Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Vi phạm di tích lịch sử, văn hóa danh lam thắng cảnh – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.96 KB, 20 trang )

Vi phạm di tích lịch sử, văn hóa danh lam thắng
cảnh – Thực trạng và giải pháp
Khoa Thị Khánh Chi
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS.TS. Phạm Hồng Thái
Năm bảo vệ: 2010
Abstract: Khái quát chung về di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Nghiên cứu
và đánh giá toàn diện những hành vi vi phạm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh qua một số vi phạm di tích điển hình như: di tích chùa Phước Điền (chùa Hang) –
An Giang; di tích đền Độc Cước – Thanh Hóa; di tích Mộ và Đền thờ Trần Q Khống
– Nghệ An; di tích núi Tam Thanh và núi Nàng Tô Thị - Lạng Sơn. Đưa ra những nguyên
nhân khách quan và chủ quan của thực trạng vi phạm di tích đó. Kiến nghị một số giải
pháp nhằm hạn chế sự vi phạm di tích để nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý và bảo vệ di
tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh tại Việt Nam
Keywords: Pháp luật; Danh lam thắng cảnh; Văn hóa; Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 34 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản
văn hóa dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng
của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hóa, các cơng trình nghệ thuật, các danh lam,
thắng cảnh.
Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các cơng trình
nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh”.
Sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 65 về bảo vệ di tích trên tồn cõi Việt Nam. Việc cấm phá
huỷ đình, chùa, đền, miếu, cung điện, thành quách, lăng mộ…đã được Sắc lệnh chỉ rõ. Để bảo vệ
tốt những giá trị truyền thống mà cha ông ta đã để lại, ngày 29 tháng 10 năm 1957 Thủ tướng
Chính phủ Ban hành Nghị định số 519-TTg về việc bảo vệ di tích lịch sử, cách mạng và danh


thắng. Trải qua 27 năm thực hiện Nghị định 519-TTg, Bộ Văn hố - Thơng tin đã xếp hạng được
187 di tích. Sau đó, ngày 04 tháng 4 năm 1984 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã công bố Lệnh số
14-LCT/HĐNN7 ban hành Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hố và danh lam
thắng cảnh.


Trong điều kiện hiện nay, khi đất nước đang tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố thì việc bảo vệ các di tích ngày càng trở nên quan trọng. Luật Di sản văn hoá được Quốc hội
khoá IX thơng qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2002 và Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật di sản văn hóa năm 2009 nhằm cụ thể hố đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hoá trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy
mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hoá.
Nghị quyết TW 5 khoá VIII của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ
ra rằng di sản văn hoá là bộ phận cấu thành cơ bản nhất của văn hoá. Văn hoá là nền tảng tinh
thần của toàn xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Văn
hố thể hiện tâm hồn và khí phách của người Việt Nam, nhân chứng của lịch sử Việt Nam, thể
hiện lòng tự hào của nhân dân Việt Nam về đất nước và con người, về truyền thống hào hùng của
dân tộc.
Tuy nhiên, hiện nay một phần không nhỏ các di tích đang bị xâm hại dẫn đến di tích bị
xuống cấp nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân như: chiến tranh tàn phá, sự huỷ hoại của thời
gian và khắc nghiệt của khí hậu. Bên cạnh đó, sự thiếu ý thức của con người cũng làm cho các di
tích bị biến dạng, xuống cấp. Tình trạng vi phạm di tích đang diễn ra ở nhiều địa phương trong
cả nước.Việc đào bới, khai quật khảo cổ trái phép, lấn chiếm, xây dựng trái phép, tu bổ, tơn tạo
di tích không theo một quy hoạch nhất định đã làm cho di tích mất dần đi tính nguyên gốc và giá
trị vốn có của nó. Việc quản lý di tích cịn lỏng lẻo, sự phân cấp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước từ Trung ương xuống địa phương chưa được thực hiện tốt nên khi xảy ra vi phạm di tích đã
khơng thể xử lý kịp thời. Do đó, việc phân tích, đánh giá vi phạm di tích và nguyên nhân dẫn đến
hành vi xâm hại di tích và tìm ra những biện pháp xử lý là một trong những nhiệm vụ cần thiết
và cấp bách hiện nay.
Nhận thức được tính thời sự và cấp bách của vấn đề nên tác giả đã chọn đề tài “Vi phạm di

tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh, thực trạng và giải pháp” cho luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta hiện nay, vấn đề về vi phạm di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh hầu
như chưa có nhà khoa học nào quan tâm, nghiên cứu, chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học
nào nghiên cứu trực tiếp, sâu và toàn diện về vấn đề này. Tuy nhiên, có những bài viết liên quan
đến vấn đề này như:
- Nguyễn Thế Hùng (2004), “Đôi điều về tu bổ di tích tín ngưỡng – tơn giáo”, Tạp chí di
sản văn hóa, số 6, tr 62-65, Hà Nội.
- Đặng Văn Bài (2006), “Tu bổ và tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa là hoạt động có tính
đặc thù chun ngành”, Tạp chí di sản văn hóa, số 15, tr10-16, Hà Nội.
- Đỗ Văn Trụ (2005), “Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của
nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc”, Tạp chí di sản văn
hóa, số 13, tr 20-23, Hà Nội.


- Nguyễn Thế Hùng (2007), “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và
phát triển đất nước”, Tạp chí di sản văn hóa, số 20, tr 27-31, Hà Nội.
- Nguyễn Quốc Hùng (2008), “Truyền thống văn hóa Việt Nam qua di tích lịch sử văn hóa
và danh lam thắng cảnh”, Tạp chí di sản văn hóa, số 25, tr 3-8, Hà Nội.
- Đồn Bá Cử (2006), “Đơi điều về tu bổ di tích trong thời gian qua”, Tạp chí di sản văn
hóa, số 17, tr 69-72, Hà Nội.
- Hà Văn Tấn (2008), “Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước”, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 2, Cục Di sản văn hóa, tr 44-54,
Hà Nội.
- Nguyễn Hữu Tồn (2008), “Tu bổ, tơn tạo di tích trong cuộc sống đương đại – Mấy vấn
đề đặt ra”, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 4, Cục Di sản văn hóa, tr 69-76, Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước về di sản văn hóa và thực trạng vi phạm di tích
hiện nay, với mục đích nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (bằng cách xây dựng và ban hành

những văn bản quy phạm pháp luật) nhằm hạn chế những hành vi vi phạm di tích và bảo vệ di
tích những tác động xấu từ con người và tự nhiên. Tìm ra những giải pháp thích hợp để ứng xử
phù hợp khi có những hành vi xâm phạm di tích.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Những hành vi vi phạm di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh của tổ chức, cá nhân;
những hoạt động xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi khơng gian: Vi phạm di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn cả
nước.
Phạm vi thời gian: Từ khi Luật di sản văn hóa có hiệu lực ngày 01/01/2002

cho đến nay.

* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về Chính phủ phục vụ nhân dân; quán triệt các
quan điểm, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong quá trình tiếp cận, nghiên cứu đề tài, tác giả đồng thời sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích – tổng hợp, phương pháp điều tra chọn mẫu,
phương pháp thống kê - so sánh, phương pháp chuyên gia kết hợp với đi kiểm tra thực tế tại di
tích nhằm thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến nội dung của đề tài.


5. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
Từ góc độ khoa học quản lý nhà nước, có thể xem đây là một cố gắng đầu tiên của ngành di
sản văn hóa trong việc quản lý và bảo vệ di sản văn hóa nói chung và di tích, lịch sử văn hóa và
danh lam thắng cảnh nói riêng một cách chun sâu và tồn diện. Vì thế, luận văn:
- Có ý nghĩa thực tiễn góp phần đánh giá tồn diện những hành vi vi phạm di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh.

- Đóng góp cho công tác tăng cường quản lý nhà nước và hiệu quả hoạt động xây dựng, ban
hành và hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa.
- Góp phần hồn thiện các mơn học về quản lý di sản văn hóa Việt Nam.
6. Bố cục của luận văn
Kết cấu đề tài ngoài phần giới thiệu mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương. Khái quát chung về di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
Chương 2. Thực trạng vi phạm di tích
Chương 3. Giải pháp nhằm hạn chế vi phạm di tích, nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý và
bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ -VĂN HĨA, DANH LAM
THẮNG CẢNH
1.1. Khái niệm di tích
Di tích lịch sử - văn hóa (gọi chung là di tích) là một bộ phận của di sản văn hóa vật thể. Từ
những khái niệm trên, ta có khái niệm di tích là “cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”. Trong
đó, di vật được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”; cổ vật
được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học và có
từ 100 năm tuổi trở nên”; bảo vật quốc gia được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị
đặc biệt quý hiếm về các mặt lịch sử, văn hóa, khoa học”.
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên
nhiên và cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
1.2. Phân loại di tích
Căn cứ vào đặc điểm nội dung và hình thức thì di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng
cảnh được phân ra thành 4 loại: di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ học và
danh lam thắng cảnh.



1.2.1. Di tích lịch sử bao gồm những cơng trình, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu
trong quá trình dựng nước và giữ nước; gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc,
danh nhân đất nước, gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Di tích lịch sử
liên quan tới sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có những đóng góp, ảnh hưởng tới sự tiến bộ của lịch
sử dân tộc. Đến với di tích lịch sử, khách tham quan như được đọc cuốn sử ghi chép về những
con người, những sự kiện tiêu biểu, được cảm nhận một cách chân thực về lịch sử, những cảm
nhận không dễ có được khi chỉ đọc những tư liệu ghi chép của đời sau.
1.2.2. Di tích kiến trúc nghệ thuật bao gồm quần thể các cơng trình kiến trúc hoặc cơng
trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn
lịch sử. Giá trị của di tích kiến trúc nghệ thuật thể hiện ở quy hoạch tổng thể và bố cục kiến trúc,
ở sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc với cảnh quan, ở những bức chạm khắc trên kết cấu gỗ, ở vẻ
đẹp thánh thiện của những pho tượng cổ, ở nét chạm tinh xảo của những đồ thờ tự...
1.2.3. Di tích khảo cổ học gồm những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật, đánh dấu các giai
đoạn phát triển của các văn hóa khảo cổ. Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều di tích
khảo cổ. Các di tích, di vật khảo cổ học là nguồn sử liệu quan trọng giúp việc biên soạn lịch sử
trái đất và lịch sử dân tộc từ thời tiền/sơ sử tới các thời kỳ lịch sử sau này.
1.2.4. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh
quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ cao hoặc địa điểm ghi dấu hoạt động
của con người trong lịch sử để lại, có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học.
Căn cứ vào giá trị về các mặt lịch sử, văn hóa, khoa học và cấp độ quản lý các di tích lại
được chia thành ba loại:
Một là, di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia do Thủ
tướng Chính phủ ra quyết định xếp hạng.
Hai là, di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch ra quyết đinh xếp hạng.
Ba là, di tích cấp tỉnh, thành phố là di tích có giá trị tiêu biểu trong phạm vi địa phương do
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định xếp hạng.
1.3. Vi phạm di tích
1.3.1. Khái niệm

Vi phạm di tích là những hành vi trái với quy định của Luật di sản văn hóa, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật di sản văn hố và pháp luật khác có liên quan làm thay đổi yếu tố gốc, làm
sai lệch giá trị và làm biến đổi cảnh quan, môi trường di tích.
1.3.2. Phân loại vi phạm di tích


Điều 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá quy định “Nghiêm cấm
các hành vi sau đây: Chiếm đoạt, làm sai lệch di tích lịch sử - văn hố, danh lam thắng cảnh; huỷ
hoại, hoặc gây nguy cơ huỷ hoại di sản văn hoá; đào bới trái phép địa điểm khảo cổ, xây dựng
trái phép, lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh; mua bán, trao
đổi, vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử-văn hố, danh lam
thắng cảnh và di vât, cổ vật, bảo vật quốc gia có nguồn gốc bất hợp pháp, đưa trái phép di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài”.
Những hành vi mà Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản
văn hoá quy định là phải có giấy phép mới được thực hiện nhưng vẫn thực hiện mà khơng có
giấy phép. Ví dụ điển hình cho hành vi vi phạm này là Di tích Hồ Tịnh Tâm (Thừa thiên Huế).
Tại di tích này, một số hộ dân trong khu vực bảo vệ di tích Hồ Tịnh Tâm đã tiến hành cải tạo,
sửa chữa, xây dựng mới một số cơng trình trong khu vực di tích mà khơng có sự đồng ý bằng
văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chính quyền địa phương đã đình chỉ và bắt tháo
dỡ tồn bộ cơng trình xây dựng trái phép. Nhưng đến nay, các cơng trình này khơng những
khơng bị tháo dỡ mà cịn được hồn thiện.
Những hành vi mà khi được cấp giấy phép rồi nhưng thực hiện không đúng với nội dung
trong giấy phép. Ví dụ điển hình cho hành vi vi phạm này là di tích đền Độc Cước, đền Cơ Tiên,
tỉnh Thanh Hóa. Di tích này điển hình cho hai hành vi vi phạm chính đó là tu bổ tôn tạo không
đúng với những nội dung mà Cục Di sản văn hóa đã cho phép và xây dựng các cơng trình trong
khu vực bảo vệ II, phá vỡ cảnh quan mơi trường di tích. Trong văn bản cho phép nêu rất rõ
“Khơng xây dựng lầu hóa vàng và lầu vọng cảnh; giữ nguyên hiện trạng môn lâu, không thay đổi
kết cấu và họa tiết trang trí trên các cấu kiện khi tu bổ môn lâu; tu bổ tôn tạo Tiền đường theo
hình thức, cấu trúc vì kèo hiện trạng, khơng tu bổ theo hình thức vì kèo của tịa Trung đường,
riêng phần kẻ cổ ngỗng ở hiên cần nghiên cứu tu bổ cho phù hợp với hình thức kết cấu bên trong,

phải đảm bảo được vững chắc, chống chịu được mưa bão; Hạng mục Trung đường: cần bảo tồn
tuyệt đối các mảng trạm khắc thế kỷ 17, 18; đánh dấu các cấu kiện thay mới, cấu kiện tu bổ và
cấu kiện bảo quản tái sử dụng trên các bản vẽ thiết kế tu bổ, tôn tạo, đồng thời bổ sung bản vẽ
nối, vá, thay cốt, ốp mang; Thống nhất phương án thay thế hệ thống vì kèo gỗ phần xây bằng
gạch không phù hợp của gian cuối hậu cung; Trước khi hạ giải các cấu kiện kiến trúc cần đánh
số và sau khi hạ giải cần đánh giá, phân loại tình trạng các cấu kiện kiến trúc để có phương án tu
bổ, tơn tạo thích hợp nhằm bảo tốn tối đa yếu tố gốc của di tích; Vật liệu gỗ đưa vào tu bổ, tôn
tạo phải được ngâm, tẩm chống mối mọt theo quy trình; Đền chiếu sáng chỉ mang tính chất bảo
vệ di tích, hình thức cần đảm bảo phù hợp với cảnh quan và tính thâm nghiêm của di tích”. Tuy
nhiên, đến khi kiểm tra, tất cả các hạng mục nêu trong văn bản cho phép của Cục Di sản văn hóa
gần như khơng được thực hiện hoặc thực hiện không đúng với những nội dung đã thỏa thuận.
Kết quả là di tích bị biến dạng, các yếu tố gốc cấu thành di tích khơng giữ được mà thay vào đấy
là những sản phẩm mới, kiến trúc mới, cấu kiện mới. Điều này đồng nghĩa với việc di tích đã bị
xâm hại.
1.4. Cơ sở pháp lý để ngăn chặn và xử lý vi phạm di tích


1.4.1. Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc thành lập Đông Phương Bác
Cổ học viện và Bảo tồn cổ tích trên tồn cõi Việt Nam.
1.4.2. Nghị định số 519-TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957 quy định các luật lệ cơ bản cho
hoạt động bảo tồn di tích.
1.4.3. Pháp lệnh số 14-LCT/HĐND ngày 04 tháng 4 năm 1984 của Hội đồng Nhà nước
(nay là Chủ tịch nước) bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh.
1.4.4. Điều 34 Hiến pháp năm 1992 xác định rõ “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát huy các
di sản văn hoá dân tộc, chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo tồn và phát huy tác
dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hố, các cơng trình nghệ thuật, các danh
lam thắng cảnh. Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các
cơng trình nghệ thuật và danh lam thắng cảnh” .
1.4.5. Luật di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản
văn hoá năm 2009.

1.4.6. Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật di sản văn hóa; Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày 06/11/2010 hướng
dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật di sản văn hóa.
1.4.7. Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa.
1.4.8. Một số Luật có liên quan: Luật Khống sản, Luật đất đai, Luật Xây dựng.

Chương 2: THỰC TRẠNG VI PHẠM DI TÍCH
2.1. Thực trạng chung
Nhận thức của tồn xã hội về vai trị, ý nghĩa, giá trị của di sản văn hóa nói chung, di tích
lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh nói riêng ngày càng được nâng cao. Bảo vệ di tích, phát
huy giá trị của di tích phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đấu tranh
chống vi phạm đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Hàng ngàn di tích
được xếp hạng và tu bổ trong mấy chục năm qua đã thể hiện những nỗ lực to lớn của tồn xã hội
chăm lo và bảo vệ di tích. Về cơ bản hệ thống di tích của đất nước đã được bảo vệ, chăm sóc và
tu bổ bảo đảm khả năng tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, do trải qua hàng chục năm chiến tranh, chúng
ta chưa có nhiều điều kiện chăm lo, bảo vệ di tích nên đến nay, mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn
còn nhiều di tích bị vị phạm chưa được giải tỏa. Phần lớn các vi phạm này đã diễn ra từ nhiều
chục năm nay nên việc giải quyết cần có quyết tâm và sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp.
Qua khảo sát thực tế, tác giả nhận thấy một số vấn đề sau:


Cảnh quan môi trường truyền thống của một số di tích bị biến dạng một phần hay tồn bộ
do các cơng trình xây dựng xung quanh di tích khơng phù hợp với quy hoạch truyền thống của
khu di tích về vị trí, màu sắc, hình dáng, kiến trúc. Cảnh quan, mơi trường xung quanh di tích là
một yếu tố quan trọng cấu thành di tích, do vậy, những cơng trình xây dựng bao quanh di tích có
quy mơ q lớn cả về chiều cao và diện tích sẽ làm chi di tích trở nên nhỏ bé và bị thu hẹp. Ví dụ
điển hình vi phạm tại di tích chùa Vua, chùa Linh Ứng (Hà Nội), chùa Giác Viên, chùa Phụng
Sơn (thành phố Hồ Chí Minh).

Một trong những hành vi xâm hại di tích phổ biến nữa đó là hiện tượng xây dựng mới, tu
bổ, tơn tạo di tích một cách tuỳ tiện, khơng có sự đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hiện tượng tu bổ, tơn tạo và xây dựng mới di tích cịn diễn ra phổ biến ở một số địa phương.
Điều này xuất phát từ quan điểm thích cái mới, cái to lớn, hồnh tráng mà không hiểu được
những giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa học, thẩm mỹ và kiến trúc. Những di tích này cần
phải được bảo tồn và lữu giữ lại cho các thế hệ mai sau, đặc biệt là giữ lại những yếu tố gốc cấu
thành di tích. Việc tu bổ tôn tạo phải được thực hiện theo quy định của pháp luật và phải đúng
trình tự thủ tục theo luật định. Tu bổ, tơn tạo di tích có nghĩa là chúng ta dựa trên những cứ liệu
khoa học để giữ lại những yếu tố, những giá trị gốc của di tích cho các thế hệ mai sau. Hay nói
cách khác, đây là một hoạt động khoa học trong việc bảo vệ di tích. Ví dụ điển hình cho hình
thức vi phạm này là di tích chùa Trấn Quốc Hà Nội, ngôi chùa này nằm giữa hồ Tây, đây khơng
những là một di tích có giá trị về mặt lịch sử, văn hố, tâm linh tín ngưỡng mà cịn thể hiện một
giá trị nghệ thuật độc đáo và đặc trưng, cộng với môi trường cảnh quan hấp dẫn du khách thập
phương. Nhưng ngay tại khuôn viên chùa được xây dựng thêm một ngôi tháp rất cao lớn, điều
này đã làm cho cảnh quan di tích bị biến đổi, giá trị ngun gốc của di tích khơng cịn nữa.
Chúng tơi coi đây là một hành động phá hoại di tích và là một bài học kinh nghiệm cho các cơ
quan quản lý nhà nước về văn hố thơng tin.
Do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nên việc khai thác đá hay xây dựng
những nhà máy nhiệt điện đã trực tiếp hay gián tiếp phá hủy cảnh quan mơi trường di tích. Ví dụ
như việc xây dựng nhà máy nhiệt điện ở Ninh Bình hay việc phá đá tại khu vực quần thể di tích
Động Kính Chủ, Hang Nhẫm Dương (Hải Dương). Những di tích là danh lam thắng cảnh thì mơi
trường cảnh quan xung quanh là yếu tố vơ cùng quan trọng hay cịn gọi là yếu tố gốc cấu thành
di tích. Thơng thường những di tích là danh lam thắng cảnh thì khu vực bảo vệ I và bảo vệ II
được khoanh rất rộng và trong biên bản và bản đồ khoanh vùng bảo vệ đã thể hiện rất rõ điều đó
qua các vị trí tọa độ theo trục Bắc Nam. Nếu xử lý không tốt việc khai thác và sử dụng di tích
danh lam thắng cảnh sẽ phá vỡ cảnh quan mơi trường xung quanh di tích và như vậy, di tích đã
bị xâm hại.
Vi phạm di tích là vấn đề bức xúc của ngành văn hóa nói riêng và của tồn xã hội nói
chung. Di tích là tài sản vơ giá mà cha ơng ta đã để lại, có giá trị về mặt vật chất và tinh thần.
Nếu sự tàn phá, khắc nghiệt của thời gian làm cho di tích bị xuống cấp thì bằng bàn tay và khối

óc con người có thể tu bổ, tơn tạo, phục hồi lại những di tích đó và giữ gìn cho mn đời sau.
Nhưng nếu khơng có ý thức bảo vệ di tích thì sự tàn phá của con người lớn hơn rất nhiều so với
sự tàn phá của thiên nhiên. Phát triển mà khơng đi đơi với gìn giữ, bảo tồn thì với tốc độ phát
triển hiện nay, nhiều di tích sẽ bị phá huỷ và dần dần biến mất. Vì vậy, việc bảo vệ di tích và giải


quyết vi phạm di tích là một nhiệm vụ hết sức quan trọng hiện nay, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng
của toàn xã hội.
2.2. Một số vi phạm di tích điển hình
2.2.1. Di tích chùa Phước Điền (chùa Hang) – An Giang
Chùa Phước Điền (tên thường gọi là chùa Hang) nằm trong quần thể Khu di tích thắng cảnh
núi Sam thuộc ấp Vĩnh Tây 1, phường núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Khu di tích này
đã được Bộ Văn hóa – Thơng tin cơng nhận là di tích quốc gia tại Quyết định số 92-VHTT/QĐ
ngày 10/7/1980. Chùa đã bị sư Thích Thiện Tài, trụ trì chùa này tự ý đập phá, di dời làm thay
đổi, biến dạng tồn bộ kiến trúc và nội thất chùa, có hành vi cố ý vi phạm trong tu sửa làm thay
đổi vật liệu và kiểu dáng cơng trình kiến trúc. Qua kiểm tra thực tế tại di tích nhận thấy di tích đã
bị vi phạm khá nhiều: gắn gạch men bệ thờ, lát nền gạch men, thay đổi mặt tiền nhà hậu tổ, Khu
vực Tây lang, khu vực hậu tổ, tùy tiện thay cửa sắt phá vỡ hiện trạng và làm hư hỏng các tranh
điển tích Phật, làm nhà tiền chế, lát gạch mới hiện đại, làm thêm phần mái ở giảng đường, làm
thêm phịng nghỉ mà khơng xin phép các ngành chức năng. Cục Di sản văn hoá, Bộ Văn hố,
Thể thao và Du lịch đã có rất nhiều công văn gửi Sở và Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang đề nghị
giải quyết dứt điểm tình trạng vi phạm tại di tích chùa Phước Điền và có phương án trả lại cảnh
quan và kiến trúc cũ cho di tích.
Qua sự việc vi phạm tại di tích chùa Phước Điền (chùa Hang), tác giả nhận thấy, người
trông coi, quản lý trực tiếp di tích mà khơng nhận thức và hiểu biết đúng đắn về pháp luật, hay
nói sâu hơn là khơng tâm huyết với di tích thì chắc chắn di tích sẽ bị xâm hại bằng cách này hay
cách khác. Việc nhận thức đúng đắn hoạt động tu bổ, tơn tạo, sửa chữa di tích là một vấn đề địi
hỏi người quản lý, trơng coi di tích phải nỗ lực, cố gắng, phối hợp với chính quyền các cấp để
bảo vệ và phát huy giá trị di tích tốt hơn.
2.2.2. Di tích Đền Độc Cước – Thanh Hóa

Đền Độc Cước là một di tích kiến trúc nghệ thuật thế kỷ XVII, nằm trong quần thể di tích
thắng cảnh Sầm Sơn trên địa phận xã Trường Sơn, thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đây là một
trong những di tích được Bộ Văn hóa xếp hạng đợt đầu tiên tại Quyết định số 313-VH/VP ngày
28/4/1962. Di tích này điển hình cho hai hành vi vi phạm chính đó là tu bổ tôn tạo không đúng
với những nội dung mà Cục Di sản văn hóa đã cho phép và xây dựng các cơng trình trong khu
vực bảo vệ II, phá vỡ cảnh quan mơi trường di tích.
Thứ nhất, là việc tu bổ, tôn tạo không đúng với những quy định đã nêu trong văn bản thỏa thuận.
Cục Di sản văn hóa nhận được tờ trình số 97-TT/UBND ngày 28/11/2006 đề nghị thỏa thuận
thiết kế kỹ thuật thi công tu bổ, tôn tạo đền Độc Cước. Sau khi nghiên cứu, xem xét hồ sơ thiết
kế kỹ thuật, Cục Di sản văn hóa đã đồng ý cho Ủy ban nhân dân thị xã Sầm Sơn nhưng lưu ý một
số vấn đề như: Không xây dựng lầu hóa vàng và lầu vọng cảnh; giữ nguyên hiện trạng môn lâu,
không thay đổi kết cấu và họa tiết trang trí trên các cấu kiện khi tu bổ mơn lâu; tu bổ tơn tạo Tiền
đường theo hình thức, cấu trúc vì kèo hiện trạng, khơng tu bổ theo hình thức vì kèo của tịa
Trung đường, riêng phần kẻ cổ ngỗng ở hiên cần nghiên cứu tu bổ cho phù hợp với hình thức kết


cấu bên trong, phải đảm bảo được vững chắc, chống chịu được mưa bão; Hạng mục Trung
đường: cần bảo tồn tuyệt đối các mảng trạm khắc thế kỷ 17, 18; đánh dấu các cấu kiện thay mới,
cấu kiện tu bổ và cấu kiện bảo quản tái sử dụng trên các bản vẽ thiết kế tu bổ, tôn tạo, đồng thời
bổ sung bản vẽ nối, vá, thay cốt, ốp mang; Thống nhất phương án thay thế hệ thống vì kèo gỗ
phần xây bằng gạch không phù hợp của gian cuối hậu cung; Trước khi hạ giải các cấu kiện kiến
trúc cần đánh số và sau khi hạ giải cần đánh giá, phân loại tình trạng các cấu kiện kiến trúc để có
phương án tu bổ, tơn tạo thích hợp nhằm bảo tốn tối đa yếu tố gốc của di tích; Vật liệu gỗ đưa
vào tu bổ, tôn tạo phải được ngâm, tẩm chống mối mọt theo quy trình; Đền chiếu sáng chỉ mang
tính chất bảo vệ di tích, hình thức cần đảm bảo phù hợp với cảnh quan và tính thâm nghiêm của
di tích.
Tuy nhiên, sau đó ngày 11/2/2007 Cục Di sản văn hóa đã cử cán bộ xuống kiểm tra trực tiếp tại
hiện trường công tác tu bổ, tôn tạo đền Độc Cước và nhận thấy rằng công tác tu bổ, tơn tạo di
tích đền Độc Cước chưa thực hiện nghiêm túc theo quy định của Luật di sản văn hóa và Quy chế
Bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh (được ban hành kèm

theo Quyết định số 05/2003/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hóa – Thơng tin) và ý kiến chỉ đạo của Cục
Di sản văn hóa. Như vậy, việc tu bổ, tơn tạo di tích đền Độc Cước đã khơng làm đúng theo
những quy định của pháp luật. Hậu quả là kiến trúc của di tích bị thay đổi, yếu tố gốc cấu thành
di tích gần như mất hết và thay vào đó là kiến trúc mới.
Thứ hai, là việc xây dựng khách sạn Biển Nhớ trong khu vực bảo vệ II di tích đền Độc
Cước. Dự án Khu vui chơi giải trí đền Độc Cước thuộc Trung tâm phát triển Thương mại và đầu
tư – liên minh hợp tác xã Việt Nam được Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa cấp phép đầu tư và
thuê đất với thời gian 50 năm. Cơng trình được xây dựng bởi Cơng ty Thương mại và du lịch
Biển Nhớ từ năm 2002 dưới chân đền Độc Cước với tổng diện tích 5080m2. Ngay từ khi đưa vào
thi công, dự án đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ người dân và các nhà chuyên mơn, bởi đây
là di tích cấp quốc gia đã được Bộ Văn hóa xếp hạng năm 1962 với kiến trúc kiểu chuôi vồ vô
cùng độc đáo (thế kỷ XVII). Trước khi có cơng trình này, du khách có thể ngắm nhìn hịn Cổ
Giải (đầu rùa) và đền Độc Cước từ nhiều phía. Thế nhưng, từ khi khu du lịch văn hóa xây dựng,
mọi cảnh quan bị che lấp hồn tồn, theo quy định độ cao khống chế của cơng trình là 5,5m so
với mặt đường Hồ Xuân Hương, nhưng Công ty Biển Nhớ vẫn phớt lờ những quy định trên, bỏ
qua dư luận và vi phạm nghiêm trọng Luật di sản văn hóa. Trong báo cáo kết luận Thanh tra của
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa thì “q trình xây dựng các hạng mục cơng trình
vui chơi, giải trí từ năm 2002 đến nay, Trung tâm Thương mại và Đầu tư khơng hề có báo cáo Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch để có sự thống nhất về vành đai bảo vệ di tích và sự ảnh hưởng của
các cơng trình đối với di tích theo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh và những quy định của
Luật di sản văn hóa, các hạng mục cơng trình xây dựng năm 2004 khơng có thiết kế được cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt, cơng trình xây dựng khơng có giấy phép. Tất cả các hạng mục
nêu trên chỉ dựa trên bản vẽ tổng thể mặt bằng quy hoạch, mặt bằng hiện trạng, giới hạn khu đất
và bản phối cảnh tổng thể khu di tích văn hóa – vui chơi giải trí đền Độc Cước”.
Qua vụ việc vi phạm pháp luật về tu bổ, tôn tạo và xây dựng khách sạn Biển Nhớ tại đền
Độc Cước, tác giả nhận thấy rằng, việc ban hành pháp luật là quan trọng, nhưng để pháp luật có


hiệu lực trên thực tế và được áp dụng một nghiêm túc càng khó hơn. Hành vi vi phạm di tích có
thể được thực hiện từ nhiều phía, từ cá nhân, tổ chức, đến các nhà quản lý.

2.2.3. Di tích Mộ và đền thờ Trần Quý Khoáng – Nghệ An
Tại xóm Đức Thịnh, xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An có ngơi Đền Trung và
một ngơi mộ cổ. Ngôi mộ được xây bằng xi măng, nằm trong khuôn viên rộng khoảng 600m2 có
tường bao, đắp chữ “Trùng Quang Đế” và câu đối. Sát khuôn viên mộ là Đền Trung, tọa lạc trên
một mảnh đất rộng chừng 1.000m2. Năm 1962, ngơi đền bị phá dỡ, chuyển dịch về phía sau,
cách nền cũ khoảng 70m để làm kho của hợp tác xã. Đồ thờ của Đền được gửi vào nhà thờ họ
Trần cùng xóm (cách đền và mộ khoảng 500m). Về sau, nhà kho bị cháy, nay chỉ còn tường,
mái, xà, cột, trong đó có một số xà được chạm khắc, sơn son thếp vàng.
Khoảng cuối những năm 1990, một số người dịng tộc họ Trần trong xóm cho rằng Đền
Trung thờ vua Trần Q Khống và ngơi mộ gần Đền Trung là một vị vua này. Đồng thời họ
khẳng định vua Trần Q Khống chính là ơng tổ của dịng họ Trần ở xóm Đức Thịnh, xã Hưng
Lộc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Do vậy, các vị trong họ đã lập hồ sơ đề nghị ngành văn hóa
cơng nhận nhà thờ họ Trần là di tích lịch sử. Sở Văn hóa-Thơng tin ghệ An (nay là Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Nghệ An) nhất trí đề nghị Bộ Văn hóa-Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch) cấp bằng cơng nhận di tích lịch sử cấp quốc gia cho “Nhà thờ họ Trần và mộ
Trần Quý Khoáng”, nhưng lại đổi tên là “Mộ và đền thờ Trần Q Khống”. Ngày 12/02/1999,
Bộ Văn hóa-Thơng tin đã cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử quốc gia cho di tích này với tên gọi
như Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nghệ An đề nghị. Căn cứ đề nghị của Chủ tịch UBND tỉnh
Nghệ An và qua xét duyệt hồ sơ, ngày 12/02/1999, Bộ Văn hóa – Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch) đã có Quyết định số 05/1999-QĐ-BVHTT cơng nhận Mộ và đền thờ Trần
Q Khống xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An là di tích lịch sử.
Sự việc trở nên phức tạp khi gia đình con trai bà Minh (là Trần Quảng Phước và vợ là Lê
Thị Lý) xây nhà trong khu đất, và bị quy kết là lấn chiếm đất của di tích. Ngày 27/3/2009,
UBND thành phố Vinh ra Quyết định số 1097/QĐ-UBND thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của bà Nguyễn Thị Minh với lý do Giấy chứng nhận sử dụng đất cấp chồng lấn lên
phần diện tích khoanh vùng bảo vệ di tích. Phía tộc họ Trần mà chủ tịch Hội đồng gia tộc là ông
Trần Trung Khiêm cũng gửi đơn đến các cơ quan có thẩm quyền khẳng định Trần Q Khống
chính là ơng tổ tộc họ Trần ở Đức Thịnh và nhà thờ họ Trần này chứ không phải Đền Trung
được xếp hạng di tích lịch sử vì, theo ông, bài vị, long ngai ở Đền Trung đã hợp tự về đây từ năm
1962. Ông cũng đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đổi tên Bằng xếp hạng di tích là “Mộ

và nhà thờ Trần Q Khống” chứ khơng phải là “Mộ và đền thờ Trần Q Khống”.
Sau khi đi kiểm tra tồn bộ hồ sơ và quá trình giải quyết vụ việc, tác giả nhận thấy:
Việc cơng nhận di tích vào thời điểm năm 1999, theo Pháp lệnh bảo vệ di tích danh lam
thắng cảnh năm 1984, còn nhiều điểm chưa chặt chẽ, nên việc lập hồ sơ cịn sơ sài, Bộ Văn hóaThơng tin chưa thẩm tra thực tế cụ thể rồi mới xét công nhận.
Ở địa phương, theo báo cáo của các cụ đại diện cho dịng tộc với Đồn kiểm tra, trong gia
phả để lại của dịng tộc họ Trần có vị tướng họ Trần có cơng với nước, dịng họ tự hào và muốn


tơn vinh và coi đấy là vua Trần Q Khống, thế hệ ơng cha trước đây trong dịng họ đã hợp
nhất thờ phụng. Theo báo cáo của Phòng Quản lý di sản, nếu hồ sơ di tích lúc đó chỉ là Mộ Trần
Q Khống thì chưa đủ tiêu chí để cơng nhận là di tích cấp quốc gia, mặt khác đền thờ đã được
dòng họ hợp nhất cùng nhà thờ để thờ phụng và đồng nhất quan điểm lập tờ trình xét di tích, mặc
dù giữa nhà thờ và đền thờ trước năm 1959 – 1960 là thờ ở hai nơi.
Kết luận là, Quyết định số 05/1999-QĐ-BVHTT ngày 12/02/1999 công nhận di tích lịch sử
cấp quốc gia Mộ và Đền thờ Trần Quý Khoáng phần đền thờ Trần Quý Khoáng trong hồ sơ
di tích khi kiểm tra chưa đúng với thực tế di tích vốn có, cần được xem xét lại và ra cuối cùng
Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ra quyết định Thu hồi Quyết định và Bằng cơng
nhận di tích lịch sử Mộ và Đền thờ Trần Quý Khoáng.
Như vậy, sau hơn 10 năm tồn tại là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, di tích này đã trở
lại vị trí ban đầu của nó.
Từ thực tế vụ việc nêu trên, chúng ta cần rút kinh nghiệm để chấm dứt điểm nóng khiếu nại
tố cáo về di tích hiện nay đang tiếp tục ở nhiều địa phương.
Việc xây dựng hồ sơ di tích, kiểm tra, thẩm định hồ sơ di tích tại thực địa cần được tiến
hành cẩn thận, đảm bảo tính khoa học, tránh tình trạng xảy ra sai phạm dẫn tới khiếu kiện của
nhân dân. Đây là một vi phạm di tích điển hình từ trước đến nay. Nó làm ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Lỗi này hồn tồn thuộc về các cấp chính quyền
từ trung ương đến địa phương trong việc nghiên cứu, lập hồ sơ xếp hạng di tích. Từ thực tế này
cho thấy, phải tuân thủ pháp luật nhưng cũng phải tính đến quyền lợi của nhân dân (ở đây là
quyền lợi và danh dự của cả một dịng họ).
2.2.4. Di tích Núi Tam Thanh và núi nàng Tô Thị - Lạng Sơn

Núi Tam Thanh và núi Nàng Tơ Thị nằm trong lịng thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Phía
Bắc hai dãy núi giáp với sơng Kỳ Cùng nhìn sang nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa, ba mặt
còn lại được bao bọc bởi khu dân cư của thành phố Lạng Sơn. Hai dãy núi này có đặc điểm là
những núi thấp có nhiều mỏm núi nhơ cao nhìn ra bốn bề xung quanh là thành phố Lạng Sơn và
sông Kỳ Cùng. Trong dãy núi Nhất Nhị Tam Thanh có động Nhất Nhị Tam Thanh, núi Nàng Tô
Thị với cảnh quan đẹp và những đoạn tường còn lại của Thành nhà Mạc do nhà Mạc xây dựng
bằng đá để bảo vệ biên cương phía Bắc.
Với giá trị, ý nghĩa lịch sử to lớn và với cảnh quan đẹp gắn liền với sự tích Nàng Tơ Thị
chờ chồng, mà hai khu vực này được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp
hạng di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh cấp quốc gia tại Quyết định số 313-VH/VP ngày
28/4/1962. Đây là một trong những di tích quan trọng nên ngay từ khi đất nước giành được độc
lập, di tích này là một trong những di tích đầu tiên được xếp hạng trên cả nước.
Trong những ngày đầu năm 2006, dư luận nhân dân thành phố Lạng Sơn phản ánh một số
dư luận về việc di tích núi Tam Thanh và núi Nàng Tô Thị được giao cho Công ty tư nhân xây
dựng các cơng trình khai thác du lịch, trong đó xây dựng một số hạng mục cơng trình trái với
tính chất của di tích như xây dựng nhà hàng, bãi đỗ xe… đồng thời trước đây tại núi Tam Thanh


và núi Nàng Tơ Thị do có cảnh quan thiên nhiên đẹp nên nơi đây được nhân dân thành phố Lạng
Sơn hàng sáng tới đây tập thể dục. Ngay sau khi tư nhân tiến hành xây dựng khai thác du lịch đã
cấm không cho dân vào, gây bức xúc trong dư luận. Các cơ quan chức năng vào cuộc và đã phát
hiện ra nhiều sai phạm khác trong việc di tích núi Tam Thanh và núi Nàng Tơ Thị được giao cho
tư nhân khai thác du lịch. Đó là việc vi phạm Luật di sản văn hóa, làm ảnh hưởng đến cảnh quan
di tích.
Năm 2005, Cơng ty Cổ phần thương mại – quảng cáo Hồng Việt Anh có đề án trình Ủy
ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn xin được phép quản lý đầu tư sử dụng Khu di tích Thành Nhà Mạc,
núi Tơ Thị. Về quy trình, thủ tục, theo quy định của Luật di sản văn hóa, khi triển khai đề án cần
có văn bản thỏa thuận của Cục Di sản Văn hóa – Bộ Văn hóa-Thơng tin. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện do nhận thức chưa đầy đủ nên Hội đồng thẩm định đề án và Chủ đầu tư đã sơ
xuất bỏ qua trình tự này. Khẳng định việc xây dựng các cơng trình trong di tích núi Nàng Tơ Thị

như xây dựng đường ơtơ, cống thốt nước, cây xanh, bể cảnh đã vi phạm khu vực bảo vệ di tích,
mật độ xây dựng các cơng trình mới tại di tích rất lớn, phá vỡ cảnh quan và khơng phù hợp với
tính chất của di tích. Việc Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn cấp phép cho Cơng ty Hồng Việt
Anh triển khai các hoạt động xây dựng trong khu di tích mà chưa có thỏa thuận của Bộ Văn hóaThơng tin là vi phạm Luật di sản văn hóa. Cơng ty Hồng Việt Anh triển khai xây dựng trên cơ
sở bản đề án là vi phạm quy định về đầu tư xây dựng của Chính phủ khi chưa có dự án, thiết kế
được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, thỏa thuận, phê duyệt.
2.3. Nguyên nhân
Để hiểu rõ hơn về tình trạng vi phạm di tích, chúng ta phải hiểu được nguyên nhân tại sao
dẫn đến vi phạm di tích. Trong đó có ngun nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
Hầu hết các di tích đã có từ rất lâu và trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp
và chống Mỹ, nên các di tích khơng thể tránh khỏi sự huỷ hoại của bom đạn kẻ thù. Trong khi
đó, thời gian và cơng sức của cả dân tộc trong giai đoạn đó đều dồn hết vào việc giải phóng dân
tộc thống nhất đất nước nên khơng có điều kiện để trùng tu, tôn tạo và bảo vệ di tích.
Sự khắc nghiệt của khí hậu làm cho các di tích khó chống chọi lại với thời gian. Mưa bão, lũ lụt
đã làm cho một số di tích biến mất chỉ tròn một thời gian ngắn. Hầu hết số di tích cịn lại đều bị
xuống cấp và có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Một số di tích với kiến trúc chủ yếu làm bằng gỗ
nên rất hay bị hoả hoạn do khí hậu hanh khơ gây nên. Tuy nhiên, cũng có những di tích bị cháy
do thiếu ý thức của con người.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Ngoài nguyên nhân khách quan nêu trên, vấn đề nhận thức của toàn xã hội về vấn đề bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hố cịn rất hạn chế, chưa nhận thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng
của di tích, chưa đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Vì thế, di tích khơng được quan
tâm và bảo vệ, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xâm hại di tích.


Mặc dù Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá quy
định rất rõ về quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hoá nhưng xem ra nhận thức giữa các cấp, các ngành chưa được nhất quán, đồng
bộ. Cấp thành phố chưa quan tâm đúng mức, cấp quận, huyện chưa phát huy hết khả năng, cịn

trơng chờ ỷ lại vào thành phố. Cấp phường, xã cịn e ngại, né tránh sự va chạm. Vì thế, di tích
vẫn bị xuống cấp do các hành vi vi phạm trực tiếp hoặc gián tiếp của con người gây ra.
Luật Di sản văn hoá quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã trong việc quản lý di sản văn hoá. Nhưng trên thực tế, việc sắp xếp,
tổ chức về cơ cấu, bộ máy của các cấp quận, huyện còn chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ
của từng cơ quan trong việc quản lý và bảo vệ di tích. Việc thực thi pháp luật cịn rất lung túng
dẫn đến tình trạng khi di tích bị xâm hại khơng được xử lý, giải quyết kịp thời. Vì thế, dẫn đến
tình trạng thiếu trách nhiệm trong việc xử lý vi phạm di tích.
Khảo sát di tích ở Hà Nội và một số tỉnh, thành phố khác tác giả nhận thấy những hộ dân ở
tại di tích từ hàng chục năm nay vì nhiều lý do khác nhau (nhập cư vào Hà Nội khơng có nhà ở,
do nhà bị phá huỷ trong chiến tranh…). Đây là hậu quả mà lịch sử để lại, chúng ta phải giải
quyết hợp tình, hợp lý.
Việc di dời các hộ dân đang sinh sống tại đất di tích khơng phải một sớm, một chiều, vì quỹ
đất, quỹ nhà, kinh phí hỗ trợ cho việc di dân, giải phóng mặt bằng cịn rất hạn chế. Trong khi đó,
thành phố cũng chưa có một cơ chế cụ thể, chính sách đồng bộ để giải quyết dứt điểm tình trạng
này. Vì thế, việc lấn chiếm, vi phạm đất đai di tích vẫn tồn tại và kéo dài đến nay.
Luật Di sản văn hoá, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá và Nghị
định số 98/2010/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2010 của Chính Phủ quy định rõ việc khoanh
vùng bảo vệ và cắm mốc giới cho di tích. Nhưng đến nay, việc cắm mốc giới cho di tích chưa
được thực hiện đầy đủ, đồng bộ và còn rất chậm, dẫn đến một thực trạng di tích vẫn bị xâm hại
và có nguy cơ bị huỷ hoại.
Hiện nay, tốc độ đơ thị hố tại các đô thị lớn như: Hà Nội, Thừa Thiên Huế, thành phố Hồ
Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác diễn ra quá nhanh, vì thế đất đai trở thành tài sản có giá
trị vơ cùng lớn, trở thành một món hàng hố có giá trị lợi nhuận rất cao, cộng với tình trạng
bng lỏng quản lý nên đất đai di tích bị lấn chiếm, di tích ngày càng bị thu hẹp.

Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VI PHẠM DI TÍCH, NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CƠNG TÁC QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ DI TÍCH LỊCH SỬ -VĂN HĨA, DANH LAM
THẮNG CẢNH.
3.1. Quan điểm, mục tiêu của Đảng và Nhà nước trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản

văn hóa
Mỗi quốc gia khi hoạch định chính sách văn hóa đều đặt ra những mục tiêu cục thể trên cơ
sở điều kiện và bối cảnh thực tế của đất nước. Nhưng các nhà nghiên cứu về chính sách văn hóa
và quản lý cũng đã thống nhất đưa ra một số mục tiêu cơ bản mà các quốc gia nào khi xây dựng


chính sách văn hóa cũng phải tính đến. Giữ gìn nguyên vẹn và đầy đủ các di tích đã và đang
được xếp hạng, không để xuống cấp, tổn thất hoặc bị hủy hoại là mục tiêu lâu dài cần đạt được
của Đảng và Nhà nước ta. Nâng cao nhận thức, phát huy các giá trị của di tích trong việc giáo
dục truyền thống lịch sử, văn hóa và truyền thống văn hiến của dân tộc cho nhân dân, đặc biệt là
thế hệ trẻ; giới thiệu bản sắc và tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các
nước, là cơ sở quan trong để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
như Nghị quyết trung ương 5 đã đề ra. Trong điều kiện cho phép, các di tích cần được tu bổ, tơn
tạo một cách hồn chỉnh với tư cách là một sản phẩm du lịch có giá trị phục vụ chiến lược phát
triển ngành du lịch, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tăng cường cơng tác quản lý
nhà nước về di tích và danh lam thắng cảnh theo hướng mở rộng xã hội hóa, thu hút sự tham gia
rộng rãi của nhân dân vào việc bảo vệ và phát huy di tích, gắn với quản lý nhà nước bằng pháp
luật.
3.2. Các giải pháp nhằm hạn chế vi phạm di tích
3.2.1. Hồn thiện hệ thống văn bản pháp luật về di sản văn hóa
3.2.2. Nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác bảo vệ và phát
huy giá trị di tích
3.2.3. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa
3.2.4. Tăng cường cơng tác quản lý, đặc biệt là ở địa phương
- Công tác kiểm kê và xếp hạng di tích
- Chính sách đầu tư cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, danh
lam thắng cảnh.
- Đào tạo nguồn nhân lực
3.2.5. Những biện pháp hỗ trợ, di dời những hộ dân ra khỏi di tích
3.2.6. Tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý di tích

3.2.7. Kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ xếp hạng di tích
3.2.8. Xây dựng nhiều chế độ, chính sách về tài chính cho cơng tác bảo vệ di tích
3.2.9. Đưa di tích đến với cộng đồng
3.2.10. Giải quyết giữa bảo tồn và phát triển
3.2.11. Nghiên cứu, phục dựng lại di tích
3.2.12. Tăng cường các biện pháp xử phạt hành chính


KẾT LUẬN
Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khố X kỳ
họp thứ 9 thông qua đã khẳng định “Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của Di sản văn hố nhân loại, có vai trò to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó nhiệm vụ thứ tư là bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa. Nghị quyết đã chỉ rõ nội dung của nhiệm vụ này như sau: “Di sản văn hóa là
tài sản vơ giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những
giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi
vật thể.
Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ơng để lại.”
Di tích là những bằng chứng vật chất có ý nghĩa quan trọng, minh chứng về lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Di tích giúp cho con người biết được cội nguồn của
dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hoá của đất nước và do đó có tác động
ngược trở lại tới việc hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại.
Việt Nam, mảnh đất của di tích, từ miền núi tới hải đảo đâu đâu cũng có di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh. Hàng vạn di tích là nguồn tài ngun vơ giá cho việc khai thác du lịch bền
vững. Khái quát hệ thống di tích lịch sử văn hóa của Việt Nam có thể đi đến nhận định rằng: Số
lượng di tích của cả nước rất lớn, đa dạng về loại hình và có giá trị to lớn về nhiều mặt.
Nhận thức của toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa, giá trị của di sản văn hóa nói chung, di tích

lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh nói riêng ngày càng được nâng cao. Bảo vệ di tích, phát
huy giá trị của di tích phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đấu tranh
chống vi phạm đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Hàng ngàn di tích
được xếp hạng và tu bổ trong mấy chục năm qua đã thể hiện những nỗ lực to lớn của toàn xã hội
chăm lo và bảo vệ di tích. Về cơ bản hệ thống di tích của đất nước đã được bảo vệ, chăm sóc và
tu bổ bảo đảm khả năng tồn tại lâu dài.
Tuy nhiên, do trải qua hàng chục năm chiến tranh, chúng ta chưa có nhiều điều kiện chăm
lo, bảo vệ di tích nên đến nay, mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn cịn nhiều di tích bị vị phạm
chưa được giải tỏa. Phần lớn các vi phạm này đã diễn ra từ nhiều chục năm nay nên việc giải
quyết cần có quyết tâm và sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp.
Các di tích lịch sử tiêu biểu của đất nước đều từng bước đã được đầu tư tu bổ. Tuy nhiên,
cũng cịn nhiều di tích đang ở trong tình trạng xuống cấp. Nhưng việc tu bổ di tích hiện nay mới
chỉ tập trung vào di tích chính nổi tiếng, hầu như chưa có di tích nào được đầu tư tu bổ hoàn
chỉnh từ kiến trúc tới hạ tầng, từ nội thất tới ngoại thất. Bên cạnh đó, chất lượng tu bổ di tích,
nhất là những hạng mục được thi cơng bằng nguồn vốn do nhân dân đóng góp cịn chưa đạt yêu


cầu về chuyên môn. Tăng cường quản lý nhà nước và xây dựng đội ngũ kiến trúc sư, kỹ sư, nghệ
nhân, cơng nhân... phục vụ tu bổ di tích là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay.
Những hành vi lấn chiếm đất tại di tích cũng đang dần được kiểm soát bởi hệ thống văn bản
pháp luật ngày càng được hoàn thiện và việc tuyên truyền giáo dục pháp luật về di sản văn hóa
đến với người dân ngày càng đạt hiệu quả cao. Tăng cường công tác quản lý di tích từ trung
ương đến địa phương và đặc biệt là đưa người dân cùng với chính quyền địa phương vào quản lý
cùng thực hiện hoạt động quản lý di tích. Gắn trách nhiệm của mỗi cá nhân và cộng đồng vào
công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung và di tích nói riêng. Việc di dời
những hộ dân đang sống trong di tích cũng đã và đang được triển khai tại một số tỉnh thành phố
trong cả nước và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy còn gặp rất nhiều khó khăn trong
cơng tác di dân ra khỏi di tích, nhưng sẽ từng bước tháo gỡ và sẽ đạt được kết quả như mong
muốn. Di tích sẽ bảo tồn được những giá trị gốc và được giữ gìn cho các thế hệ mai sau.
References

1.

Đặng Văn Bài (2006), “Tu bổ và tơn tạo các di tích lịch sử - văn hóa là hoạt động có tính
đặc thù chun ngành”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 15, tr 10-16, Hà Nội.

2.

Đặng Văn Bài (2007), “Bảo tồn di sản văn hóa trong q trình phát triển”, Tạp chí Di sản
văn hóa, số 19, tr 11-14, Hà Nội.

3.

Đặng Văn Bài (2007), Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học “Bảo tồn di tích và cuộc sống
đương đại”, Hà Nội.

4.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền Văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

5.

Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (2001), Quyết định số 1706/QĐ-BVHTT ngày
24/7/2001 phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn
hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

6.

Bộ trưởng Bộ văn hóa – Thơng tin (2003), Quyết định số 05/2003/QĐ-BVHTT ngày

06/2/2003 về việc ban hành Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi, NXB chính trị quốc gia,
Hà Nội.

7.

Bộ trưởng Bộ văn hóa – Thông tin (2004), Quyết định số 13/2004/QĐ-BVHTT ngày
01/4/2004 ban hành về việc ban hành “Định mức dự toán bảo quản, tu bổ và phục hồi ”,
NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.


8.

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2009), Chỉ thị số 73/CT-BVHTTDL ngày
19/5/2009 về việc tăng cường các biện pháp quản lý di tích và các hoạt động bảo quản, tu
bổ và phục hồi di tích, Hà Nội.

9.

Chính phủ (2002), Nghị định số 92/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật di sản văn hóa, Hà Nội.

10.

Chính phủ (2006), Nghị định số 56/2006/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động văn hóa-thơng tin, Hà Nội

11.

Chính phủ (2010), Nghị định 98/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa, Hà Nội.


12.

Chính phủ (2010), Nghị định số 75/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa, Hà Nội.

13.

Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hịa (1945), Sắc lệnh số 65/SL
về việc thành lập Đơng Phương Bác Cổ học viện và Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt
Nam, Hà Nội.

14.

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước) (1984), Pháp lệnh số 14-LCT/HĐND
về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hố và danh lam, thắng cảnh, Hà Nội.

15.

Đồn Bá Cử (2006), “Đơi điều về tu bổ di tích trong thời gian qua”, Tạp chí Di sản văn
hóa, số 17, tr 69-72, Hà Nội.

16.

Cục Di sản văn hóa (2009), Báo cáo số 557/BC-DSVH ngày 16/7/2009 về tình hình thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa trong năm 2006, 2007, 2008 và ước thực
hiện năm 2009 đối với dự án chống xuống cấp và tơn tạo di tích, Hà Nội.

17.


Cục Di sản văn hóa (2010), Báo cáo số 563/BC-DSVH ngày 08/9/2010 về Đánh giá 2 năm
việc thực hiện Chỉ thị số 79/2008/CT-BVHTTDL ngày 8 tháng 9 năm 2008 của Bộ trưởng
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về tăng cường cơng tác pháp chế ngành văn hóa, thể thao
và du lịch, Hà Nội.

18.

Nguyễn Quốc Hùng (2004), “Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa và hệ thống bảo vệ
di tích ở nước ta”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 9, tr 3-10, Hà Nội.

19.

Nguyễn Quốc Hùng (2008), “Truyền thống Việt Nam qua di tích lịch sử văn hóa và danh
lam thắng cảnh”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 25, tr 3-8, Hà Nội.


20.

Nguyễn Thế Hùng (2004), “Đôi điều về tu bổ di tích tín ngưỡng – tơn giáo”, Tạp chí Di
sản văn hóa, số 6, tr 62-65, Hà Nội.

21.

Nguyễn Thế Hùng (2007), “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và
phát triển đất nước”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 20, tr 27-31, Hà Nội.

22.

Dỗn Minh Khơi (2010), “Bảo tồn di tích trong khơng gian phát triển đơ thị”, Tạp chí Di
sản văn hóa, số 31, tr 102-103, Hà Nội.


23.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

24.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật di sản văn hóa, NXB
chính trị quốc gia, Hà Nội.

25.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003) Luật Xây dựng, Hà Nội.

26.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật đất đai, Hà Nội.

27.

Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Khống sản, Hà Nội.

28.

Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật di sản văn hóa, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

29.


Hà Văn Tấn (2008), “Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước”, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 2, tr 44-54, Nhà xuất bản
Thế giới, Hà Nội.

30.

Thủ tướng Chính phủ (1957), Nghị định số 519/TTg quy định thể lệ về bảo tồn di tích, Hà
Nội.

31.

Thủ tướng Chính phủ (2002), Chỉ thị số 05/2002/CT-TTg ngày 18/02/2002 về tăng cường
các biện pháp quản lý, bảo vệ cổ vật trong di tích và ngăn chặn trục vớt, đào bới trái phép
di chỉ khảo cổ học, Hà Nội.

32.

Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 19/2003/QĐ-TTg ngày 28/1/2003 phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đến năm 2005, Hà Nội.

33.

Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 125/2007/QĐ-TTg ngày 31/7/2007 phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.


34.

Nguyễn Hữu Tồn (2008), “Tu bổ, tơn tạo di tích trong cuộc sống đương đại – Mấy vấn đề
đặt ra”, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 4, tr.69-76, Hà Nội.


35.

Đỗ Văn Trụ (2005), “Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của
nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc”, Tạp chí Di sản
văn hóa, số 13, tr 20-23, Hà Nội.

36.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

37.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2008), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

38.

Lê Thành Vinh (2005), “Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững”, Tạp
chí Di sản văn hóa, số 13, tr 24-26, Hà Nội.



×