ ách đơ hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh
của dân tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường
phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Bên cạnh đó cịn
có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần nhau, liên kết với nhau để trở thành
một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã được hình thành tong lịch sử. Đặc
biệt vào những năm 90 của thế kỷ XX, xu hướng “tập đồn hóa” ở các khu vực

của thế giới tăng lên rõ rệt khơng chỉ do tác động của lợi ích kinh tế mà cịn do
thúc đẩy của các lợi ích chính trị. Hơn nữa, sự liên minh đó cịn tạo nên sức hút
4


trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại
như: chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường
sinh thái, khắc phục nạn đói, …
1.3.

Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc
Trong vấn để dân tộc, cương lĩnh của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu ra ba

nội dung chủ yếu: các dân tộc hồn tồn bình đẳng, các dân tộc có quyền tự
quyết và liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp
bức dân tộc và xây dựng mối quan hệ mới giữa các dân tộc.
Các dân tộc hoàn tồn bình đẳng: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là
quyền thiêng liêng của tất cả các dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù người đơng hay
ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như
nhau, khơng có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngơn ngữ cho
bất cứ dân tộc nào. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa
các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế,
trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa
giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản; Trong quan hệ giữa các
quốc gia, dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều
bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm

chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trịxã hội của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập
thành cộng đồng quốc gia, dân tộc (vì lợi ích của các dân tộc chứ khơng phải
mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với
các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết
của dân tộc, cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân; ủng hộ các
phong trào tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng
quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ các
nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
5


Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản
trong “Cương lĩnh dân tộc” của V.I.Lênin. Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất
quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào cơng nhân và phản ánh tính thống
nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đồn kết giai
cấp cơng nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Nó có vai trị quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân
tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh
bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

Chương 2: Sự vận dụng nguyên tắc “Các dân tộc được quyền tự quyết
” của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
2.1. Khái niệm dân tộc ở nước ta:
Hiện nay chúng ta đang sử dụng thuật ngữ dân tộc đa số và dân tộc thiểu
số. Dân tộc đa số là dân tộc có số người đông nhất trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, tức là dân tộc Kinh (Việt). Dân tộc thiểu số, thuật ngữ này không
đồng nghĩa với dân tộc chậm phát triển, càng khơng phải là dân tộc lạc hậu.
Khái niệm đó là chỉ những dân tộc có số người ít hơn so với dân tộc đa số.
Dân tộc Việt Nam hoặc cộng đồng các dân tộc Việt Nam được dùng để chỉ

tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, có quốc tịch Việt
Nam, khơng phân biệt nguồn gốc. Khái niệm này đồng nghĩa với quốc gia đa
dân tộc hay còn gọi là quốc gia - dân tộc.
2.2. Khái quát tình hình dân tộc nước ta:
a. Cộng đồng các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam:
Nước ta gồm 54 dân tộc, dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 87%
dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số. Một số dân tộc thiểu số có số dân
đơng: Tày, Thái, Mường, Khơ Me, Mơng, Dao,...Đồng bảo các dân tộc thiểu số
ở nước ta cư trú trên địa bàn rộng lớn chiếm ¾ diện tích đất nước, chủ yếu là
miền núi, trên toàn tuyến biên giới, một số đồng bằng và hải đảo. Ở nhiều tỉnh
như Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Yên Bái..., các dân tộc thiểu số chiếm hơn
70% dân số, trong đó có Cao Bằng khoảng 92%. Tình trạng cư trí xen kẽ là một
6


trong những nét nổi bật trong tình hình dân tộc ở Việt Nam và hiện nay đang
ngày càng tăng.
Xuất phát từ tình hình, đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng và
Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân tộc và xem xét nó
như vấn đề xã hội- chính trị rộng lớn, tồn diện gắn liền với các mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
b. Mối quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam hiện nay:
Tuy gồm 54 dân tộc, nhưng yếu tố liên kết tạo nên tính cộng đồng chung
– cộng đồng các dân tộc, cộng động quốc gia – đã đạt tới mức độ bên vừng.
Tính cộng đồng đó được hình thành, củng cố trong một quá trình lịch sử lâu dài,
người của dân tộc nào cũng ý thức được mình là người Việt Nam, non sơng, đất
nước đã từ lâu trở thành một dải, một lãnh thổ chung với biểu tượng thiêng liêng
là Tổ Quốc.
Trên cơ sở lòng tự hào của mỗi người thuộc từng dân tộc về cộng đồng
dân tộc Việt Nam nói chung đã hình thành một chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

truyền thống. Thực tế cho thấy chỉ có chủ nghĩa yêu nước mới có thể là ngọn cờ
đoàn kết các dân tộc anh em khác nhau về trình độ phát triển, địa bàn cư trú về
điều kiện mơi trường, sinh thái, ngơn ngữ, tín ngưỡng tơn giáo,.. có thể chung
sống tương thân tương ái, hướng vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Tính cộng đồng trên đây làm cho các dân tộc ở nước ta gắn bó chặt chẽ
với nhau theo một xu thế và một con đường phát triển chung. Tác động qua lại,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc tạo nên động lực cực kì to lớn, giúp đỡ các
dân tộc thiếu số cịn ở trình độ lạc hậu có điều kiện phát triển theo bước đi
chung của cả nước.
Tuy nhiên, trong cộng đơng các dân tộc cũng cịn những nét khác biệt làm
rõ ranh giới của mỗi dân tộc phân biệt với các dân tộc khác. Về kinh tế, có
những dân tộc đã tiến tới trình độ kinh tế tiền tư bản, nhưng cũng có những dân
tộc mới chỉ trải qua nền kinh tế hái lượm để bước đầu chuyển sang nên kinh tế
sản xuất với cơng cụ cịn rất thơ sơ. Về xã hội, có những dân tộc đã đạt tới mức
độ phân hóa giai cấp sâu sắc, nhưng cũng có những dân tộc mới chỉ ở thời kỳ
7


đầu của một xã hội có giai cấp, tức là gần tương ứng với giai đoạn cuối cùng của
xã hội công xã nguyên thủy.. Về ngôn ngữ, các dân tộc nước ta đề có tiếng nói
riêng – “tiếng mẹ đẻ” và đến nay đã có 26 dân tộc có chữ viết. Sở dĩ, xảy ra tình
trạng phát triển khơng đồng đều đó là do những nguyên nhân tự nhiên (điều kiện
địa lý, khí hâu), nguyên nhân lịch sử (hậu quả chính sách cai trị và do cả những
thiếu sót của Đảng và Nhà nước ta trong việc hoạch định và thực hiện chính
sách dân tộc.
2.3. Thực tiễn việc vận dụng nguyên tắc “các dân tộc được quyền tự quyết ”
của Đảng và Nhà nước trong tiến trình Cách mạng Việt Nam hiện nay.
a.

Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam:

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn

quan tâm đến vấn đề dân tộc, nhất là vấn đề tự quyết của các dân tộc trong
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của mình. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) khẳng định một trong những phương hướng cơ bản cần thực hiện tốt đó
là: “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.”
Trong xu thế tồn cầu hóa, các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau, có
quan hệ hợp tác ngày càng rộng rãi và chặt chẽ, đồng thời phụ thuộc lẫn nhau
về kinh tế sẽ càng khiến cho giá trị của độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết
cần được khẳng định hơn bao giờ hết. Với tư cách là một “quốc gia - dân tộc” có
chủ quyền, chủ thể của pháp luật quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn
nhận thức đúng đắn vấn đề thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Trong Hiến pháp
năm 2013, quyền dân tộc tự quyết tiếp tục được khẳng định “Tổ quốc Việt Nam
là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc đều bị nghiêm trị” (Điều 11). Hơn nữa, với vai trò là thành viên của các
điều ước quốc tế, thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, Việt Nam
ln thể hiện trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm thực thi các quyền con
người, trong đó quyền của các dân tộc thiểu số ln được tôn trọng và bảo đảm
thực hiện, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
8


Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là
tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân
tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình;

Nhà nước thực hiện chính sách phát triển tồn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (Điều 5).
Bên cạnh đó, các quy định về quyền tự quyết của các dân tộc cịn được
thể chế hóa bằng chế định về Hội đồng Dân tộc, với nhiệm vụ nghiên cứu và
kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi
hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Trong Chính phủ có một cơ
quan cấp bộ là Uỷ ban Dân tộc, chuyên trách công tác dân tộc.
Về phát triển kinh tế, xã hội: Trong những năm qua, Nhà nước đã dành
nhiều ưu tiên trong triển khai các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều chương trình đã đem lại nhiều hiệu quả thiết
thực như chương trình 135 (giai đoạn 2) về Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc
biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa;
chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu
số…
Về phát triển văn hóa, giáo dục: Tơn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa,
ngơn ngữ, tập quán, tín ngưỡng các đồng bào các dân tộc. Thực hiện và đảm bảo
về mặt pháp lý quyền bình đẳng giữa các ngôn ngữ trên lãnh thổ Việt Nam chính
là tạo điều kiện cho các dân tộc thực hiện quyền tự quyền của mình; đồng thời
có chính sách tích cực để phổ biến nhanh chóng và sâu rộng ở trình độ cao ngơn
ngữ phổ thơng – Tiếng Việt trong các dân tộc thiểu số ở nước ta.
b.

Thành tựu
Nhờ việc thực hiện tốt những chính sách trên đã góp phần tích cực nâng

cao đời sống các dân tộc, quyền tự quyết của các dân tộc ngày càng được thể
chế hóa và thực hiện trên thực tế các lĩnh vực của đời sống.

9



Về chính trị: Nhờ những chính sách và chủ trương đúng đắn của Đảng và



Nhà nước, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, giai cấp, dân
tộc, ... đã ln thể hiện tinh thần đồn kết, hịa hợp, tạo nên sức mạnh to
lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về kinh tế, xã hội: Tình hình kinh tế, xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc



thiểu số và miền núi được cải thiện rõ rệt. Chất lượng cuộc sống của người
dân tộc thiểu số cũng từng bước được cải thiện. Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho
việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của đồng bào được đầu tư xây dựng.
Về văn hóa, giáo dục: Trên thực tế, đời sống văn hóa, tinh thần của đồng



bào các dân tộc trong những năm qua được cải thiện rõ rệt, mức thụ hưởng
văn hóa được nâng cao. Nhiều nét văn hóa các dân tộc thiểu số được bảo
tồn, phát triển, được công nhận là di sản văn hóa thế giới như: “Khơng gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”. Đến nay, các chương trình phát thanh,
truyền hình bằng cả tiếng Việt và 26 thứ tiếng Dân tộc được phát sóng mở
rộng tới các bản làng xa xơi; Bên cạnh đó, cơng tác giáo dục và đào tạo,
nâng cao dân trí ở vùng có đơng người dân tộc thiểu số sinh sống cũng đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề; các loại hình trường nội trú, bán trú, dự
bị đại học dân tộc tại vùng có đông dân tộc thiểu số đều đều được đầu tư

xây dựng.
Với những chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng bào dân tộc thiểu số
ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi để vươn lên phát triển về mọi mặt, đóng
góp nhiều hơn vào sự nghiệp chung của đất nước. Từ đó họ càng thêm tin tưởng
và ủng hộ chính quyền, đoàn kết chống lại những âm mưu của các lực lượng thù
địch trong và ngồi nước.
c.

Hạn chế:
Thứ nhất, có những chính sách của Nhà nước chưa thực sự hiệu quả, chưa

đi vào đời sống người dân. nhiều chính sách phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn
đến định mức không cịn phù hợp với thực tế; có chính sách do huy động nhiều
nguồn vốn, khi cấp vốn không đồng bộ dẫn đến khó khăn trong triển khai thực
hiện.
10


Thứ hai, an ninh, trật tự an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi nhất là các vùng biên giới còn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn
định. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh nhiều hoạt động phá hoại khối đại
đồn kết tồn dân tộc; lợi dụng “dân tộc”, “tơn giáo”, “nhân quyền”, tình hình
đời sống cịn khó khăn, hạn chế thơng tin kích động lơi kéo gây mất ổn định
chính trị, xã hội.
Thứ ba, ở vùng dân tộc và miền núi, kinh tế chậm phát triển so với tiềm
năng của vùng và phát triển chưa vững chắc. Chênh lệch về thu nhập và đời
sống của đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi so với vùng đồng bằng ngày càng
gia tăng; đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số cịn rất khó khăn. Bên cạnh đó,
chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực cịn thấp.
Thứ tư, văn hố các dân tộc thiểu số có nguy cơ bị mai một, mất dần bản

sắc; tình trạng pha tạp, biến thái trong các hoạt động văn hóa, lối sống ngày càng
rõ nét; mức độ thụ hưởng văn hóa của người dân còn hạn chế, tệ nạn xã hội diễn
biến phức tạp.
2.4. Một số phương hướng cơ bản để vận dụng tốt nguyên tắc quyền dân tộc
tự quyết trong đường lối chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Thứ nhất, cần đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp
với nhiệm vụ trong tình hình mới. Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề
chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách
mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân
dân, phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan âm mưu phá hoại của các thế
lực thù địch; tăng cường công tác an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội,
khơng để xảy ra những điểm “nóng’’ về an ninh trật tự xã hội ở vùng dân tộc và
miền núi. Thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng và tơn giáo ở vùng dân tộc và

11


miền núi; kiên quyết ngăn chặn việc lợi dụng chính sách tự do tơn giáo, tự do tín
ngưỡng để phá hoại khối đại đồn kết tồn dân.
Thứ ba, tơn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngơn ngữ, tập qn, tín
ngưỡng, của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị
dân tộc và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc
thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
Thứ tư, đẩy mạnh cơng tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của
đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa
để rút ngắn dần sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc với nhau.

Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các chương trình
giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo, mở rộng
việc dạy chữ dân tộc. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở
vùng dân tộc, tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em
các dân tộc vào học tại các trường đại học và cao đẳng.
Thứ năm, đối với chính sách dân tộc trong quan hệ quốc tế: Các thế lực
chống đối ra sức thông qua hoạt động đối ngoại để can thiệp vào cơng việc nội
bộ của ta. Vì vậy, phải luôn kiên định trong việc giữ vững độc lập, chủ quyền
quốc gia. Bên cạnh đó, trong thời kỳ hội nhập, phát triển sâu rộng với các nước
trên thế giới, có thể trao đổi văn hóa dân tộc, giao lưu hiểu biết lẫn nhau nhưng
không thể đánh mất bản sắc riêng của mình. Chúng ta cần tiếp thu văn hóa thế
giới nhưng đừng bị “Tây hóa” đời sống tinh thần, tiếp nhận tinh hoa nhân loại
mà vẫn giữ được giá trị truyền thống, nét đặc sắc riêng của dân tộc, “hịa nhập
chứ khơng hịa tan”.

12


KẾT LUẬN
Như vậy, “Cương lĩnh dân tộc” của Lênin là một bộ phận trong cương
lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối,
chính sách dân tộc của các Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vận
dụng nguyên tắc “Các dân tộc được quyền tự quyết” trong bản cương lĩnh này,
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với tình
hình mới của đất nước và thế giới. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được
vẫn cịn những hạn chế và khó khăn. Đặc biệt là vấn đề an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội, đoàn kết các dân tộc trong nước và vấn đề đoàn kết quốc tế. Các
dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục đồng lòng tiến tới xây
dựng thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh” đồng thời luôn coi trọng mối quan hệ với các quốc gia khác trong khu
vực cũng như trên thế giới, góp phần vào sự ổn định, hịa bình và phát triển của
thế giới.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tài liệu tham khảo sách, báo, tạp chí:
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị quốc gia.
2. Giáo trình những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB

Chính trị quốc gia.
 Tài liệu số:
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), – Xây
Dựng Đảng, />
NUOC-TRONG-THOI-KY-QUA-DO-LEN.aspx.
Trần Nam Tiến, Quyền dân tộc tự quyết (Self-determination),
– Nghiên cứu quốc tế,
/>
3.

determination/.
Báo QĐND, Không thể đánh đồng quyền dân tộc tự quyết và quyền của
dân tộc thiểu số, – Bắc Giang,
/>
4.


quyen-dan-toc-tu-quyet-va-quyen-cua-dan-toc-thieu-so.html.
Phan Công Tuyên, Mặt trận Dân tộc thống nhất, một nhân tố thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, – Thừa Thiên Huế
online,

5.

/>
nhan-to-thang-loi-cua-cach-mang-viet-nam-a18096.html.
Ths. Lừ Văn Tuyên, Quyền dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc
thiểu số theo pháp luật quốc tế và Việt Nam, – BAN
NỘI

CHÍNH

TRUNG

ƯƠNG,

/>
lieu/201612/quyen-dan-toc-tu-quyet-va-quyen-cua-cac-dan-toc-thieu-so6.

theo-phap-luat-quoc-te-va-viet-nam-301719/.
Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Kiên quyết bảo vệ
thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc, – Nhân dân điện tử,
/>

thanh-qua-cach-mang-giu-gin-doc-lap-tu-do-va-toan-ven-lanh-tho-thienglieng-cua-to-quoc-%E2%98%85.html.


15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×