Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.17 KB, 22 trang )

Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan
hệ pháp luật

Nguyễn Văn Lâm

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến quan hệ pháp luật,
chủ thể quan hệ pháp luật và các loại hình chủ thể quan hệ pháp luật. Nêu và phân tích
mô hình học thuyết về pháp nhân đã hình thành và phát triển trên thế giới. Nghiên cứu
cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển pháp nhân căn cứ vào quyền tự do ý chí
và quyền tự do lập hội của công dân. Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp
nhân của các nước trên thế giới và quá trình du nhập vào Việt Nam. Đánh giá thực
trạng hệ thống pháp luật về pháp nhân và tư cách pháp nhân của một tổ chức từ việc
phân tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá trình thực thi pháp luật. Kiến nghị
một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về pháp nhân.

Keywords: Pháp luật Việt Nam; Pháp nhân; Hệ thống pháp luật; Con người

Content
MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế quốc
tế. Chúng ta đang từng bước gỡ bỏ rào cản về thủ tục hành chính, thuế quan…Các doanh
nghiệp trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia hùng
mạnh trên thế giới, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Hiện nay, khu vực kinh tế dân doanh là khu vực phát triển nhanh nhất và tạo ra công ăn việc


làm mới nhiều nhất cho nền kinh tế, và sẽ là động lực chủ yếu và bền vững cho tăng trưởng
dài hạn của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Nâng cao hiệu quả của quản lý nhà
nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các chủ thể kinh doanh nói riêng và chủ thể
các quan hệ pháp luật nói chung sẽ là một điều kiện then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát
triển nền kinh tế.
Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài chủ thể là thể nhân – con người
cụ thể hoặc chủ thể được coi như thể nhân còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể
là pháp nhân. Pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể quan hệ pháp luật độc lập
với các chủ thể khác và thành viên của pháp nhân, pháp nhân ra đời đáp ứng điều kiện của đời
sống xã hội và hoạt động lập pháp. Ngày nay, các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ thể

2
chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nước trên cơ sở nhà nước tôn
trọng quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân.
Ở Việt Nam, có thể nhận định rằng trong các quy định pháp luật hiện hành, chưa thấy
một học thuyết xuyên suốt về pháp nhân, các quy định pháp luật chưa thống nhất, thiếu lôgic,
dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn, rời rạc giữa luật chung và các luật chuyên ngành. Trong
khi đó, những người thực thi pháp luật, các nhà nghiên cứu pháp luật còn nhiều điểm chưa
thống nhất về các đặc trưng cơ bản làm tiêu chí để xác định tư cách pháp nhân của tổ chức,
cũng như các quyền và nghĩa vụ khi pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật dân sự, kinh
tế, hình sự. Chế định về đại diện pháp nhân tham gia các giao dịch vẫn còn chưa rõ ràng.
Thực tế cho thấy, việc phân định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân và trách nhiệm của
những người đứng đầu pháp nhân chưa rõ ràng trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Bộ luật
dân sự được xây dựng không dựa trên nền tảng lý luận khoa học pháp lý về pháp nhân một
cách vững chắc, làm cơ sở cho việc xây dựng những luật chuyên ngành trước những đòi hỏi
của thực tiễn xã hội.
Hiện nay, các công trình nghiên cứu trong nước chưa có công trình nào tiếp cận pháp
nhân từ ý nghĩa các học thuyết pháp nhân, và mô hình pháp nhân trong các quy phạm pháp
luật. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào một hoặc vài vấn đề thực trạng pháp
luật quy định về pháp nhân, mà chưa nhìn nhận toàn diện thực trạng của pháp nhân trong hệ

thống pháp luật để tìm ra nguyên nhân tồn tại, hạn chế và có các định hướng, giải pháp hoàn
thiện cho chế định pháp nhân hiện nay.
Với mục đích tiếp cận pháp nhân trên cơ sở nghiên cứu toàn diện các mặt về lý luận
và thực tiễn quy định của pháp luật ở Việt Nam, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu vấn đề“Pháp
nhân trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định về pháp nhân đã được hình thành từ khá sớm trong lịch sử, và dần trở thành
nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Bên cạnh chủ thể quan hệ
pháp luật là cá nhân, pháp nhân là chủ thể do tạo ra do đòi hỏi cần đáp ứng các hoạt động của
con người khi nền kinh tế xã hội phát triển. Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
quan hệ pháp luật, chủ thể quan hệ pháp luật và pháp nhân làm tiền đề lý luận cho các quy
định pháp luật phù hợp với đời sống thực tiễn hơn.
Tình hình nghiên cứu về quan hệ pháp luật và các chủ thể quan hệ pháp luật ở nước ta
cho thấy hoạt động nghiên cứu quan hệ pháp luật nói chung chưa có nhiều và chưa mang tính
chuyên sâu. Có thể nêu lên một số tài liệu như: Chương "Quan hệ pháp luật" trong cuốn
chuyên khảo: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật của GS.TSKH Đào Trí Úc; "Quan hệ
pháp luật xã hội chủ nghĩa" của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Dân chủ pháp luật, số 12-
1996, số 2-1997; "Một số vấn đề về quan hệ pháp luật" của GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp
chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 2-1999; "Sự kết hợp các lợi ích xã hội trong
việc qui định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật" PGS.TS Võ
Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12-2002. Năm 2010, PGS, TS Nguyễn Ngọc
Điện viết cuốn sách tham khảo về “Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự”, do nhà xuất bản chính
trị 2010 đã đưa ra các khía cạnh pháp lý của các chủ thể là cá nhân, pháp nhân, và các chủ thể
không phải là pháp nhân trong quan hệ pháp luật dân sự.

3
Ngay từ thời Pháp thuộc, các nhà luật học đã nghiên cứu về các học thuyết pháp nhân,
tìm ra các đặc tính của pháp nhân. Tiêu biểu là các tác giả như: Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật
khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản; Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ

quốc gia giáo dục xuất bản. Gần đây, có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cương (2001),
Pháp nhân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc Bích- Nguyễn Đình
Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí Thức 2008; Lê Việt Anh (2008),
Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, TCNCLP số 113, tháng 1/2008; TS Phạm Hồng
Hải (1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, tạp chí Luật học số 6 năm
1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ (2009), vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp
nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày
20/03/2009. Các công trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề cơ bản của
pháp nhân, và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, và những hoàn thiện
trong mô hình pháp nhân của công ty hợp danh.
Tuy vậy, chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, mang tính hệ
thống liên quan đến các quy định pháp luật về pháp nhân và mô hình pháp nhân trong các
quan hệ pháp luật. Vì thế, tác giả luận văn này, mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra
những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp luật về pháp nhân và định
hướng, đưa ra giải pháp toàn diện để hoàn thiện chế định này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, pháp luật Việt Nam về pháp nhân được quy định tại các ngành luật khác
nhau, bao quát các quan hệ pháp luật trong đời sống xã hội. Vì thế, khi nhắc đến pháp nhân
với tư cách chủ thể quan hệ pháp luật người ta thường nhắc đến đầu tiên trong pháp luật dân
sự theo nghĩa rộng bao gồm cả pháp luật kinh doanh, thương mại; bên cạnh đó, là những lĩnh
vực luật chuyên ngành điều chỉnh quan hệ pháp luật của chủ thể pháp nhân mang tính đặc thù
hơn. Ngoài ra, pháp nhân trong lĩnh vực công cũng chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, của lĩnh
vực luật hành chính.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý của mô hình
pháp nhân trong lĩnh vực tư hay còn gọi pháp nhân tư pháp, bởi pháp nhân tư pháp tham gia
vào hầu hết các quan hệ xã hội và góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội hiện
đại ngày nay. Trong luận văn, tác giả cũng đề cập đến vấn đề của các pháp nhân công pháp
chỉ với mục đích đơn thuần nhằm làm rõ thêm thực trạng pháp luật của Việt Nam về pháp
nhân.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận, dựa trên những chủ trương, đường lối và
chính sách xây dựng kinh tế - xã hội hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện. Luận văn
đặt mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận về các học thuyết về pháp nhân với tư cách là chủ
thể của quan hệ pháp luật trên cơ sở tôn trọng quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của
công dân. Nêu toàn diện thực trạng của pháp luật hiện nay, và những định hướng, giải pháp
hoàn thiện quy định pháp luật về chế định pháp nhân.
Bởi mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến quan hệ pháp luật, chủ
thể quan hệ pháp luật và các loại hình chủ thể quan hệ pháp luật;

4
- Nêu và phân tích mô hình học thuyết về pháp nhân đã hình thành và phát triển
trên thế giới.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển pháp nhân căn cứ vào
quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của công dân;
- Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp nhân của các nước trên thế
giới và quá trình du nhập vào Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về pháp nhân và tư cách pháp nhân
của một tổ chức từ việc phân tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá trình thực thi
pháp luật.
- Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp
luật về pháp nhân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp luận của triết
học Mác - Lênin; Lý luận chung về nhà nước - pháp luật; các quan điểm của Đảng và tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu là: phân tích tài
liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý luận, bên cạnh đó, luận văn còn sử
dụng phương pháp của luật so sánh. Và các phương pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học
pháp lý: phân tích quy phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật….

6. Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp của luận văn gồm có:
Một là, về lý luận: luận văn nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về quan hệ pháp
luật, chủ thể quan hệ pháp luật và phân loại các chủ thể quan hệ pháp luật. Nêu và phân tích
các học thuyết về pháp nhân làm tiền đề cho sự ra đời và phát triển trên thế giới, qua đó, thấy
được sự cần thiết của mô hình pháp nhân trong đời sống pháp luật của mỗi quốc gia. Tác giả
cũng đã phân tích những nền tảng lý luận của việc ra đời và phát triển pháp nhân căn cứ vào
tự do ý chí và tự do lập hội của công dân.
Hai là, về thực tiễn: Thực trạng quy định pháp luật về pháp nhân trong Bộ luật dân sự,
và các luật chuyên ngành về các dấu hiệu của nhận biết pháp nhân; quá trình thành lập, hoạt
động và chấm dứt pháp nhân. Hơn hết, tác giả tập trung phân tích tổng hợp hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật để tìm ra thực trạng và các nguyên nhân dẫn của những tồn tại hiện
nay.
Ba là, về định hướng hoàn thiện: luận văn này đưa ra các cơ sở hình thành các định
hướng và giải pháp toàn diện nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chủ thể quan hệ pháp
luật nói chung và pháp nhân nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn bao
gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về chủ thể quan hệ pháp luật và pháp nhân
Chương 2. Thực trạng hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật về pháp nhân ở Việt Nam

5
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và thi hành pháp luật về pháp nhân
ở Việt Nam
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP NHÂN.
1.1 Khái niệm và nội dung quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý cần thiết cho tất cả những quan hệ xã hội được

pháp luật điều chỉnh. Quan hệ pháp luật thể hiện mối liên hệ đặc biệt giữa các chủ thể, mối
liên hệ thông qua các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Trong quan hệ pháp luật dân sự, giao dịch
dân sự là hành vi pháp lý có ý thức thể hiện ý chí của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự
nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Giao dịch dân sự là một trong
những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự.
Quyền pháp lý của chủ thể là khả năng xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ được
quy phạm pháp luật quy định và được bảo vệ bởi sự cưỡng chế của quyền lực nhà nước.
Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật là cách xử sự bắt buộc được quy
phạm pháp luật xác định trước mà một bên phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền
chủ thể của bên kia.
1.2 Các vấn đề cơ bản về chủ thể quan hệ pháp luật
Mỗi ngành luật trong hệ thống pháp luật của quốc gia được xác định bởi những tiêu
thức như đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và chủ thể điều
chỉnh.
Năng lực pháp luật của chủ thể là năng lực (khả năng) do quy phạm pháp luật quy
định của chủ thể có các quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý để trở thành các chủ thể của
quan hệ pháp luật.
Năng lực hành vi của chủ thể là năng lực (khả năng) của chủ thể bằng chính hành vi
của mình, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý, tham gia vào các quan hệ pháp
luật.
Cá nhân
Cá nhân (thể nhân) được hiểu là con người cụ thể, là thành viên của xã hội loài người.
Về mặt vật chất, con người là một thực thể sống, có hình hài cụ thể và có mối quan hệ mật
thiết với các cá thể người khác. Trong xã hội, cá nhân là chủ thể của các quan hệ phát sinh
trong quá trình hoạt động, phát triển của mình. Đó là hoạt động mang tính ý thức của con
người trong khuôn khổ đời sống xã hội.
Pháp nhân
Pháp nhân là tổ chức được thừa nhận là chủ thể quan hệ pháp luật. Sự xuất hiện của
pháp nhân là sự tuân theo xu hướng nhân hóa những đoàn thể cá nhân hay các tập hợp tài sản
này với những người thường và công nhận cho các thực thể ấy một nhân cách pháp lý gọi là

pháp nhân.
Hộ gia đình

6
Pháp luật Việt Nam định nghĩa Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng
đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một
số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ
dân sự thuộc các lĩnh vực này (điều 106).
Tổ hợp tác
Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để
thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể các
quan hệ dân sự.
1.3 Khái niệm pháp nhân và đặc trƣng của pháp nhân
1.3.1 Khái niệm pháp nhân
Pháp nhân là một thực thể, khác với một tự nhiên nhân, có đời sống đầy đủ trong sự
dự liệu pháp lý rằng nó có thể thực hiện chức năng một cách hợp pháp, có thể bị kiện hoặc tha
kiện và có thể quyết định thông qua các đại lý như trong trường hợp của các công ty.
Giáo sư Jean Claude Ricci chỉ ra vai trò của pháp nhân có hai lợi ích cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn giản hóa.
Pháp nhân cho phép đơn giản hóa các quan hệ pháp luật.
- Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định lâu dài.
Đây là một yếu tố hết sức quan trọng.
1.3.2 Nội dung các học thuyết về pháp nhân
Học thuyết pháp nhân là một hư cấu pháp lý (học thuyết cổ điển): Theo thuyết này,
ngoài người thường mà người ta gọi là thể nhân, các chủ thể quyền lợi khác chỉ là những
quyền lợi giả tạo, do luật pháp tạo ra. Tất cả các pháp nhân đều do ý chí nhà lập pháp mà có.
Học thuyết phủ nhận pháp nhân: Quan điểm này cố gắng chứng minh ai là người cuối
cùng thu được lợi nhuận từ các quan hệ pháp lý và đi tới kết luận ngoài thể nhân, không tồn
tại bất cứ một chủ thể nào khác, từ đó không công nhận pháp nhân là chủ thể của các quan hệ

pháp luật.
Học thuyết thừa nhận tính cách thực sự của pháp nhân: Theo học thuyết này, các pháp
nhân không do các quốc gia hay quyền lập pháp tạo lập ra được. Quốc gia chỉ chứng nhận và
kiểm soát các pháp nhân ấy mà thôi.
1.3.3 Đặc trưng của pháp nhân:
Tên gọi; Trụ sở của pháp nhân; Quốc tịch của pháp nhân; Cơ quan điều hành của pháp
nhân; Tài sản của pháp nhân; Năng lực pháp luật của pháp nhân; Nguyên tắc tách bạch về tài
sản và tính chịu trách nhiệm của pháp nhân
1.3.4 Phân loại pháp nhân
Phân loại pháp nhân theo luật một số nước trên thế giới
Theo truyền thống, các nước thường phân biệt giữa pháp nhân công pháp và pháp
nhân tư pháp để áp dụng luật công và luật tư tương ứng. Việc phân biệt như vậy dẫn đến hàng
loạt các hệ quả khác nhau trong việc quy định về thành lập và quản lý pháp nhân.

7
Một số nước có cách phân loại khác, theo Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan,
pháp nhân được phân loại thành sáu nhóm: Những đối tượng sau đây là pháp nhân: 1. Những
tổ chức công; 2. Tu viện; 3. Những hội có đăng ký; 4. Những công ty trách nhiệm hữu hạn; 5.
Các hiệp hội, đoàn thể; 6. Những quỹ được cấp phép (Điều 72).
Phân loại pháp nhân theo pháp luật Việt Nam
Theo pháp luật Việt Nam, tuy không thể hiện rõ quan điểm phân loại pháp nhân thành
pháp nhân công pháp và pháp nhân tư pháp, nhưng những quy định của pháp luật cho thấy
rằng, nhà làm luật đã gián tiếp thu nhận cách phân loại phổ biến này.
1.3.5 Thành lập và chấm dứt của pháp nhân
Pháp nhân trong lĩnh vực công có thể được thành lập trong khuôn khổ xây dựng và
hoàn thiện hoàn thiện bộ máy nhà nước hoặc theo ý chí của các chủ thể của quyền và nghĩa vụ
được luật thừa nhận. Trong đó, pháp nhân thành lập trên cơ sở quyết định của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để thực hiện các chức năng, thẩm quyền của mình do Hiến Pháp, các luật
chuyên ngành điều chỉnh.
Pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây: a) Hợp nhất, sáp nhập, chia, giải

thể pháp nhân; b) Pháp nhân bị phá sản.
1.4 Nền tảng lý luận cho sự ra đời và phát triển của pháp nhân
1.4.1. Quyền tự do ý chí
Các học giả thường xem xét tự do ý chí trên ba phương diện: Về mặt triết học, học
thuyết tự do ý chí dựa trên nền tảng của tự do cá nhân, có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc
làm hay không làm một việc gì đó ngoài ý muốn của họ; Về mặt đạo đức, học thuyết tự do ý
chí dựa trên quan niệm rằng không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc mà
không xuất phát từ lợi ích của họ. Do vậy, hợp đồng được xem là sản phẩm của ý chí được
hình thành từ lợi ích của các bên tham gia giao kết; Về mặt kinh tế, học thuyết tự do ý chí dựa
trên nhận định rằng, lợi ích cá nhân là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế.
Tự do ý chí là khuynh hướng phát triển của xã hội, và là nền tảng xây dựng một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.4.2 Quyền tự do lập hội
Trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí, con người luôn đòi hỏi xã hội đáp ứng những nhu
cầu của mình về tự do lập hội và tự do kinh doanh đảm bảo quyền con người.
Quyền tự do thành lập nghiệp đoàn và tham gia nghiệp đoàn (theo nội quy và điều lệ),
để bảo vệ và gia tăng quyền lợi kinh tế và xã hội của mình. Sự hành xử quyền này chỉ có thể
bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu sinh hoạt trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự công cộng, hay sự hành xử quyền tự do của người khác (điều 8).

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua các nghiên cứu tại chương 1, tác giả rút ra một số kết luận sau:
1. Sự ra đời, phát triển pháp nhân là một tất yếu khách quan mang tính lịch sử của
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường tại các quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở nguyên tắc

8
tự do ý chí, con người luôn đòi hỏi xã hội đáp ứng những nhu cầu của mình về tự do ý chí, tự
do lập hội và tự do kinh doanh đảm bảo quyền con người. Bản chất pháp lý của việc hình
thành pháp nhân là quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng lập nhằm tạo ra một thực thể
tách biệt với những thành viên sáng lập ra, nhằm đạt được mục tiêu chung mà các sáng lập

viên xác định khi giao kết hợp đồng. Có thể thấy, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống
pháp luật được đơn giản hóa.
2. Tiêu chí phân loại pháp nhân theo quy định của pháp luật các nước trên thế giới
có nhiều khác nhau, nhưng có thể thấy cách phân loại thành pháp nhân công pháp và pháp nhân
tư pháp là phổ biến trên thế giới. Ở Việt Nam, các nhà lập pháp không thể hiện rõ quan điểm
phân loại thành pháp nhân công pháp và pháp nhân tư pháp, nhưng những quy định của pháp
luật cho thấy rằng đã gián tiếp thu nhận cách phân loại phổ biến này.
3. Pháp nhân hình thành trên cơ sở nguyên tắc tách bạch về tài sản của pháp nhân
với tài sản chủ sở hữu hoặc cộng đồng sở hữu trong các quan hệ tài sản mà pháp nhân là chủ
thể quan hệ đó. Pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ
tài sản mà pháp nhân tham gia. Trong khi đó, chủ sở hữu của pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm
hữu hạn trong phần góp vốn vào pháp nhân. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ, đó là
thành viên của pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm vô hạn với nghĩa vụ của pháp nhân. Trong đặc
thù luật Việt Nam, Công ty Hợp danh thuộc trường hợp này.
4. Pháp nhân có thể hình thành trên cơ sở quyết định thành lập (pháp nhân công),
hoặc trên cơ sở thỏa thuận bằng một hợp đồng thành lập (pháp nhân tư pháp) của các sáng lập
viên. Mục tiêu hoạt động của pháp nhân có thể vì mục đích lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận.
Pháp nhân không phải là con người tự nhiên, không có đời sống tâm lý và sinh lý, không có
nhận thức và tất nhiên cũng không có những hoạt động ý thức giống như con người.
5. Các tổ chức có tư cách pháp nhân có tài sản riêng, phân biệt với tài sản của các
thành viên sáng lập nên và được đặc trưng bởi tên gọi, trụ sở, quốc tịch và năng lực chủ thể
khi tham gia các quan hệ pháp luật.

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁP NHÂN Ở VIỆT NAM
2.1 Lịch sử phát triển chế định về pháp nhân trong pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam, có lẽ pháp nhân được biết đến đầu tiên là khi người Pháp và người Tây
Ban Nha được phép kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở Hòa ước năm Nhâm Tuất do nhà
Nguyễn, Pháp và Tây Ban Nha ký ngày 9 tháng 5 năm 1862, và Bộ luật Thương mại (1807),

Luật công ty TNHH (1925) của Pháp được các Tòa án Nam kỳ và Tòa án Pháp ở các thành
phố thuộc địa áp dụng trực tiếp.
Điều 34 Luật thương mại Trung phần quy định rằng các hội buôn thành lập theo đúng
thể thức quy định trong bộ luật ấy đều có tư cách pháp nhân. Đến năm 1931, Bộ dân luật Bắc
Kỳ quy định về pháp nhân, bắt buộc các người sáng lập phải đệ nạp các điều lệ trong ấy ấn
định rõ cách thức phân chia khi hiệp hội giải tán.
2.2 Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về các loại chủ thể quan hệ pháp
luật
2.2.1 Thực trạng phân loại các chủ thể quan hệ pháp luật

9
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, ngoài hai chủ thể cơ bản là cá nhân và pháp
nhân còn có hai chủ thể đặc biệt là hộ gia đình và tổ hợp tác. Hiện nay, pháp luật dân sự ở
Việt Nam chưa có khái niệm thống nhất về hộ gia đình, điều kiện trở thành thành viên của hộ
gia đình và các mối liên hệ cần thiết để tạo lập nên hộ gia đình.
2.2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về chủ thể quan hệ pháp luật
Thực tế cho thấy, ngoài những chủ thể được xác định là pháp nhân, chúng ta còn quy
định các chủ thể khác nhưng địa vị pháp lý của nó không được được làm rõ.
Thứ nhất: Trường hợp về Hộ gia đình, UBND có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho Hộ gia đình, nhưng khi được hỏi hộ gia đình là những ai. Căn cứ pháp
lý nào xác lập quyền sử dụng đất cho những người trong hộ gia đình.
Thứ hai, Chủ hộ là đại diện cho hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung
của hộ. Tuy nhiên, không có tiêu chí nào để xác định một người là chủ hộ.
Thứ ba, Về tài sản của hộ gia đình chưa có quy định cụ thể các thành viên trong hộ gia
đình có quyền có tài sản riêng hay không.
Thứ tư, Bộ luật dân sự 2005 chưa đưa ra khái niệm hộ gia đình với tư cách là chủ thể quan
hệ pháp luật đân sự mà chỉ mới nêu một số trường hợp nhất định mà hộ gia đình là chủ thể khi
tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
Thứ năm, Khi xác định tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự thì tổ hợp tác
không phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân, để xác định trách nhiệm pháp lý là

không rõ ràng gây ra nhiều khó khăn trong áp dụng pháp luật.
2.3 Thực trạng mô hình pháp nhân trong pháp luật Việt Nam
2.3.1 Mô hình pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự 2005
Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong
các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Trong BLDS,
điều 84 quy định về điều kiện công nhận là pháp nhân:
Điều kiện thứ nhất, được thành lập hợp pháp. Bộ luật dân sự không quy định trực tiếp
về điều kiện đảm bảo tính hợp pháp của một tổ chức, và chúng ta cũng khó có thể tìm được
một văn bản nào đó trong hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về điều kiện này, mặc dù
nguyên tắc đảm bảo quyền tự do lập hội cần phải được tôn trọng.
Điều kiện thứ hai, Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Một pháp nhân có cơ cấu tổ chức như
thế nào được coi là chặt chẽ, và cần có tiêu chuẩn nào, ví như “Câu lạc bộ là một tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và tài khoản tại ngân hàng. Hoạt
động của Câu lạc bộ theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí và tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật” theo quy định Câu lạc bộ cũng là pháp nhân.
Điều kiện thứ ba, Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó. Chính các nhà làm luật cũng vẫn còn lúng túng về điều kiện này, khi mà Luật
doanh nghiệp 2005 quy định công ty hợp danh là pháp nhân.

10
Điều kiện thứ tư, Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc
lập. Quy định này không mang tính là điều kiện để công nhận tư cách pháp nhân cho một tổ
chức.
2.3.2 Mô hình pháp nhân theo Luật doanh nghiệp 2005
Khi đối chiếu các quy định của Luật doanh nghiệp 2005 với quy định tại Bộ luật dân
sự 2005, cho thấy việc quy định tư cách pháp nhân còn nhiều vấn đề tranh luận, chưa thống
nhất.
Lý giải về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, các nhà luật học cho rằng:
Thứ nhất, khó có thể chứng minh được việc thừa nhận tư cách pháp nhân của Công ty

hợp danh là mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự. và giả thiết như điều đó được chứng minh, thì
cũng không có ảnh hưởng gì về lý luận pháp lý.
Thứ hai, Rõ ràng, công ty hợp danh cũng có tên gọi, trụ sở, quốc tịch, sản nghiệp, ý
chí và trách nhiệm.
Thứ ba, về tính chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên công ty, mặc dù tất cả các
công ty đều được coi là pháp nhân, nhưng điều đó không có nghĩa là các nghĩa vụ của pháp
nhân chỉ được thanh toán bằng tài sản riêng của chính nó, cũng không có nghĩa là các thành
viên của pháp nhân đều được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn.
Thứ tư, Công ty hợp danh là công ty trách nhiệm vô hạn, có tư cách pháp nhân.
Thứ sáu, theo quy định của điều 132 luật doanh nghiệp 2005 về tài sản của công ty
hợp danh đương nhiên được coi là một chủ thể độc lập mà không phải là thể nhân, vậy nó chỉ
có thể là pháp nhân.
Thứ bảy, tư cách pháp nhân của công ty hợp danh phải xuất phát từ vấn đề trách nhiệm
tài sản của công ty cũng như của thành viên công ty. Tài sản độc lập không đồng nghĩa với
trách nhiệm hữu hạn.
2.4 Thực trạng pháp luật về thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân.
2.4.1 Thực trạng quy định về thành lập pháp nhân
Tuy nhiên, các văn bản dưới luật còn rải rác, tản mạng không có hệ thống, làm cho
việc thực thi gặp nhiều khó khăn; chưa nói đến những văn bản vượt qua phạm vi quy định của
luật.
Thứ nhất, thủ tục hành chính một cửa; Thứ hai, đăng ký tên doanh nghiệp; Thứ ba,
đăng ký ngành nghề kinh doanh; Thứ tư, mạng thông tin về đăng ký kinh doanh; Thứ năm,
quy định giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy ĐKKD; Thứ sáu, quá trình đăng ký kinh
doanh trở lên không minh bạch.
2.4.2 Thực trạng quy định về hoạt động của pháp nhân
Đối với tập đoàn kinh tế nhà nước, văn bản pháp lý cao nhất là Nghị định số
101/2009/NĐ-CP ngày 5-11-2009 về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập
đoàn kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, liên quan đến quản lý tài sản nhà nước trong tập đoàn kinh

11

tế, trong Nghị định số 101/2009/NĐ-CP cũng có một số quy định cần nghiên cứu lại về tính
hiệu quả, tính hợp lý.
2.4.3 Thực trạng quy định phá sản pháp nhân
Luật Phá sản chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp và hợp tác xã mà không áp dụng cho hộ kinh
doanh, hộ gia đình, cá nhân. Điều này không phù hợp với pháp luật thế giới. Ở phần lớn các nước, chế
định phá sản được áp dụng đối với cả hộ gia đình, cá nhân bị khánh kiệt, chiếm một phần lớn số vụ
việc phá sản.
2.5 Thực trạng áp dụng mô hình của pháp nhân trong pháp luật chuyên ngành
2.5.1 Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về tập đoàn
Theo quy định tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, và là tập hợp của các
pháp nhân, có quan hệ kinh tế lâu dài. Tuy nhiên, hiện nay, còn rất nhiều vấn đề liên quan đến
quy định pháp luật liên quan đến Tập đoàn đang tồn tại, cụ thể:
Như vậy, giữa khoản 1 và khoản 4 Nghị định 102/2010/NĐ-CP có sự mâu thuẫn, từ
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng đã có những nhầm lẫn về tư cách pháp nhân của
tập đoàn kinh tế.
2.5.2 Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về công đoàn
Theo quy định thì công đoàn cơ sở là pháp nhân. Tuy nhiên, về mặt lý luận công đoàn
cơ sở không có một số đặc tính của pháp nhân. Bộ luật tố tụng dân sự 2003, tư cách pháp
nhân của công đoàn cơ sở không được thừa nhận“Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở
có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể người lao động do pháp luật quy định”. Quy định này, mâu thuẫn với điều kiện
của pháp nhân quy định tại điều 84 BLDS “Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật
một cách độc lập”. Công đoàn cơ sở không phải là chủ thể tham gia quan hệ tố tụng để bảo vệ
các hội viên.
2.5.3 Áp dụng mô hình pháp nhân trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản
Quy định của Luật kinh doanh bất động sản bắt buộc sàn giao dịch bất động sản phải
có tư cách pháp nhân, theo tác giả là không hợp lý, bởi:
Thứ nhất, luật kinh doanh bất động sản không quy định về mô hình tổ chức của sàn
giao dịch bất động sản nào theo các loại hình công ty theo luật Doanh nghiệp và luật Hợp tác
xã sẽ không đáp ứng được các điều kiện của điều 84 Bộ luật dân sự 2005.

Thứ hai, tư cách đại diện cho Sàn giao dịch bất động sản khi tham gia các quan hệ
pháp luật, có bắt buộc người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là đại diện theo pháp
luật của Sàn giao dịch bất động sản không.
Thứ ba, về tài sản của sàn giao dịch: Điều kiện khi thành lập sàn giao dịch bất động
sản là có cơ sở vật chất, kỹ thuật phù hợp với nội dung hoạt động của sàn giao dịch bất động
sản.

12
Thứ tư, tính chịu trách nhiệm pháp lý của sàn giao dịch bất động sản, đặt ra câu hỏi về
việc độc lập giữa pháp nhân – Sàn giao dịch bất động sản với pháp nhân – doanh nghiệp, hợp
tác xã thành lập sàn ra sao.
2.5.4 Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về Hội
Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/04/2010 quy định về tổ chức, hoạt động và
quản lý hội quy định Hội có tư cách pháp nhân, trụ sở, con dấu, tài khoản và có thể có biểu
tượng riêng. Trong các dạng hình thức của hội, có quy định câu lạc bộ có tư cách pháp nhân
theo quy định của cơ quan nhà nước.
2.5.5 Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về người tiêu dùng
Chỉ nên xem xét người tiêu dùng là cá nhân là nhóm người tiêu dùng yếu thế nhất, cần
được bảo vệ nhất – đó chính là các cá nhân tham gia mua sắm hàng hóa, dịch vụ nhằm mục
đích sinh hoạt tiêu dùng cá nhân của bản thân hoặc của gia đình mình.
2.6. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng pháp luật về pháp nhân
2.6.1 Mô hình pháp nhân tuy đã được du nhập vào Việt Nam từ lâu, nhưng mới
được quan tâm, và chú ý đến
2.6.2 Thiếu một lý thuyết lập pháp về mô hình của pháp nhân
2.6.3 Thứ ba, Chưa xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về pháp nhân
2.6.4 Thứ tư, Chưa quan niệm đúng đắn về thành lập pháp nhân
2.6.5 Thứ năm, Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp, chưa thống nhất,
đồng bộ với nhau.
2.6.6 Thứ sáu: Kỹ thuật lập pháp ở nước ta còn yếu
2.6.7 Thứ bảy, Chưa xác định được vị trí của từng đạo luật trong hệ thống các

văn bản pháp luật
2.6.8 Thứ tám, Tính thiếu ổn định của hệ thống pháp luật dân sự
2.6.9 Thứ chín, Quá trình tiếp thu kinh nghiệm pháp luật nước ngoài thiếu lựa
chọn và chưa phù hợp
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Thông qua chương 2, có thể rút ra các kết luận sau:
1. Mô hình pháp nhân theo pháp luật Việt Nam chưa được định hình một cách rõ
ràng, chưa được quy định thống nhất trong các văn bản luật. Điều đó, dẫn đến những tranh
luận trong việc áp dụng pháp luật và nghiên cứu pháp luật, đã làm ảnh hưởng đến các quyền
cơ bản Hiến định của công dân và tổ chức.
2. Tuy mô hình pháp nhân được du nhập vào các văn bản của pháp luật Việt Nam
khá sớm, nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội, pháp nhân chỉ được chú trọng trong nhưng năm
gần đây (từ sau đổi mới). Chính điều đó, đã làm cho quá trình lập pháp Việt Nam bị thụ động
trước nhu cầu pháp triển của nền kinh tế, làm cho các quy định về pháp nhân đôi khi không
phù hợp, không thống nhất trong hệ thống pháp luật.
3. Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng pháp luật về pháp nhân có thể kể đến:
1. Mô hình pháp nhân tuy đã được du nhập vào Việt Nam từ lâu, nhưng mới được quan tâm,
và chú ý đến; 2. Thiếu một lý thuyết lập pháp về mô hình của pháp nhân; 3. Chưa xây dựng
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về pháp nhân; 4. Chưa quan niệm đúng đắn về thành lập

13
pháp nhân; 5. Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp; 6. Kỹ thuật lập pháp ở Nước ta
còn yếu; 7. Chưa xác định được vị trí của từng đạo luật trong hệ thống các văn bản pháp luật;
8. Tính không ổn định của hệ thống pháp luật; 9. Quá trình tiếp thu kinh nghiệm pháp luật
nước ngoài thiếu lựa chọn và chưa phù hợp.
4. Trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và
pháp luật về pháp nhân nói riêng chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật, do đó, khó tránh
khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn
khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội.
Chƣơng 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ PHÁP NHÂN
3.1 Cơ sở định hƣớng hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân
3.1.1 Cơ sở về kinh tế - xã hội, văn hóa - đời sống
Việt Nam, nguồn gốc là một nước nông nghiệp. Nghề nông có vị trị đặc biệt quan
trọng vì lúa gạo là thực phẩm chính nôi sống những người dân. Vì vậy nghề nông được trọng
hơn nghề thương. Các hoạt động về thương mại ở Việt Nam chủ yếu vẫn diễn ra trên các chợ,
người buôn vốn liếng eo xèo “buôn thúng bán mẹt”, tổ chức sơ sài, nếu có hùn vốn cũng
mang tính nhất thời.
Trong 25 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nền kinh tế Việt
Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, liên tục trong nhiều năm. Nền kinh tế Viẹ
̂
t
Nam đánh dấu sự hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc trơ
̉
thành thành viên cu
̉
a Tô
̉
chư
́
c
Thương mại Thế giới . Cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước đang mở ra.
3.1.2 Cơ sở của sự phát triển kinh tế xã hội đất nước
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc
đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh

và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
3.1.3 Cơ sở của xu hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hiện nay, cùng với việc xây dựng môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành. Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò và hiệu lực của
pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập
quốc tế.
3.1.4 Cơ sở của quá trình hội nhập quốc tế hiện nay
Nhiệm vụ của nhà nước là phải tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác. Xây dựng một

14
khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc quyền
và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật áp
dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
3.2 Định hƣớng hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân
Định hướng thứ nhất: đảm bảo quyền tự do ý chí và tự do lập hội
Định hướng thứ hai: đảm bảo quyền sở hữu của các chủ thể quan hệ pháp luật.
Định hướng thứ ba: hoàn thiện quy định pháp luật về pháp nhân- từ bản chất của các
học thuyết pháp nhân
Định hướng thứ tư: Xây dựng một bộ luật dân sự là nền tảng cho các luật chuyên
ngành
Định hướng thứ năm: Tăng cường tính công khai và minh bạch thông tin.
Định hướng thứ sáu: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân.
Định hướng thứ bảy: Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước
Định hướng thứ tám: Phát triển hệ thống cung cấp thông tin và phổ biến giáo dục
pháp luật cho các chủ thể quan hệ pháp luật.
3.3 Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật về pháp
nhân ở nƣớc ta hiện nay

3.3.1 Giải pháp đổi mới các quan niệm về pháp nhân
Thứ nhất, cần đưa ra định nghĩa và quan niệm pháp nhân với tư cách là chủ thể quan
hệ pháp luật thay thế cho quy định tại điều 84 về các điều kiện của pháp nhân.
Thứ hai, thay đổi nhận thức về tài sản và trách nhiệm tài sản của pháp nhân: Trong quan
niệm về pháp nhân phải có sự thay đổi, quan niệm trách nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô hạn
không phải là đặc trưng của pháp nhân.
Thứ ba, cần nhận thức học thuyết chi phối pháp luật dân sự về pháp nhân là học
thuyết thực tại
3.3.2 Các giải pháp về lập pháp
Thứ nhất, xây dựng mô hình hệ thống pháp luật trước khi hoàn thiện pháp luật về
pháp nhân
Thứ hai, Quy định chủ thể quan hệ pháp luật dân sự bao gồm thể nhân và pháp nhân.
Thứ ba, Quy định hợp đồng thành lập pháp nhân trong Bộ luật dân sự. Xuất pháp từ
bản chất pháp lý của việc hình thành pháp nhân là quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng
lập nhằm tạo ra một thực thể cụ thể để đáp ứng hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu chung
mà các sáng lập viên xác định khi giao kết hợp đồng.

15
Thứ tư, Hoàn thiện các quy định pháp luật về tập đoàn kinh tế: Tập đoàn kinh tế là
một mô hình đặc thù, hiện nay, các quy định về tập đoàn đang bị hiểu sai lệch. Trong khi,
pháp luật quy định tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, mà chỉ là tập hợp của nhiều
pháp nhân độc lập với nhau theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Thứ năm, Tách quy định về Doanh nghiệp tư nhân trong luật danh nghiệp: Bản chất
doanh nghiệp tư nhân là chế độ cá nhân kinh doanh, thực hiện các giao dịch trên cơ sở chịu trách
nhiệm vô hạn bằng tài sản riêng của mình. Doanh nghiệp tư nhân, chỉ nên được quy định trong
luật thương mại, trên cơ sở là một thương nhân trong thực hiện cách hành vi thương mại.
Thứ sáu, Quy định pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự: Hiện nay, đã
có nhiều văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến việc đấu tranh các hoạt động phi pháp xuyên
quốc gia do pháp nhân tổ chức như tội phạm về môi trường, tội rửa tiền, các tội xuyên quốc
gia khác.

Thứ bảy, Các lĩnh vực chuyên ngành khác: Các luật chuyên ngành, khi quy định về tư
cách pháp nhân của một tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù, phải tuân thủ mô hình
pháp nhân theo Bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, từ đó ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về pháp nhân thống nhất.
3.3.2 Các giải pháp về thi hành các quy định pháp luật về pháp nhân
Thứ nhất, Tổ chức hệ thống hóa quy định pháp luật về pháp nhân
Thứ hai, Hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan đến pháp nhân
Thứ ba, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đăng ký kinh
doanh

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Bằng việc, nêu và phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, chúng ta
có thể thấy một bức tranh về pháp nhân mà các nhà lập pháp Việt Nam thiết kế, thi công và tô
vẽ chưa thực đảm bảo tính thống nhất, lôgic. Nguyên nhân của khiếm khuyết này có thể kể
đến là việc xây dựng các quy định mang tính trụ cột trong Bộ luật dân sự chưa có nền tảng lý
luận khoa học pháp lý vững chắc. Điều này làm cho Bộ luật dân sự - một đạo luật có vị trí, vai
trò đặc biệt trong ngành luật bị chính những người kiến tạo ra nó coi nhẹ khi xây dựng những
luật chuyên ngành trước những đòi hỏi của thực tiễn xã hội.
Trên cơ sở nhữg định hướng toàn diện: Định hướng đảm bảo quyền tự do ý chí và
tự do lập hội; Định hướng đảm bảo quyền sở hữu của các chủ thể quan hệ pháp luật;
Định hướng hoàn thiện quy định pháp luật về pháp nhân- từ bản chất của các học thuyết
pháp nhân; Định hướng xây dựng một bộ luật dân sự là nền tảng cho các luật chuyên

16
ngành; Tăng cường tính công khai và minh bạch thông tin; Hoàn thiện hệ thống pháp luật
về pháp nhân; Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; Phát triển
hệ thống cung cấp thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật cho các chủ thể quan hệ pháp
luật. Đây sẽ là tiền đề để hoàn thiện chế định về pháp nhân, phải được giải quyết một cách
đồng bộ, toàn diện trên cơ sở các học thuyết, mô hình được áp dụng trên thế giới, được
chọn lọc, quy định để phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam.


KẾT LUẬN
Từ các phân tích của luật văn này, cho thấy các quy định của pháp luật về pháp nhân hiện
nay vẫn tồn tại nhiều bất cập, không thống nhất, mâu thuẫn về những các điều kiện của pháp nhân
trong quy định của luật chung, và áp dụng mô hình pháp nhân trong các luật chuyên ngành. Các
nhà làm luật nước ta chưa quan tâm, và nghiên cứu các học thuyết về pháp nhân trên thế giới, để
xây dựng chế định pháp nhân một cách thống nhất, phù hợp xu hướng phát triển và pháp luật phải
tôn trọng, và bảo vệ các quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội công dân đã được Hiếp pháp
quy định.
Chế định pháp nhân trong pháp luật Việt Nam đang dần được hoàn thiện, đáp ứng yêu
cầu của công cuộc phát triển và hội nhập kinh tế xã hội của nước ta. Hiện nay, hệ thống pháp
luật điều chỉnh về pháp nhân được quy định trong nhiều lĩnh vực pháp luật, liên quan đến đời
sống kinh tế xã hội, vì thế quá trình hoàn thiện pháp luật phải đồng bộ, thống nhất và toàn
diện trong hệ thống pháp luật quy định về pháp nhân.
Ngày nay, với một nền pháp luật hội nhập phản ánh đời sống kinh tế- xã hội của một quốc
gia, thì việc tuân thủ xu hướng, điều chỉnh pháp luật để phù hợp với những lý luận, nền tảng
chung ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia là nhiệm vụ của các nhà làm luật.
Vì vậy, hoàn thiện chế định về pháp nhân dựa trên các học thuyết, mô hình pháp nhân
được áp dụng trên thế giới, được chọn lọc, quy định để phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội
của Việt Nam.
Trong quá trình hoàn thiện pháp luật, cần thiết thay đổi tư duy về tiếp nhận pháp luật
để tăng cơ hội thành công, tiếp nhận pháp luật nước ngoài phải tính đến nhiều yếu tố khác
nhau như bối cảnh, các lợi ích, sự đồng thuận. chỉ có vây, việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài
sẽ diễn ra liên tục, đáp ứng những thay đổi của thực tiễn, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng hơn.

References
1. Lê Việt Anh (2008), “Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp, (113), tr. 34-40, Hà Nội.
2. Nguyễn Trần Bạt (2008), Cội nguồn cảm hứng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

3. Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh
chấp, NXB Trí Thức, Hà Nội.

17
4. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Nội vụ (2007), Quyết định số 412/QĐ-BNV ngày 16/5/2007, Về việc phê duyệt
bản điều lệ của câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp và UNDP (2008), Dự án VIE/94/003- Tăng cường năng lực pháp
luật tại Việt Nam – Báo cáo kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế
tại Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ luât Dân sự và thương mại Thái Lan (1925), Các quyển I - VI theo bản dịch
năm 1995 của Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ luật Dân sự Pháp (2005), theo bản dịch năm 2006 của Nhà xuất bản tư pháp,
Hà Nội
9. Chính phủ (2010), Nghị định của Chính phủ số 43/2010/NĐ-CP ngày
15/4/2010 về đăng ký kinh doanh, Hà Nội.
10. Chính phủ (2004), Hiệp định thương mại giữa Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thương mại, Hà Nội.
11. Chính phủ (2009), Nghị định số 101/2009/NĐ-CP ngày 5-11-2009 về thí điểm thành
lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước, Hà Nội.
12. Chính phủ (2006), Nghị định 108/2006/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật
đầu tư 2005, Hà Nội.
13. Chính phủ (2010), Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật doanh
nghiệp 2005, Hà Nội.
14. Chính phủ (2010), Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/04/2010 quy định về tổ
chức, hoạt động và quản lý hội, Hà Nội.
15. Chính phủ (2011), Nghị định 25/2011/NĐ-CP ban hành ngày 6/4/2011 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông, Hà Nội.

16. Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại giữa Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thương mại năm
2001, Hà Nội.
17. Ngô Huy Cương (2001), “Pháp nhân”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (01), tr
54-60.

18
18. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện
nay, NXB Tư pháp.
19. Ngô Huy Cương (2004), Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ,
Viện Nhà nước và pháp luật – Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
20. Ngô Huy Cương (2002), “Cải cách hệ thống pháp luật kinh tế: Một số vấn đề
thực tiễn và lý luận cơ bản”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (04), tr151-168.
21. Ngô Huy Cương (2009), “Khái niệm công ty hợp danh tại luật doanh nghiệp
2005”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (06), tr 23-26.
22. Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp cận tự do ý chí trong pháp luật Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (117), tr11-20.
23. Nguyễn Văn Cương (2011), Quan niệm về người tiêu dùng trong pháp luật của các
quốc gia trên thế giới và vấn đề xây dựng khái niệm người tiêu dùng trong dự thảo luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, , Hà Nội.
24. Hà Hùng Cường (2009), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN, , Hà Nội.
25. Bùi Ngọc Cường chủ biên (2008), Giáo trình luật thương mại – tập 2, Nhà xuất
bản giáo dục, Hà Nội
26. Diễn đàn các doanh nghiệp Việt Nam (2006), Góp ý dự thảo Bộ luật dân sự,
online .com.vn, Hà Nội.
27. Đại hội đồng Liên hiệp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn
hóa và xã hội, Liên Hiệp Quốc.
28. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2010), Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI, Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Hà Nội.

29. Đỗ Văn Đại (2005),“Cần quy định hợp lý về Công ty hợp danh”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp, (6), tr.52-55.
30. Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2010), Tư pháp quốc tế Việt Nam- Quang hệ dân sự,
lao động, thương mại có yếu tố nước ngoài, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Nguyễn Ngọc Điện (2010), Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, NXB chính trị
quốc gia, Hà Nội.
32. GTZ, PMRC, UNDP (2005), Nâng cao chất lượng luật kinh tế: Đánh giá nhanh
năng lực của Việt Nam và giới thiệu các thông lệ quốc tế, Hà Nội.

19
33. Bùi Xuân Hải (2004), “Vài nét về các loại hình công ty theo luật công ty Úc”, Tạp
chí khoa học pháp lý, (6) tr. 23-29.
34. Phạm Hồng Hải (1999), “Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?”,
tạp chí Luật học, (6) tr.34-40.
35. Phan Huy Hồng, Lê Nết (2006), “Trách nhiệm tài sản của pháp nhân: hữu hạn hay
vô hạn”, Tạp chí khoa học pháp lý, (3), tr 22-28.
36. Lê Hồng Hạnh, Trần Thị Quang Hồng (2010), “Luật bảo vệ người tiêu dùng có
nên quy định tổ chức là người tiêu dùng?”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (20), tr24-28.
37. Nguyễn Am Hiểu (2011), Một vài vấn đề cần được nghiên cứu để xây dựng bộ
luật dân sự, Tọa đàm Bộ Tư pháp, Hà Nội.
38. Hội đồng thẩm - Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 03/2005/NQ-
HĐTP ngày 28/4/2005 Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản 2004, Hà Nội.
39. Hội đồng trọng tài kinh tế nhà nước (1975), Thông tư 525-HĐ ngày 23-6-1975 của
hướng dẫn việc thực hiện bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế, Hà Nội
40. Hội đồng Chính phủ (1975), Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 quy định quy
cách pháp nhân của các bên ký kết hợp đồng kinh tế, Hà Nội.
41. Hội đồng bộ trưởng (1975), Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 quy định chi tiết
pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Hà Nội.
42. Nguyễn Hồng Hải (2011), một số định hướng sửa đổi cơ bản Bộ luật dân sự năm
2005, Bộ tư pháp, Hà Nội.

43. Nguyễn Khắc Huy (2011), Về pháp nhân của tổ chức tôn giáo trong khuôn khổ
pháp luật Việt Nam hiện hành, , Hà Nội.
44. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Các loại hình tổ hợp tác, mối liên hệ với chính quyền
địa phương, , Hà Nội.
45. Nguyễn Đức Lam (2010), Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: Nhìn từ ví dụ Luật
công ty của Nhật và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam, p. org.vn, Hà Nội.
46. Francis Lemeunier (1993), nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh
doanh, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. John Locke (2006), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
48. Khoa luật- Đại học tổng hợp Hà Nội (1993), Giáo trình lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học tổng hợp Hà Nội.

20
49. Khoa luật –Đại học quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
50. Khoa Luật-ĐHQGHN (2001), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, Nbx Đại học
quốc gia Hà Nội.
51. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật,
NXB Tư pháp, Hà Nội
52. Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn.
53. Vũ văn Mẫu (1963), Việt Nam Dân luật lược khảo Quyển 2: Nghĩa vụ và khế ước,
Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn.
54. Nguyễn Hồng Nam (2009), Một vài ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật về sở hữu của Bộ luật dân sự, Tọa đàm tổng kết tình hình thi hành các quy định về
quyền sở hữu trong bộ luật dân sự 2005, Bộ tư pháp, Hà Nội.
55. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình luật kinh tế, tập 1: luật doanh nghiệp, NXB
đại học quốc gia Hà Nội.
56. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo kinh tế, NXB đại học quốc gia Hà Nội.
57. Phạm Duy Nghĩa (2004), Pháp luật và những nhân tố tích cực của Nho Giáo, Nhà
xuất bản Tư pháp.

58. Phạm Duy Nghĩa, Đặng Văn Thanh, Trần Hữu Huỳnh, Nguyễn Tiến lập (2011),
Báo cáo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo yêu cầu của Nghị quyết số 48/NQ-TW,
, TP Hồ Chí Minh.
59. Hồ Trọng Ngũ (2009), “Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp
nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (6), tr27-32.
60. Trần Quang Nhiếp (2010), Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trên các
phương tiện truyền thông, đại chúng, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, , Hà Nội.
61. Lưu Bình Nhưỡng (2006), Một số ý kiến về việc hoàn thiện luật Công đoàn trong
bối cảnh hiện nay, , Hà Nội.
62. Pierre Pescatore (1960), Nhập môn khoa học pháp luật, Office de Imprimes - trích
theo Trịnh Quốc Toản (2011), “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo luật hình sự
Luxembourg”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN- Luật học, (27), tr. 19-29.
63. Hoàng Thị Kim Quế (2007), “Triết học pháp luật trong hệ thống các khoa học pháp
lý”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN- Kinh tế - Luật, (23), tr 49-56.

21
64. Hoàng Thị Kim Quế (2004), “Nhận diện nhà nước pháp quyền”, Tạp chí nghiên
cứu Nhà nước, (5), tr.16-23.
65. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
66. Quốc hội (1990), Luật công ty, Hà Nội.
67. Quốc hội (1999), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
68. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
69. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
70. Quốc hội (2005), Luật sở hữu trí tuệ, Hà Nội
71. Quốc hội (2000), Luật kinh doanh bảo hiểm, Hà Nội.
72. Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội.
73. Quốc hội (2004), Luật phá sản, Hà Nội.
74. Quốc hội (1990), Luật công đoàn, Hà Nội.
75. Quốc hội (2005), Luật Chứng khoán, Hà Nội.

76. Quốc hội (2005), Luật kinh doanh bất động sản, Hà Nội.
77. Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Hà Nội
78. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội
79. Quốc hội (2010), Nghị quyết số 48/2010/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2010 về
chương trình xây dựng luật, Hà Nội.
80. Thủ Tướng Chính phủ (2007), Quyết định 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/01/2007 về
Hệ thống ngành kinh tề của Việt Nam, Hà Nội.
81. Thủ Tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 981/QĐ-TTg của Thủ tướng chính
phủ ngày 25/6/2010 về việc chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam
thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, Hà Nội.
82. Jean-Claude Ricci (2002), Nhập môn luật học - Introduction à l tude du droit,
Hachette, Nhà pháp luật Việt Pháp, Hà Nội.
83. Trần Minh Sơn (2010), Quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, trang mạng
, Thành phố Hồ Chí Minh.
84. Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản,
Sài Gòn.
85. Lê tài Triển, Nguyễn vạng Thọ, Nguyễn Tân (1973), Luật thương mại việt nam
dẫn giải, quyển 2, Kim Lai Ấn quán, Sài Gòn.

22
86. Đoàn Văn Trường (1996), Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động Công ty cổ
phần, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
87. Nguyễn Minh Tuấn (2005), “Triết lý của tự do”, Tạp chí tia sáng (3), tr 43-49.
88. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
89. Đào Trí Úc (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của đảng – Những thành tựu chủ yếu và những định
hướng phát triển, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ thứ 3, Hà Nội.
90. Viện sử học - Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1977), Nông thôn Việt Nam
trong lịch sử, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

91. Xaca Vacaxum, Tori Aritdumi (2009), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật
Bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB

Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.
93. Http://en.wikipedia.org/wiki/Corporation#cite_note-4

×