Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ( Qua thực tiến Tỉnh Thanh Hóa )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.93 KB, 109 trang )


1

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÊ TRUNG KIÊN



VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
(QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA)

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



tóm tắt luận văn thạc sĩ luật học



hà nội - 2012
Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội




Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí úc




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.



Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tƣ liệu - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội


4
MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG
LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
7
1.1.
Nội dung và đặc điểm của lĩnh vực thi hành án dân sự
7
1.1.1.
Khái niệm thi hành án dân sự
7
1.1.2.

Đặc điểm của thi hành án dân sự
10
1.1.2.1.
Thi hành án dân sự mang bản chất hành chính - tư pháp
10
1.1.2.2.
Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là Cơ
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và đương sự (người
phải thi hành án, người được thi hành án)
12
1.1.2.3.
Đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành
án của các bên đương sự
13
1.1.2.4.
Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự theo quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự
14
1.2.
Quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân sự
15
1.2.1.
Sơ lược lịch sử quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án
dân sự
15
1.2.2.
Khái niệm chung về quản lý nhà nước
17
1.2.3.
Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi

19


5
hành án dân sự
1.2.4.
Các nguyên tắc quản lý
19
1.2.5.
Hình thức, phương pháp quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
thi hành án dân sự
22
1.2.6.
Nội dung cụ thể và thủ tục quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
thi hành án dân sự
23
1.2.7.
Chủ thể quản lý
27
1.3.
Khung pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay ở nước ta
28
1.4.
Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự và vai trò hỗ trợ
của Nhà nước
34

Chương 2: VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở THANH HÓA HIỆN NAY
37

2.1.
Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
37
2.1.1.
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa
37
2.1.2.
Sơ lược quá trình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại
Thanh Hóa
39
2.1.3.
Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
44
2.1.3.1.
Hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự
44
2.1.3.2.
Hoạt động tổ chức, cán bộ
46
2.1.3.3.
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự
49
2.1.3.4.
Về cơ sở vật chất
50
2.1.3.5.
Hoạt động phối hợp trong thi hành án dân sự và vai trò chỉ
đạo của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp
51
2.2.

Thực trạng vai trò của nhà nước và quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
54
2.2.1.
Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
hiện nay
56


6
2.2.2.
Thực trạng về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án
dân sự tại Thanh Hóa
62
2.2.2.1.
Quản lý nhà nước về chuyên môn, nghiệp vụ
62
2.2.2.2.
Quản lý nhà nước về tổ chức cán bộ
65
2.2.2.3.
Quản lý nhà nước về cơ sở vật chất
67
2.2.2.4.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự
68
2.2.2.5.
Xử lý vi phạm và các hình thức trách nhiệm trong lĩnh vực
thi hành án dân sự
69

2.2.2.6.
Quản lý nhà nước một số mặt công tác khác
70

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÕ
CỦA NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TẠI THANH HÓA
75
3.1.
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
75
3.2.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự
83
3.3.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hoàn thiện chế độ chính
sách đãi ngộ cán bộ, công chức, người lao động trong ngành
88
3.4.
Tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động thi hành án
dân sự và phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý nhà
nước trong hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
90
3.5.
Xã hội hóa lĩnh vực thi hành án dân sự
94

KẾT LUẬN
97


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99


7



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

THADS
: Thi hành án dân sự
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa


8



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1

Kết quả thi hành ỏn dõn sự về việc
44
2.2
Kết quả thi hành ỏn dõn sự về tiền
45



9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động của Nhà nước để đưa bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, của các cơ quan có
thẩm quyền khác được tôn trọng và thực hiện trên thực tế nhằm bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần giữ
vững kỷ cương, phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Chính vì vậy, thi hành án nói chung, THADS nói riêng đã trở thành một
nguyên tắc hiến định. Điều 136 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001
ghi nhận: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [36]. Điều 4 Luật THADS 2008 quy định
"Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ
chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong
phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án" [41].
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta chính thức
khởi xướng và lãnh đạo đổi mới đất nước. Việc xóa bỏ cơ chế quản lý tập
trung bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã

làm thay đổi sâu rộng mọi mặt đời sống xã hội, đưa nước ta sang một giai
đoạn phát triển mới. Các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, các giao
lưu kinh tế, dân sự trong nước và quốc tế phát triển đa dạng, phong phú. Công
cuộc đổi mới đất nước làm xuất hiện những yêu cầu khách quan, tất yếu phải
cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước để phù hợp với tình hình mới. Vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương cải cách bộ máy Nhà nước nhằm hướng tới xây
dựng một nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội


10
bằng pháp luật, đề cao tính dân chủ và các giá trị nhân văn. Trong bối cảnh
chung đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về việc cải cách tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan THADS nói
riêng như: Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về những
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020; Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 về tăng cường và
nâng cao hiệu quả công tác THADS; Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày
01/7/2008 về tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS do
Thủ tướng Chính phủ ban hành; Luật THADS năm 2008…
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 06/10/1992, Pháp
lệnh THADS năm 1993, Chỉ thị số 266/CT-TTg ngày 02/6/1993 của Thủ
tướng Chính phủ, công tác THADS được Tòa án chuyển giao cho Bộ Tư pháp
thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương. Gần 20 năm qua, công tác
THADS đã có chuyển biến tích cực, hệ thống văn bản pháp luật, tổ chức bộ
máy từng bước được hoàn thiện, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư, kết quả
thi hành án năm sau luôn cao hơn năm trước. Theo thống kê của Bộ Tư pháp:
Kết quả thi hành án dân sự (về việc, về tiền và tỷ lệ việc
chuyển sang năm sau/ tổng số việc có điều kiện thi hành) từ 2007 -
2010 như sau: Năm 2007: 69% về việc; 55% về tiền; chuyển sang

năm sau: 25,5%. Năm 2008: 70,96% về việc; 45,66% về tiền;
chuyển sang năm sau: 29%. Năm 2009: 81,05% về việc, 70,54% về
tiền; chuyển sang năm sau: 18,95%. Năm 2010: 86,35% về việc,
80,10% về tiền; chuyển sang năm sau: 13,64% [4, tr. 8]
.
.
Xã hội hóa lĩnh vực THADS bước đầu thí điểm tại Thành phố Hồ Chí
Minh đã thu được kết quả tốt; hoạt động giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đi
vào nề nếp, nâng cao về chất lượng; từng bước khẳng định và củng cố được vị
thế, uy tín của các cơ quan THADS, xứng đáng với sự tin cậy, quan tâm của
Đảng, của Nhà nước. Đạt được kết quả như trên nói lên sự cố gắng, nỗ lực của


11
toàn ngành Tư pháp nói chung, của cán bộ, công chức lực lượng THADS nói
riêng, bên cạnh đó là sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, các
cấp chính quyền, sự phối hợp của các ngành, tổ chức hữu quan trong THADS.
Tuy nhiên, công tác THADS hiện nay vẫn còn bộc lộ những tồn tại và
hạn chế như: hệ thống văn bản pháp luật về THADS thiếu đồng bộ, một số
quy định pháp luật còn mang tính hình thức, khó áp dụng trong thực tế thi
hành án; việc kiện toàn tổ chức, bộ máy theo quy định còn chậm; cơ sở vật
chất vẫn còn nhiều khó khăn; tình trạng khiếu nại, tố cáo có diễn biến phức
tạp, kéo dài; hoạt động phối hợp trong THADS có lúc, có nơi chưa được quan
tâm, chú trọng và thiếu hiệu quả; kết quả công tác THADS hàng năm tăng
chậm, không bền vững, án tồn đọng chuyển sang năm sau còn nhiều; một số
tổ chức, cá nhân chưa nhận thức và coi trọng công tác THADS; vẫn còn số ít
cấp ủy, chính quyền và đoàn thể ở địa phương chưa thực sự quan tâm, chú
trọng đến công tác THADS. Vì vậy, hiệu quả của công tác THADS chưa cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, chưa củng cố được lòng tin của quần
chúng nhân và đảm bảo được tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng trên, đó là vai trò của Nhà
nước đối với công tác THADS vẫn còn hạn chế, quản lý nhà nước về công tác
THADS tỏ ra bất cập, chồng chéo.
Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả lựa chọn đề tài "Vai trò của Nhà
nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)" là
đề tài luận văn cao học Luật của mình. Đây là một vấn đề phức tạp liên quan
đến nhiều khoa học chuyên ngành khác nhau như: Nhà nước và pháp luật;
quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước… Tuy nhiên, với khả năng và
phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề đặt ra chỉ tập trung trong những nội
dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong lĩnh vực THADS, đồng thời kiến
nghị một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước, tạo động lực
thúc đẩy hoạt động THADS nói riêng và hoạt động thi hành án nói chung phát
triển hơn.


12
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây trước những đòi hỏi khách quan, cấp thiết của công
tác THADS đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực THADS
như: Tìm hiểu pháp luật thi hành án dân sự của Nhà xuất bản chính trị quốc gia
năm 1999; Kỹ năng thi hành án dân sự năm 2010 của Học viện Tư pháp biên
soạn; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về
chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện nghiên cứu Khoa học
pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện;
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án",
mã số 96-98-027/ĐT do Cục THADS - Bộ Tư pháp thực hiện; Đề tài cấp Nhà
nước "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở
Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài "Thi hành án
dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp
chủ trì thực hiện. Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn

thạc sĩ Luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự" của tác
giả Hoàng Kim Chiến; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn
Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự"
của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội hóa thi hành
án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê Xuân Hồng; Luận văn thạc sĩ luật học
"Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về
"Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam". Bên cạnh đó là Giáo trình
môn Luật Thi hành án dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội và các trường Đại
học có chuyên ngành Luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…Các công trình
nêu trên đã nghiên cứu về lĩnh vực THADS ở những góc độ, khía cạnh và
mức độ khác nhau, ít nhiều cũng đã có đề cập đến vấn đề vai trò của Nhà nước
trong lĩnh vực THADS. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về nội dung này.


13
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng vai trò
của Nhà nước đối với lĩnh vực THADS, luận văn đưa ra một số phương hướng
và giải pháp nâng cao vài trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể sau
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong lĩnh
vực THADS trong điều kiện ở nước ta hiện nay.
- Đánh giá đúng đắn, toàn diện thực trạng vai trò của Nhà nước trong

lĩnh vực THADS và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Kiến nghị những giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước, tạo điều
kiện thuận lợi thúc đẩy công tác THADS nói riêng, hoạt động thi hành án nói
chung đạt hiệu quả cao hơn.
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi thực tiễn công tác THADS của
tỉnh Thanh Hóa. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề đặt ra chỉ giới
hạn trong những nội dung cơ bản về vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực
THADS để tìm ra giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước, góp phần hoàn
thiện, phát triển hoạt động thi hành án nói chung và THADS nói riêng trong
điều kiện thực tế của nước ta hiện nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam.


14
Tác giả luận văn dùng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng
hợp, lịch sử, luật học so sánh để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội
dung của đề tài.
5. Điểm mới của luận văn
Luận văn không tập trung phân tích sâu những vấn đề về chuyên môn
nghiệp vụ trong công tác THADS mà nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn, thực trạng, nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm góp phần
nâng cao vai trò của Nhà nước cũng như hiệu quả công tác trong lĩnh vực thi
hành án nói chung, THADS nói riêng.
6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu
Hiện nay, hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vai
trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS. Vì vậy, Luận văn nghiên cứu về vấn

đề này trong điều kiện hiện tại cũng đã có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với
hoạt động THADS nói riêng và thi hành án nói chung.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu về vai trò của Nhà nước và quản lý nhà nước đối
với hoạt động thi hành án; sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy,
học tập và đặc biệt là cho việc từng bước hoàn thiện pháp luật về thi hành án
trong bối cảnh hiện nay ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án dân sự.
Chương 2: Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở
Thanh Hóa hiện nay.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước
trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại Thanh Hóa.


15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Quan niệm về THADS là đề tài tranh luận chưa có hồi kết trên diễn
đàn khoa học pháp lý. Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận
và cách tiếp cận khác nhau về THADS. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có
một quan niệm thống nhất về THADS. Qua nghiên cứu tài liệu, qua tiếp thu ý
kiến của các nhà khoa học pháp lý và những người làm công tác pháp luật

hiện tại có một số quan điểm cơ bản sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của
quá trình tố tụng. Bởi vì, thi hành án là để thực hiện mục tiêu chung của toàn
bộ quá trình tố tụng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ mới dừng lại ở việc
làm rõ đúng hay sai, phải hay trái trên văn bản giấy tờ. Nếu muốn chân lý
được thực hiện trên thực tế cần phải chờ kết quả của công tác thi hành án. Vì
vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử, ở giai đoạn này,
cơ quan thi hành án được áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật
để đưa bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, của các
cơ quan có thẩm quyền khác trở thành hiện thực trong đời sống thực tế. Thi
hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác về bản chất với các hoạt động
hành chính là tổ chức và quản lý.
Quan điểm thứ hai khẳng định, thi hành án là hoạt động hành chính -
tư pháp. Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử
của Tòa án chấm dứt khi Tòa án nhân danh Nhà nước ra phán quyết. Thi hành
án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì:


16
Thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng
là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế,
trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy
định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt
động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật [42, tr. 21].
Đặc thù trong các quan hệ thủ tục thi hành án (đây là một vấn đề dễ
dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng) có thể bao gồm cả quan hệ mang
tính chất tố tụng và quan hệ mang tính hành chính - tư pháp, nhưng các quan
hệ mang tính hành chính - tư pháp là chủ yếu hơn (đặc biệt là trong thi hành
án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động…). Thi hành án là hoạt

động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc,
Nhà nước có thể ban hành các quy định để xã hội hóa hoạt động này. Đây là
điểm khác biệt cơ bản so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính
quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa.
Quan điểm thứ ba, xác định, thi hành án là hoạt động tư pháp. Khái
niệm tư pháp hiểu theo nghĩa rộng là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức
bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án giữ vị trí trung tâm.
Thi hành án là hoạt động tiếp theo của quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá
trình xét xử. Bởi vì, gốc của hoạt động thi hành án là Bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án và các quyết định được đưa ra thi hành theo quy
định của pháp luật. Cơ quan thi hành án phải thi hành đúng theo phán quyết của
Tòa án không được suy diễn, làm trái. Tuy chịu sự chi phối như trên, nhưng ở
giai đoạn thi hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt. Bởi lẽ, khi bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chân lý đã được làm sáng tỏ, có tội
hay vô tội, đúng hay sai đã được phán quyết rõ ràng. Việc tổ chức thi hành
các phán quyết của Tòa án không thuộc chức năng của cơ quan xét xử, cũng
không chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều chỉnh của
pháp luật thi hành án. Thi hành án cũng không mang tính chất hành chính, bởi


17
hành chính là hoạt động chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính đưa
ra trên cơ sở mệnh lệnh có tính bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp
dưới. Trong khi đó, thi hành án là hoạt động thực hiện đúng phán quyết của
Tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính, thực chất hoạt động hành
chính trong lĩnh vực thi hành án chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính
của cơ quan thi hành án là tổ chức thi hành án theo đúng quy định của pháp luật.
Mỗi quan điểm trên đều có cơ sở khoa học và hạt nhân hợp lý riêng.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động
hành chính - tư pháp là hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, thi hành án không chỉ đơn thuần

là hoạt động mang tính hành chính, hay tư pháp, không phải là giai đoạn cuối
cùng của quá trình tố tụng. Bản chất của hoạt động thi hành án thể hiện rõ cả
hai đặc điểm đó là tính hành chính và tính tư pháp. Vì vậy, nên coi thi hành án
là hoạt động hành chính - tư pháp.
Để làm rõ khái niệm THADS, chúng ta phải hiểu như thế nào về "dân
sự" trong THADS. Hiện có hai nhóm ý kiến khác nhau như sau:
Ý kiến thứ nhất, xác định "dân sự" theo nghĩa hẹp. Cơ sở để đưa ra ý
kiến này xuất phát từ quy định tại Điều 1 của Bộ luật Dân sự năm 2005 cho
rằng: quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản
trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong thi hành
án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và một số loại bản án, quyết định có tính
chất dân sự như: quyết định về tài sản trong vụ án hình sự, hành chính, quyết
định giải quyết tranh chấp kinh tế hoặc thương mại của trọng tài được tiến
hành theo trình tự, thủ tục riêng.
Ý kiến thứ hai cho rằng, phải hiểu khái niệm "dân sự" ở đây theo
nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh
chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại


18
bản án, quyết định có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản
án, quyết định khác do pháp luật quy định.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi lẽ theo quy định của
pháp luật hiện hành ở nước ta có nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được
giải quyết theo các trình tự, thủ tục khác nhau (như tố tụng dân sự, kinh tế,
hành chính, lao động…) nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng
theo trình tự, thủ tục THADS. Điều này cũng phù hợp với pháp luật của nhiều
nước trên thế giới: việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về

nội dung là luật tư (luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động) được thực
hiện theo một thủ tục chung quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy,
phạm vi THADS phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm bản án, quyết định
dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, phần dân sự trong bản án,
quyết định hình sự (như hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản
thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự khác),
phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại, bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
(Điều 1 Luật THADS năm 2008).
Từ sự phân tích nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm THADS như sau:
Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức,
người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án,
quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
1.1.2.1. Thi hành án dân sự mang bản chất hành chính - tư pháp
Tính chất tư pháp trong hoạt động thi hành án được thể hiện như sau:
Thi hành án là hoạt động tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, trước hết đó là hoạt


19
động nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án, đồng thời bao gồm cả các
hoạt động thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Điều này thể hiện rõ trong việc thi hành
quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhằm đảm bảo cho việc xét xử, cũng
như đảm bảo cho việc thi hành án sau này, mặc dù chưa có kết quả xét xử của
Tòa án. Cơ sở của hoạt động THADS là các bản án, quyết định của Tòa án và
của cơ quan có thẩm quyền theo quy định được đưa ra thi hành. Mục đích của

của hoạt động THADS là đảm bảo cho phán quyết của Tòa án và các quyết
định khác của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện
trong đời sống thực tế. Hơn nữa, theo quy định của Hiến pháp 1992, sửa đổi,
bổ sung năm 2001 thì Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng chính là thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (Điều 137). Theo
quy định của Luật THADS năm 2008 "Viện kiểm sát các cấp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành
án của cơ quan thi hành án dân sự…" [41]. Nghĩa là, ngay trong các văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất như Hiến pháp, Luật cũng đã khẳng định
THADS là hoạt động tư pháp.
Tính chất tư pháp của hoạt động thi hành án còn được thể hiện như
sau: Trong quá trình thi hành án, người được thi hành án và người phải thi
hành án có quyền thỏa thuận và tự định đoạt với nhau về cách thức thi hành
án, nhà nước khuyến khích các bên đương sự tự nguyện thi hành án. Quan hệ
"tư" đó làm cho tính chất tư pháp của hoạt động THADS nổi bật, chỉ khi các
bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về phương thức thi hành án và
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thì mới
bị cưỡng chế thi hành án (gồm cả quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại theo
quy định của Luật THADS năm 2008). Trong quá trình tổ chức thi hành án,
Chấp hành viên chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của
mình, tức là có tính độc lập rất cao trong hoạt động nghiệp vụ.


20
Mặt khác, yếu tố hành chính của hoạt động thi hành án thể hiện ở chỗ,
Chấp hành viên phải tuân theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan quản
lý THADS, cơ quan THADS và của thủ trưởng cơ quan THADS. Trong quá
trình tổ chức thi hành án, nếu như Chấp hành viên có vi phạm thủ tục thi hành
án dẫn tới khiếu nại của đương sự, thì việc giải quyết khiếu nại thực hiện

thông qua thủ tục hành chính được quy định trong Luật THADS năm 2008,
mà không xem xét, giải quyết như trình tự tố tụng. Khác với mối quan hệ của
các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử được quy định chặt chẽ trong luật tố tụng.
Quan hệ giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu quan khác theo quy
định của Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn, đó là những
quan hệ mang bản chất hành chính, có tính chấp hành và điều hành. Trong
quá trình THADS, để buộc người phải thi hành án chấp hành các bản án,
quyết định có hiệu lực của Tòa án và của cơ quan có thẩm quyền theo quy
định, hoạt động của Chấp hành viên phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc,
kiểm tra, xử phạt… là những tính chất của hoạt động quản lý hành chính.
1.1.2.2. Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là Cơ
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và đương sự (người phải thi
hành án, người được thi hành án)
Quan hệ THADS luôn tồn tại ba chủ thể bắt buộc là cơ quan THADS,
Chấp hành viên và các bên đương sự (người phải thi hành án, người được thi
hành án) hình thành trên cơ sở thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Cơ quan THADS và Chấp hành viên là chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước,
có quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để buộc các bên
đương sự trong THADS phải nghiêm chỉnh chấp hành các phán quyết của
Tòa án và quyết định của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và trật tự pháp luật XHCN.
Trong THADS, tính chủ động trong hoạt động tác nghiệp của Chấp
hành viên luôn được đề cao. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình,


21
Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về
việc thi hành án, được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và uy tín (Điều 20, Luật THADS năm 2008). Kể từ thời điểm được thủ

trưởng cơ quan THADS phân công tổ chức thi hành vụ việc, hầu như Chấp
hành viên có quyền chủ động rất lớn trong hoạt động nghiệp vụ để thi hành
dứt điểm vụ việc. Trừ một số việc thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan
THADS như ra các quyết định ủy thác, trả đơn, đình chỉ, tạm đình chỉ, hoãn
thi hành án, trả lại tiền, tài sản theo quyết định của Bản án, thành lập Hội
đồng tiêu hủy vật chứng (theo sự đề xuất của Chấp hành viên)…còn lại Chấp
hành viên được quyền chủ động trong việc thiết lập hồ sơ, thông báo, xác
minh thi hành án, triệu tập đương sự, đôn đốc giải quyết việc thi hành án, đặc
biệt là chủ động trong việc ra các quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế và
biện pháp bảo đảm thi hành án, xử lý tài sản kê biên, trực tiếp ký kết hợp
đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá, với tổ chức bán đấu giá tài sản…Nói
tóm lại, trong quy trình giải quyết vụ việc THADS, ngoài phần việc thuộc
thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan THADS như đã nêu, Chấp hành viên có
quyền chủ động rất cao trong việc tổ chức thi hành dứt điểm Bản án, quyết
định của Tòa án. Về nguyên tắc, tính chủ động, độc lập của Chấp hành viên
trong hoạt động nghiệp vụ luôn được tôn trọng, bảo vệ.
1.1.2.3. Đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành
án của các bên đương sự
Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải
trong quan hệ dân sự. Đối với hoạt động THADS, cơ quan thi hành án phải
chủ động ra quyết định thi hành án các khoản: hình phạt tiền, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính, án phí; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung
quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; thu hồi quyền sử dụng đất
và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời (khoản 1, Điều 36 Luật THADS năm 2008), ngoài ra cơ
quan thi hành án chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở yêu cầu của người phải thi


22
hành án, người được thi hành án. Mặt khác, cơ quan thi hành án và Chấp hành

viên phải tôn trọng và đảm bảo cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa
thuận và tự nguyện thi hành án. Thỏa thuận về thi hành án của đương sự trong
THADS không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức
xã hội, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận thi hành
án. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận. Nói cách khác, cơ
quan thi hành án và Chấp hành viên chỉ được tổ chức thi hành án trong phạm
vi yêu cầu hợp pháp của đương sự, đồng thời phải tôn trọng thỏa thuận hợp
pháp của đương sự về phương thức thi hành án như: thời gian, địa điểm, tài
sản thậm chí cả thỏa thuận hoãn thi hành án, thỏa thuận rút đơn từ bỏ quyền
yêu cầu thi hành án…Đây là đặc điểm nói lên sự khác nhau cơ bản giữa
THADS với thi hành án hình sự và thi hành án hành chính phi tài sản.
1.1.2.4. Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự theo quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự
Với chức năng thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các
quyết định khác của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Trình tự, thủ
tục THADS là một cơ chế chặt chẽ theo quy định của pháp luật THADS nhằm
phục vụ cho chức năng thi hành án. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, thủ
tục THADS phải đảm bảo tính chính xác cao độ, bởi lẽ hoạt động thi hành án
là để hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ THADS, vì
vậy, nếu cơ quan thi hành án, Chấp hành viên áp dụng pháp luật THADS
không chính xác sẽ dẫn đến hậu quả thực tế rất khó khắc phục (khác với trình
tự tố tụng tại Tòa, còn có thủ tục xét lại Bản án, Quyết định). Việc cưỡng chế
thi hành án được xem là biện pháp cuối cùng để thi hành dứt điểm vụ việc, Chấp
hành viên có quyền sử dụng biện pháp cưỡng chế nhưng phải đảm bảo các thủ
tục theo quy định, không được áp dụng biện pháp cưỡng chế tùy tiện. Bên cạnh
đó, Nhà nước luôn khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án, kể cả khi đã bị
áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nhưng "trước khi mở cuộc đấu giá
01 ngày người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản nếu nộp đủ số tiền



23
thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc
cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá" [41, khoản 5, Điều 101]. Hiện
nay, Thủ tục thi hành án không quy định thời hạn để giải quyết xong dứt điểm
một vụ việc THADS cụ thể. Vì vậy, các vụ việc THADS thường bị kéo dài,
án tồn đọng và dư luận xã hội bức xúc.
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.2.1. Sơ lƣợc lịch sử quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thi hành án
dân sự
Thời Pháp thuộc, hoạt động THADS ở nước ta được tổ chức theo hình
thức Thừa phát lại - đây là những công lại làm nhiệm vụ chuyền phiếu, các
việc về tư pháp, thi hành các bản án, công văn và mệnh lệnh khác của Tòa án.
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về
việc "Giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ", theo đó hoạt động
Thừa phát lại tiếp tục được duy trì. Ngày 24/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh số 13 quy định về tổ chức Tòa án, xác định Ban Tư pháp xã thuộc
Tòa án có nhiệm vụ thực hiện các việc tư pháp, hòa giải tất cả các việc dân
sự, thương sự và thi hành mệnh lệnh của Thẩm phán Tòa án cấp trên. Đến Sắc
lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng thì hoạt
động THADS do Thẩm phán Tòa án cấp huyện đảm nhiệm dưới sự kiểm soát
của Biện lý. Ngày 24/10/1960, Quốc hội khóa I thông qua Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân có quy định, tại Tòa án nhân dân địa phương có chức danh "nhân
viên chấp hành án" làm nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định về dân sự,
phần dân sự trong bản án, quyết định về hình sự. Tuy nhiên, do điều kiện lịch
sử của nước ta, nên tại thời điểm này công việc thi hành án do Tòa án giao
cho một Thẩm phán phụ trách thi hành án. Thẩm phán làm cả nhiệm vụ xét
xử và tổ chức thi hành án. Thực hiện Quyết định số 186/TC và Thông tư
187/TC ngày 13/10/1972 của Tòa án nhân dân tối cao lần đầu tiên quy định
chức danh "Chấp hành viên". Các Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành



24
những bản án, quyết định về dân sự, phần dân sự trong bản án, quyết định về
hình sự và chịu sự quản lý của các Tòa án nhân dân địa phương. Chấp hành
viên của Tòa án cấp trên không có quyền chỉ đạo công tác của Chấp hành viên
Tòa án cấp dưới mà chỉ giúp Chánh án theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn
công tác THADS của Tòa án cấp dưới. Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh THADS
do Hội đồng Nhà nước ban hành đã tạo ra những bước đổi mới đầu tiên về
trình tự, thủ tục THADS. Tuy nhiên, hoạt động THADS vẫn do Tòa án nhân
dân quản lý, điều hành.
Thực hiện Pháp lệnh THADS năm 1993, công tác THADS được Tòa
án chuyển giao cho Bộ Tư pháp thống nhất quản lý từ trung ương đến địa
phương. Ở Trung ương, Bộ Tư pháp thành lập Cục quản lý THADS để giúp
Bộ trưởng quản lý công tác THADS trên phạm vi toàn quốc. Bộ Quốc phòng
cũng thành lập Phòng quản lý thi hành án để giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
và Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý công tác THADS trong quân đội. Ở địa
phương, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách
nhiệm quản lý nhà nước về công tác THADS trên địa bàn. Các cơ quan tư
pháp địa phương giúp UBND cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên trong việc
quản lý nhà nước đối với công tác THADS (Sở tư pháp quản lý phòng thi
hành án, phòng Tư pháp quản lý đội thi hành án) trên địa bàn.
Thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004, bộ máy cơ quan THADS
bước đầu có sự độc lập tương đối với cơ quan Tư pháp địa phương, tại
THADS cấp tỉnh đã được thành lập các phòng chuyên môn, công tác tổ chức,
quản lý cán bộ được giao cho Trưởng THADS tỉnh tham mưu trực tiếp cho
Giám đốc Sở Tư pháp, Hội đồng Thi đua, khen thưởng, Hội đồng sáng kiến
cơ sở của cơ quan THADS cũng được thành lập trong giai đoạn này.
Thực hiện Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn, hệ
thống tổ chức cơ quan THADS được quy định như sau: ở trung ương có Tổng
cục THADS là cơ quan giúp Bộ Tư pháp quản lý công tác THADS trong toàn



25
quốc, các cơ quan THADS địa phương gồm: Cục THADS cấp tỉnh là cơ quan
trực thuộc Tổng cục THADS, Chi cục THADS cấp huyện là cơ quan trực
thuộc Cục THADS tỉnh, đồng thời chịu sự quản lý, chỉ đạo của Chủ tịch
UBND cùng cấp. Hệ thống THADS trong quân đội, có Cục Thi hành án Bộ
Quốc phòng là cơ quan quản lý thi hành án trực thuộc Bộ Quốc phòng. Ở
quân khu và tương đương có phòng thi hành án cấp quân khu là cơ quan thi
hành án trực thuộc quân khu.
1.2.2. Khái niệm chung về quản lý nhà nƣớc
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý nhưng quan
niệm chung nhất về quản lý được sử dụng rộng rãi trong khoa học nghiên cứu
và trong thực tiễn là định nghĩa về quản lý của điều khiển học. Theo quan
niệm của điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay
một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng
để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý
nhằm đạt được những mục tiêu đã định trước. Có quản lý kỹ thuật, quản lý xã
hội và quản lý các đối tượng khác nhau. Quản lý xã hội là sự tác động đến xã
hội nhằm mục đích duy trì những đặc điểm về chất, điều chỉnh, hoàn thiện và
phát triển những đặc điểm đó của xã hội. Do tính chất xã hội trong hoạt động
lao động của con người, quản lý tồn tại trong mọi xã hội ở bất kỳ lĩnh vực nào
và trong bất cứ giai đoạn phát triển nào. Lao động của con người luôn là lao
động tập thể, mỗi người có một vị trí nhất định trong tập thể nhưng có quan
hệ và có giao tiếp với người khác, tập thể khác trong quá trình lao động. Vì
vậy, cần có sự quản lý để duy trì tính tổ chức, sự phân công lao động, các mối
quan hệ giữa những người trong một tổ chức xã hội và giữa các tổ chức xã hội
trong quá trình sản xuất vật chất, trong quá trình xã hội nhằm đạt mục tiêu
nhất định. Thực chất của hoạt động quản lý chính là hoạt động tổ chức, chỉ
huy phối hợp trong quá trình xã hội hóa lao động, quản lý xuất hiện như một

tất yếu khách quan của đời sống xã hội, ở đâu có hoạt động chung của nhiều
người, ở đó cần có sự quản lý.


26
Tóm lại, quản lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục tiêu
đưa hệ thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là một phạm trù xuất
hiện trước khi có Nhà nước với tính chất là một loại lao động xã hội hay lao
động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được phát sinh từ lao
động, không tách rời với lao động và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt
động lao động. Như vậy, quản lý xã hội không phải là sản phẩm của sự phân
chia quyền lực, mà là sản phẩm của sự phân công lao động nhằm liên kết và
phối hợp hoạt động chung của con người.
Quản lý nhà nước được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, theo nghĩa
rộng quản lý nhà nước là sự quản lý của các cơ quan trong bộ máy nhà nước,
theo nghĩa hẹp quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành được đặc
trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức; được thực hiện trên cơ sở và để thi hành
pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ
quản lý nhà nước). Nói cách khác, "Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ
thể mang quyền lực nhà nước chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý
nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy tất cả
các cơ quan nhà nước đều thực hiện chức năng quản lý nhà nước" [45, tr. 12].
Không thể có quản lý nhà nước khi chưa có nhà nước, quản lý nói
chung và quản lý nhà nước nói riêng là hoạt động rất phức tạp và phụ thuộc
nhiều yếu tố khác nhau như yếu tố con người, yếu tố chính trị, yếu tố tổ chức,
yếu tố quyền lực, yếu tố văn hóa…là những yếu tố quan trọng có tác động đến
nội dung, phương thức và công cụ để tiến hành quản lý, vì vậy cần phải chú ý
khi thực hiện hoạt động quản lý. Quản lý nhà nước ở mỗi đất nước khác nhau,
mỗi chế độ chính trị khác nhau, mỗi thời kỳ khác nhau cũng khác nhau nhưng

tựu chung lại là quản lý trên ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp để thực
hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
Như đã phân tích, công cụ chủ yếu được sử dụng để quản lý nhà nước
là pháp luật, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp


27
quyền XHCN. Để quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế
XHCN trong điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, yêu cầu Nhà
nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải
hoạt động có hiệu quả, mọi công dân trong ý thức, cũng như việc làm đều
"bình đẳng trước pháp luật" và tuyệt đối tôn trọng, chấp hành pháp luật.
1.2.3. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thi
hành án dân sự
Hiện nay, chưa có một khái niệm chính thống nào về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực THADS. Tuy nhiên, quản lý nhà nước trong lĩnh vực
THADS có thể được hiểu là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước trong lĩnh
vực THADS nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh đối với hoạt động
THADS do các cơ quan THADS tiến hành để hiện thực hóa những bản án,
quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định
và được bảo đảm bằng quyền lực Nhà nước.
1.2.4. Các nguyên tắc quản lý
Theo Từ điển tiếng Việt: "Nguyên tắc là điều cơ bản định ra nhất thiết
phải tuân theo trong một loạt việc làm" [56, tr. 672]. Như vậy, nguyên tắc là
tư tưởng cốt lõi, chủ đạo, chỉ đạo hoạt động và xuyên suốt trong hoạt động đó.
Nguyên tắc quản lý THADS là những tư tưởng cốt lõi, chỉ đạo được quy định
trong chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước làm cơ sở cho
việc xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
THADS. Theo ý kiến của chúng tôi, nguyên tắc quản lý nhà nước trong lĩnh
vực THADS trước hết tuân thủ nguyên tắc cơ bản trong quản lý bộ máy nhà

nước nói chung và một số nguyên tắc trong lĩnh vực THADS, bao gồm:
a. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Ở nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là "lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội" [34, Điều 4], nhà nước có vai trò quản lý và
nhân dân làm chủ. Nói cách khác, Nhà nước là công cụ để nhân dân làm chủ

×