Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự qua thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HOÀN

KIÓM S¸T VIÖC TU¢N THEO PH¸P LUËT
CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N TRONG Tè TôNG D¢N Sù QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA

Chuyên ngành: Lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Phạm Thị Hoàn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ.................................................................................................................... 4
1.1.

Vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tổ
chức bộ máy nhà nước ...............................................................................4

1.2.

Nhận thức chung về tố tụng dân sự ........................................................12

1.3.

Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ..............................................15

1.3.1.

Chức năng ..................................................................................................15


1.3.2.

Nội dung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ............................................17

1.3.3.

Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự .........................................38

1.4.

Vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
của Viện kiểm sát nhân dân đối với công cuộc cải cách tư
pháp, bảo vệ quyền con người, quyền công dân....................................39

1.5.

Đặc điểm của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự .......................................48

Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...................................................................52
2.1.

Thực trạng chung của công tác kiểm sát trong tố tụng dân sự ...........52

2.1.1.

Kết quả đạt được ........................................................................................53


2.1.2.

Hạn chế tồn tại ...........................................................................................53

2.1.3.

Nguyên nhân của những hạn chế nhược điểm trên ....................................55


2.2.

Công tác thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cải cách tư pháp trong
giai đoạn hiện nay......................................................................................58

2.2.1.

Công tác kiểm sát việc thụ lý giải quyết các vụ, việc dân sự ....................62

2.2.2.

Kết quả đạt được và những ưu điểm ..........................................................63

2.2.3.

Những hạn chế, nhược điểm và nguyên nhân ............................................69

2.3.


Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân
sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa ....................................72

2.3.1.

Trong năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa thực
hiện công tác kháng nghị trong tố tụng dân sự ..........................................75

2.3.2.

Những đóng góp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa
trong công tác xây dựng ngành ..................................................................90

Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................................................95
3.1.

Những giải pháp cơ bản về đảm bảo hiệu quả kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ............95

3.1.1.

Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tư pháp phù hợp với Hiến pháp
năm 2013 và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.........................................95

3.1.2.

Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên làm công tác

kiểm sát dân sự nhận thức đúng đắn về chức năng nhiệm vụ ....................96

3.1.3.

Về bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ..........97

3.2.

Một số kiến nghị cụ thể về đảm bảo hiệu quả kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự ........................................................................................................98

KẾT LUẬN ............................................................................................................104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................105


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đề ra mục tiêu: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 được Quốc hội thông qua ngày
15/6/2004, có hiệu lực từ 01/01/2005. Sau 6 năm thực hiện đã phát sinh một số vấn
đề vướng mắc, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn và chưa đáp ứng được yêu
cầu cải cách tư pháp. Để khắc phục những vướng mắc, bất cập của đạo luật này, ngày
29/3/2011, Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 sửa
đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2012.

Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; với việc ban hành Bộ luật tố
tụng dân sự sửa đổi chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự của Viện
kiểm sát nhân dân có sự điều chỉnh; thẩm quyền phạm vi tham gia tố tụng của Viện
kiểm sát được xác định cụ thể và rộng hơn so với trước, đặc biệt mở rộng phạm vi
tham gia các phiên toà xét xử dân sự sơ thẩm, phúc thẩm.
Một trong những điểm sửa đổi bổ sung lớn nhất của Bộ luật tố tụng dân sự
lần này là mở rộng phạm vi trách nhiệm tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ
việc dân sự của Viện kiểm sát, theo đó Viện kiểm sát có trách nhiệm phải tham gia
phiên toà sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự trong 4 trường hợp: những vụ án dân sự
do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ; những vụ án dân sự có đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng; quyền sử dụng đất, nhà ở; đương sự là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; Viện kiểm sát tham gia
tất cả các phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự, phiên toà, phiên họp phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự.

1


Từ những lý do đã phân tích trên, học viên xin chọn đề tài “Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự - qua thực
tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài Luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học cấp nhà nước,
cấp bộ, luận án thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự …
Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung có hiệu lực ngày
01/01/2012 đã mở rộng phạm vi, thẩm quyền tham gia tố tụng của Viện kiểm sát
nhân dân. Vì vậy, có khá nhiều bài viết về vấn đề này nhưng chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu đầy đủ về nội dung mới sửa đổi bổ sung này.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, khái quát về việc Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp
giải quyết vụ, việc dân sự qua làm cơ sở thực tiễn của nghiên cứu đề tài.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự trong
ngành Kiểm sát đáp ứng yêu cầu công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong chiến lược cải cách tư pháp.
- Hệ thống những lý luận cơ bản về công tác kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự trong ngành Kiểm sát.
- Đánh giá kết quả đã đạt được của công tác này trong ngành Kiểm sát khi
Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung về chức năng nhiệm vụ.
- Đưa ra một số vướng mắc và giải pháp mang tính kiến nghị của Viện kiểm sát
trong quá trình thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành trên công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự của ngành Kiểm sát nhân dân
- Phạm vi nghiên cứu: trong ngành Kiểm sát nhân dân
- Thời gian từ khi Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi có hiệu lực 01/01/2012 đến
30/12/2013

2


5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: tổng hợp, phân tích, so sánh, điều tra, tổng kết thực tiễn...
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đề tài nghiên cứu trên cơ sở Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm
2011, có hiệu lực 01/01/2012, đến nay hơn 2 năm thực hiện chắc chắn có rất nhiều
điểm mới so với các đề tài nghiên cứu trước. Viện kiểm sát tham gia tất cả các

phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự, phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự.
- Thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi quyền hạn, trách nhiệm của Viện
kiểm sát có sự thay đổi, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ, việc dân sự. Bước đầu, tuy còn nhiều khó khăn nhưng Viện kiểm sát
đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ.
- Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số phương hướng và giải pháp khoa
học, phù hợp với điều kiện thực tiễn để việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu
của công cuộc cải cách tư pháp, hi vọng luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
cho các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Chương 3: Giải pháp đảm bảo hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tổ chức
bộ máy nhà nước
Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 6 đó thông qua Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc
biệt quan trọng, tạo cơ sở hiến định để thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Cùng với việc tiếp tục kế thừa
những giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm
1992, Hiến pháp sửa đổi lần này đã đổi mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; thể
chế hóa sâu sắc và toàn diện chủ trương đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực; trong
đó tư tưởng về con người, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân được xác định là tư tưởng đổi mới chủ đạo của Hiến pháp, là mục tiêu
hướng đến của các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Những yêu cầu của Hiến pháp về dân chủ, pháp quyền, đề cao con người có ý
nghĩa tác động trực tiếp đến các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân
dân Viện kiểm sát nhân dân nói riêng, đòi hỏi các thiết chế này phải thực sự đổi mới
trong nhận thức, tổ chức và hoạt động.
Hiến pháp tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát là hệ thống cơ quan độc lập trong
bộ máy nhà nước, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp; bổ sung một số nguyên tắc tiến bộ của hoạt động tố tụng tư pháp như nguyên
tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, tiếp tục khẳng định và ghi nhận
mới một số quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp v.v...
Những điều chỉnh nêu ở trên của Hiến pháp đó đặt trách nhiệm rất cao với
các cơ quan tư pháp, yêu cầu phải tổ chức công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật theo tinh thần mới. Hoạt động tư pháp không chỉ dừng
lại ở mục tiêu phát hiện, xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật mà còn phải tôn trọng

4


con người, vì sự phát triển của con người, đề cao dân chủ và phải đứng trên quan
điểm đó để chứng minh tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội.
Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân phải trở thanh mục tiêu và động lực hướng tới

của các cơ quan tư pháp nói chung, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Đây chính
là thước đo sự tiến bộ của nền tư pháp. Xác định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát
nhân dân khi thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp chính là
nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tôn
trọng và chấp hành nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.
Thực hành quyền công tố hiểu một các khái quát là hoạt động nhằm phát
hiện tội phạm, truy tố người phạm tội ra Tòa, yêu cầu Tòa án xét xử và áp dụng
hình phạt đối với họ. Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kiểm sát các hoạt động
khởi tố,điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp... Kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và thực hiện quyền lực trong lĩnh vực tư
pháp nói riêng ở Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hoạt động có
tính tất yếu, khách quan, xuất phát từ nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực đó được khẳng định trong Hiến pháp. Chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thực chất là để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo
đảm cho Hiến pháp và pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo
đảm mọi tội phạm và vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm việc
giải quyết các vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh.
Hiến pháp khẳng định trong điều kiện cụ thể của nước ta cần thiết phải duy
trì Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập, có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp đúng theo
nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước "Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp" [8]. Đảng, Quốc hội và nhân dân cần một thiết chế

5


giám sát độc lập, hoạt động trực tiếp, thường xuyên, có hiệu quả cao như Viện kiểm

sát. Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân dân đó góp phần
quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Trên cơ sở đó, Hiến pháp
sửa đổi tiếp tục khẳng định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp" [8, Điều 107].
Triển khai thi hành Hiến pháp trong thời gian tới, mỗi cán bộ, Kiểm sát viên
và từng cấp kiểm sát phải thấm nhuần và thực thi đầy đủ Hiến pháp. Tập trung kiện
toàn cả về tổ chức bộ máy và cán bộ, xây dựng cho được bộ máy làm việc khoa học
với đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên thực sự vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh
thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, Hiến pháp đã bổ
sung quy định "Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân" [8]. Quy định này một mặt đáp ứng yêu cầu tăng tính độc lập cho Kiểm
sát viên, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức vào hoạt
động thực thi công vụ của Kiểm sát viên, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tập
trung thống nhất lãnh đạo trong ngành Kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của Viện
trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với toàn hệ thống.
Triển khai thi hành Hiến pháp được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của toàn
bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong năm 2014 và các
năm tiếp theo. Chúng ta tin tưởng rằng, với sự vào cuộc tích cực và trách nhiệm của
các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân, Hiến pháp chắc chắn sẽ nhanh chóng đi
vào cuộc sống, phát huy tác dụng tích cực và tạo sự chuyển biến sâu rộng trên các
lĩnh vực đời sống xã hội, là cơ sở quan trọng để sự nghiệp cải cách tư pháp nhà
nước tiếp tục thu được những kết quả lớn hơn nữa.
Hiến pháp năm 2013 của nước Việt Nam sửa đổi Hiến pháp 1992 có hiệu lực
thi hành 01/01/2014, Viện kiểm sát nhân dân được quy định:


6


Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
các Viện kiểm sát khác do luật định.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [8, Điều 107].
Như vậy, tiếp tục duy trì Viện kiểm sát nhân dân với tính cách là một hệ
thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước với hai chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đồng thời có các cơ chế pháp lý để tăng
cường hiệu lực, hiệu quả các khâu công tác kiểm sát hoạt động tư pháp chính là
biện pháp quan trọng góp phần thúc đẩy các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát
việc thực hiện quyền lực nhà nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa ở đất nước ta.
Tuy nhiên để Đảng, Nhà nước, Quốc hội và nhân dân tiếp tục ghi nhận chức
năng, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp sửa đổi thì toàn ngành và
mỗi cán bộ, kiểm sát viên cần thấy rõ hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ và có các biện pháp cụ thể để tiếp tục nâng cao hơn nữa
chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
nhằm đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp và mục đích xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh
bảo vệ pháp luật, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước và các quyền, lợi ích chính đáng của
công dân. Một trong những biện pháp trước mắt cũng như lâu dài là phải xây dựng
đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp
luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm. Đó cũng là mục tiêu mà cán bộ,
kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân cần quyết tâm phấn đấu để đạt được.

Để có sự ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013 như hiện nay, chúng ta nên xem
lại quá trình hình thành và phát triển của ngành Kiểm sát nhân dân với tiến trình
lịch sử như sau:

7


Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa họp lần thứ 8 ngày
29/4/1958 đã quyết định thành lập Tòa án tối cao và hệ thống Tòa án, lập Viện
Công tố Trung ương và hệ thống cơ quan Công tố, cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp.
Viện Công tố Trung ương có quyền hạn và trách nhiệm ngang một Bộ và trực thuộc
Hội đồng Chính phủ. Hình thành một Viện Công tố độc lập thuộc Hội đồng Chính
phủ quản lý ngành dọc là một ưu điểm lớn để tạo ra sự độc lập trong hoạt động truy
tố tội phạm và đây là một bước quá độ để hình thành hệ thống cơ quan Viện kiểm
sát sau này.
Nhiệm vụ chung của Viện Công tố là: Giám sát việc tuân thủ và chấp hành
pháp luật Nhà nước, truy tố theo luật hình những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ
dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản công, bảo vệ quyền và lợi
ích của công dân, bảo đảm cho công cuộc kiến thiết và cải tạo Xã hội chủ nghĩa tiến
hành thuận lợi.
Hiến pháp năm 1959 ra đời với chế định mới về Viện kiểm sát nhân dân đã
đánh dấu một bước chuyển lớn trong tổ chức bộ máy Nhà nước của Việt Nam. Lần
đầu tiên trong lịch sử bộ máy Nhà nước ta, Viện kiểm sát được quy định thành một
cơ quan Nhà nước độc lập. Hiến pháp năm 1959 quy định về Viện kiểm sát nhân
dân như sau:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính
phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và
công dân.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự

có quyền kiểm sát các phạm vi do luật định.
Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 5 năm.
Tổ chức của các Viện kiểm sát nhân dân do luật định.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm
sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.

8


Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội [8, Điều 105-108].
Như vậy, theo Hiến pháp năm 1959, Viện kiểm sát nhân dân có một chức
năng hoàn toàn mới, khác hẳn với Viện Công tố trước kia là kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa
phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân, mở ra một trang mới trong
sự phát triển hệ thống tư pháp nước ta nói chung và Viện kiểm sát nói riêng
Hiến pháp năm 1980 quy định về Viện kiểm sát như sau:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các Cơ
quan ngang Bộ, các Cơ quan khác thuộc Chính phủ, các Cơ quan chính
quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và công dân, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi
trách nhiệm do luật định [8, Điều 138].
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định về Viện kiểm sát:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi
trách nhiệm do luật định [8, Điều 137].
Cụm từ: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, xuất hiện lần đầu tiên tại Hiến
pháp năm 1959, Hiến pháp 1980; đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm
2001) được giữ nguyên và cụ thể hơn "kiểm sát các hoạt động tư pháp".
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, năm 2002, quy định: "Viện

9


kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật" [9, Điều 1].
Ở Việt Nam, kiểm sát là hoạt động riêng có của cơ quan kiểm sát, một loại
cơ quan hiến định. Viện kiểm sát nhân dân là một loại cơ quan quyền lực, do cơ
quan quyền lực cao nhất của nhà nước - Quốc Hội- lập ra để kiểm soát quyền lực.
Theo các Hiến pháp trước đây, chỉ duy nhất có cơ quan Viện kiểm sát nhân dân mới
có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Khi thành
lập Viện kiểm sát nhân dân trước đây, theo mô hình các nước Xã hội chủ nghĩa,
nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước - cơ quan hành pháp. Tuy nhiên đến
năm 2001, với Nghị quyết của Quốc Hội khóa X sửa đổi bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992 thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm
sát nhân dân bị thu hẹp đáng kể. Lúc này, Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện
kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực - quyền nhân danh nhà
nước xét xử và tuyên án, do đó hoạt động tư pháp cũng cần được kiểm sát chặt chẽ
để tránh lạm dụng quyền lực. Kiểm sát hoạt động tư pháp mà thực chất là kiểm sát

hoạt động xét xử - một loại hình của kiểm sát quyền lực, điều này phù hợp với thể
chế nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nơi quyền lực nhà nước cao
nhất thuộc về Quốc hội. Về nguyên tắc, chính Quốc hội mới là cơ quan toàn quyền
kiểm sát, giám sát hoạt động xét xử. Để thực hiện quyền hạn của mình, Quốc hội,
ngoài mình tự mình tiến hành các hoạt động kiểm sát, còn lập ra và giao nhiệm vụ
kiểm sát quyền lực cho một số thiết chế độc lập, trong đó có Viện kiểm sát. Viện
kiểm sát giúp Quốc hội thực hiện hoạt động kiểm sát tư pháp.
Kiểm sát xét xử là việc thực hiện kiểm sát quyền lực tư pháp từ bên ngoài,
do cơ quan có thẩm quyền được Quốc hội lập ra thực hiện. Do đó, hoạt động kiểm
sát xét xử là nhân danh Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và kết quả
của hoạt động này là phải báo cáo Quốc hội. Quyền kiểm sát hoạt động xét xử được
giao cho Viện kiểm sát nhân dân.

10


Xét về khía cạnh lịch sử lập pháp: Hiến pháp năm 1946, Cơ quan Công tố
được tổ chức theo sắc lệnh của Chính phủ, theo Sắc lệnh nói trên thì Cơ quan Công
tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án, do bộ Tư pháp quản lý. Ngay trong cơ cấu
này thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cũng được thể hiện đó là các
Công tố viên có quyền giám sát công tác điều tra của Tư pháp cảnh sát, kiểm soát
công việc quản trị lao tù, có quyền kháng cáo bản án hình sự đã tuyên, riêng người
đứng đầu Viện Công tố của Tòa Thượng thẩm (Chưởng lý) còn có cả nhiệm vụ
giám sát việc thi hành các đạo luật, Sắc lệnh và quy tắc hiện hành trong quản hạt
của mình. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc Hội khóa I, Quốc hội đã quyết định Viện Công tố
Trung ương trực thuộc Chính phủ được thành lập trên cơ sở tách bộ phận Công tố
trực thuộc Tòa án. Tuy nhiên ngay cả mô hình này thì Viện Công tố cũng đã có
những nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật như giám sát việc chấp hành pháp
luật của Cơ quan điều tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác xét xử
của Tòa án, giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án hình

sự, dân sự và trong hoạt động của các Cơ quan giam giữ, cải tạo, khởi tố và tham
gia tố tụng những vụ án dân sự. Như vậy, ngay từ khi mới hình thành, Cơ quan
công tố đã thể hiện rõ xu hướng độc lập cả về tổ chức lẫn thẩm quyền hoạt động.
Chức năng không chỉ giới hạn ở thực hành quyền công tố mà còn giám sát hoạt
động điều tra, giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố tụng
dân sự, kháng cáo bản án hình sự, dân sự. Sau đó, Hiến pháp năm 1959- Hiến pháp
đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta ghi nhận sự ra đời của một loại hình cơ
quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước, đó là cơ quan Viện kiểm sát, tại điều
105 Hiến pháp năm 1959. Sự ra đời của mô hình Viện kiểm sát thay thế cho mô
hình Viện Công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế
thống nhất, điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới. Xét bối cảnh
lịch sử ra đời của Viện kiểm sát thì thấy việc lựa chọn mô hình này ở nước ta, Ban
soạn thảo Hiến pháp năm 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu quyết định
chuyển Viện Công tố thành Viện kiểm sát bao gồm cả chức năng công tố và chức
năng kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là hoàn toàn có sự cân nhắc,

11


tính toán và thể hiện tính khách quan chứ không phải là sự sao chép máy móc mô
hình Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới. Đến Hiến pháp năm 1980 và Hiến
pháp năm 1992 thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật vẫn luôn được giao
cho Viện kiểm sát.
1.2. Nhận thức chung về tố tụng dân sự
Trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi một cá nhân hay một cơ quan, tổ chức
phải sử dụng quyền khởi kiện đến Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Khi đó sẽ phát sinh một quy trình tố tụng mà trong đó Tòa án là cơ quan đại
diện cho Nhà nước có trách nhiệm giải quyết vụ việc. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện (nguyên đơn dân sự), cơ quan, tổ chức, cá nhân bị kiện (bị đơn dân sự), người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người phiên dịch, người làm chứng, người giám định,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự… là những chủ thể tham gia tố
tụng. Trong trường hợp này chúng ta có một tố tụng dân sự theo nghĩa hẹp: một Tòa
án cụ thể, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng cụ thể, những
hành vi tố tụng cụ thể…ví dụ: hành vi nộp đơn khởi kiện và thụ lý đơn khởi kiện,
hành vi thu thập, xuất trình chứng cứ, hành vi khiếu nại, kháng cáo phúc thẩm của
đương sự… những quan hệ pháp luật tố tụng cụ thể, một thời gian giải quyết được ấn
định cụ thể, tức là có một trình tự thủ tục để giải quyết một vụ án cụ thể. Thông
thường, có bao nhiêu vụ án dân sự có bấy nhiêu "tố tụng dân sự", đó cũng là quan
niệm đơn giản nhất về tố tụng dân sự được nhiều luật gia chia sẻ.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định:
Phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng dân sự; trình tự thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự thủ tục yêu cầu để
Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự,
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ

12


việc dân sự) tại Tòa án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ; quyền hạn và trách
nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham
gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị
xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp (sau đây
gọi chung là cơ quan, tổ chức) có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải
quyết các vụ, việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và
đúng pháp luật [11, Điều 1].

Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết
những tranh chấp dân sự sau
Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1. Tranh chấp giữa cá nhân với các nhân về quốc tịch Việt Nam
2. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản
3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự
4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này.
5. Tranh chấp về thừa kế tài sản
6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
7. Tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất theo
quy định của pháp luật về đất đai
8. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy
định của pháp luật
9. Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng
vô hiệu.
10. Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án
theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
11.Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn
đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành
án dân sự.

13


12. Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định [11, Điều 25].
Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1. Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực

hành vi dân sự.
2. Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và
quản lý tài sản của người đó.
3. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên
bố một người mất tích… [11, Điều 26]
Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án:
1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho
cha mẹ
… [11, Điều 27]
Những yêu cầu về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1. Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
2. Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
3. Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi
con sau ly hôn
4. Yêu cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên
hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn… [11, Điều 28]
Như vậy, khi có một quan hệ pháp luật dân sự nảy sinh trong thực tế, người
dân có quyền đề nghị các cơ quan pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, Tòa án là một trong các cơ quan pháp luật được nhà nước quy định có trách
nhiệm cùng với Viện kiểm sát và các cơ quan nhà nước khác tiến hành giải quyết

14


các quan hệ pháp luật có tranh chấp, hoặc yêu cầu theo một quy trình tố tụng chặt
chẽ tại Bộ luật tố tụng dân sự.

1.3. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự
1.3.1. Chức năng
Hiến pháp năm 2013 của nước Việt Nam sửa đổi Hiến pháp 1992 có hiệu lực
thi hành 01/01/2014, Viện kiểm sát nhân dân được quy định:
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các
Viện kiểm sát khác do luật định.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [8, Điều 107].
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp, Viện kiểm sát nhân dân là một hệ
thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước với chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả các khâu
công tác kiểm sát hoạt động tư pháp chính là biện pháp quan trọng góp phần thúc
đẩy các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước theo
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta.
Mỗi cán bộ, kiểm sát viên cần thấy rõ hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và có các biện pháp cụ thể để tiếp tục nâng cao
hơn nữa chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp nhằm đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp và mục đích xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với một nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh bảo vệ pháp luật, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước và các quyền, lợi ích chính
đáng của công dân.
Quốc hội khóa XIII thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

15



Việt Nam. Hiến pháp sửa đổi lần này đó đổi mới cả về nội dung và kỹ thuật lập
hiến; thể chế hóa sâu sắc và toàn diện chủ trương đổi mới của Đảng trên các lĩnh
vực; trong đó tư tưởng về con người, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân được xác định là tư tưởng đổi mới chủ đạo của Hiến pháp, là
mục tiêu hướng đến của các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Tuyệt đối tránh việc lạm dụng các biện pháp hạn chế quyền con người,
quyền công dân thay cho các biện pháp thu thập chứng cứ khách quan. Bảo đảm
dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân phải trở thanh mục tiêu và động lực hướng tới của các cơ quan tư
pháp nói chung, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Đây chính là thước đo sự tiến
bộ của nền tư pháp.
Xác định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp chính là nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm
chỉnh trong đời sống xã hội.
Thực hành quyền công tố hiểu một các khái quát là hoạt động nhằm phát
hiện tội phạm, truy tố người phạm tội ra Tòa, yêu cầu Tòa án xét xử và áp dụng
hình phạt đối với họ. Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kiểm sát các hoạt động
khởi tố,điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp... Kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và thực hiện quyền lực trong lĩnh vực tư
pháp nói riêng ở Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hoạt động có
tính tất yếu, khách quan, xuất phát từ nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực đó được khẳng định trong Hiến pháp. Chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thực chất là để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo
đảm cho Hiến pháp và pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo
đảm mọi tội phạm và vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm việc
giải quyết các vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh.

Kết quả lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp, ý kiến của các đại biểu

16


Quốc hội về Hiến pháp đều khẳng định trong điều kiện cụ thể của nước ta cần thiết
phải duy trì Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập, có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp đúng
theo nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước "Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" [8]. Đảng, Quốc hội và nhân dân cần một
thiết chế giám sát độc lập, hoạt động trực tiếp, thường xuyên, có hiệu quả cao như
Viện kiểm sát. Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân dân đó
góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Trên cơ sở đó,
Hiến pháp sửa đổi tiếp tục khẳng định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" [8, Điều 107].
Cùng với việc tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, Hiến pháp đã bổ
sung quy định "Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân" [8]. Quy định này một mặt đáp ứng yêu cầu tăng tính độc lập cho Kiểm
sát viên, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức vào hoạt
động thực thi công vụ của Kiểm sát viên, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tập
trung thống nhất lãnh đạo trong ngành Kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của Viện
trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với toàn hệ thống. Để cụ thể hóa yêu cầu
mới của Hiến pháp, cần mạnh dạn thực hiện cơ chế phân cấp thẩm quyền tố tụng
nhằm tăng sự chủ động và đề cao trách nhiệm cho Kiểm sát viên khi thực thi công
vụ, góp phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Đồng thời, xem đây là bước tiến

quan trọng, tạo cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất sửa đổi, bổ sung trong Dự án Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Dự án Bộ luật tố tụng hình sự.
1.3.2. Nội dung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự

17


Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân quy định về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của
nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải
được xử lý theo pháp luật [9, Điều 1-2].
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác
sau đây:
….
Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động, và những việc khác theo quy định của
pháp luật.

Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân
dân có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó…
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự,

hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác
theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ án
đúng pháp luật, kịp thời [9, Điều 3,6, 20].
Luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định tại:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy

18


định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ kiện dân sự kịp
thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với
các vụ việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án
tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công,
lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thầm.
3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà, phiên họp phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm…. [11, Điều 21].
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát
1. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng dân sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a). Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự;
b) Quyết định phân công Kiểm sát thực hiện kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân
sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này;
c) Kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng của Kiểm sát viên;

d) Quyết định tha đổi Kiểm sát viên;
đ) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản
án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy đinh của Bộ luật này [11, Điều 44].
Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
Khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có những có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án
dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án;
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
3. Kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án;

19


4. Tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết
việc dân sự theo quy định của Bộ luật này và phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự;
5. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện
kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát [11, Điều 45].
Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân
sự, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Toà án.
2. Tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở các thủ tục sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Tham gia hỏi đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại các
phiên toà, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ
việc dân sự.
4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên toà, phiên họp của Hội đồng
xét xử và những người tham gia tố tụng.

5. Kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án.
6. Yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật
chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị.
7. Yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem
xét, quyết định việc kháng nghị.
8. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Toà án theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự.
9. Yêu cầu hoãn thi hành án; quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật khi thực hiện kháng nghị theo thẩm quyền theo quy
định tại Điều 286, Điều 310 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
10. Thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị đối với các vi phạm của Toà
án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật.
11. Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân
các cấp phải tăng cường công tác phát hiện vi phạm về pháp luật nội dung, luật tố

20


tụng để thường xuyên thực hiện kiến nghị với cơ quan xét xử qua từng vụ việc; định
kỳ sáu tháng, một năm phải có kiến nghị tổng hợp vi phạm đối với cơ quan xét xử
ngang cấp.
Kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án
- Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự thì trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ
ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện
kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án [11, Điều 174].
- Căn cứ Quy chế Kiểm sát dân sự thì Khi nhận được thông báo thụ lý vụ án,
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải vào sổ thụ lý theo dõi, kiểm tra văn bản thông
báo thụ lý theo những nội dung được quy định tại Điều 174 Bộ luật tố tụng dân sự;

lập phiếu kiểm sát theo dõi vi phạm để tổng hợp kiến nghị với Toà án các vi phạm
về thời hạn gửi thông báo, nội dung, hình thức thông báo; theo dõi quyết định
chuyển vụ án của Toà án [22, Điều 6].
Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở cấp sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở cấp sơ thẩm:
- Tham gia phiên toà sơ thẩm:
Theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự thì việc tham gia phiên tòa của Viện
kiểm sát nhân dân như sau:
+ Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với
các việc dân sự;
+ Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với
những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh
chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có
một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất, tâm thần...
+ Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm [11, Điều 21, Khoản 2, 3].

21


×