Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Mở rộng cho vay tiêu dùng của NHNo va PTNT Chi nhánh Bách Khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.79 KB, 77 trang )











TIỂU LUẬN:
Mở rộng cho vay tiêu dùng
của NHNo&PTNT Chi
nhánh Bách Khoa





LỜI NÓI ĐẦU

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của hệ thống ngân hàng thương
mại ngày càng được khẳng định. Các hoạt động của ngân hàng thương mại không
ngừng được mở rộng và phát triển về mặt lượng và mặt chất. Trong các hoạt động đó,
có thể nói hoạt động cho vay là một trong những hoạt động quan trọng nhất của các
ngân hàng thương mại. Đây là hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng,
nhưng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng.
Ở Việt Nam, cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay khá mới mẻ của các ngân hàng
thương mại. Đây đang và sẽ là thị trường tiềm năng và đầy sức hấp dẫn với hơn 80
triệu người dân.
Là chi nhánh ngân hàng cấp 2 của chi nhánh NHNo Láng Hạ, chi nhánh Bách


Khoa đã khẳng định được vai trò là trung gian tài chính quan trọng trên địa bàn. Chi
nhánh luôn cung cấp những khoản cho vay an toàn và hiệu quả góp phần tích cực vào
sự phát triển của địa bàn cũng như sự phát triển chung của Hà nội. Mặc dù mảng cho
vay tiêu dùng đã được chi nhánh chú trọng phát triển nhưng kết quả đạt được chưa
cao. Dư nợ cho vay tiêu dùng chiếm tỷ trọng rất thấp, chỉ khoảng 0,69% tổng dư nợ
của chi nhánh Bách Khoa năm 2007. Do đó, hiện nay chi nhánh vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu vay của người tiêu dùng trên địa bàn. Vì vậy, việc mở rộng cho vay tiêu
dùng tại chi nhánh là rất cấp thiết.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào quá trình hoàn thiện hoạt động
cho vay tiêu dùng của NHNo, em đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài:
“Mở rộng cho vay tiêu dùng của NHNo&PTNT Chi nhánh Bách Khoa”
Trong đề tài này, em đã tập trung vào tìm hiểu và khái quát những vấn đề lý
luận chung như: khái quát hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM; những chỉ tiêu
đánh giá, những nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại. Trên cơ sở đó, em đã đưa ra một số đánh giá khách quan; những thành tựu
mà NHNo Chi nhánh Bách Khoa đã đạt được; những hạn chế đang còn tồn tại cùng



nguyên nhân và một số giải pháp cùng những kiến nghị để mở rộng hoạt động cho vay
tiêu dùng của chi nhánh Bách Khoa.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng
biểu và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng của NHTM
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng của NHNo Chi nhánh Bách Khoa
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại NHNo Chi nhánh Bách Khoa























CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Trước khi tìm hiểu các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, ta cần hiểu
rõ khái niệm ngân hàng thương mại.
 Khái niệm chung về ngân hàng thương mại
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho
những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người chủ sở hữu phải trả cho
người giữ một khoản tiền công. Công việc này mang lại nhiều lợi ích cho những người
gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng hơn, và đại diện cho các vật có giá trị như

vậy là tiền. Dần dần, ngân hàng là nơi giữ tiền cho những người có tiền. Khi xã hội
phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, nghĩa là phát sinh nhu
cầu vay tiền ngày càng lớn trong xã hội. Khi nắm trong tay một lượng tiền, những
người giữ tiền nảy ra nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lượng tiền trong tay họ không phải
bao giờ cũng bị đòi trong cùng một thời gian, tức là có sự chênh lệch về thời hạn và
lượng tiền cần gửi và lượng tiền cần rút của người chủ sở hữu. Từ đó phát sinh hai
nghiệp vụ đầu tiên nhưng cơ bản nhất của ngân hàng nói chung, đó là huy động vốn và
cho vay vốn.



Ngân hàng, tổ chức kinh doanh tiền tệ, ngày càng gắn bó chặt chẽ với các hoạt
động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Đây là một trong những tổ chức quan trọng
nhất trong hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trên phương diện
những loại hình dịch vụ cung cấp, ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, các dịch vụ
thanh toán, và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Theo “Luật các Tổ chức tín dụng” số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997, sửa đổi
năm 2001:
“ Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán”.
Với định nghĩa theo “Luật các Tổ chức tín dụng” trên, có thể thấy ngân hàng
thương mại thực hiện ba hoạt động cơ bản: huy động vốn, cho vay và thanh toán quốc
tế. Cụ thể như sau:
 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Các dịch vụ mà NHTM cung cấp là: mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay,
bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý
ngân quỹ, tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và

dài hạn (leasing), cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn;
cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trong đó, có thể nói nhận tiền gửi và
cho vay và thanh toán quốc tế là ba hoạt động cơ bản nhất của NHTM.
 Huy động vốn
Huy động vốn, hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại, đóng vai
trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng huy
động vốn chủ yếu từ nguồn tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân
hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng
hạn. Để có nguồn vốn lớn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, NHTM phải thu hút các



nguồn tiền gửi bằng việc trả lãi suất cao như là phần thưởng cho khách hàng về việc
sẵn sàng hi sinh nhu cần tiêu dùng trước mắt.
 Cho vay
Một trong những hoạt động đầu tiên của các ngân hàng là chiết khấu thương
phiếu. Đó là hình thức cho vay đối với người bán bằng mua lại từ người bán các khoản
phải thu của khách hàng để người bán nhận tiền mặt trước. Sau đó, ngân hàng đã cho
vay trực tiếp đối với khách hàng (chính là người mua) để giúp họ có vốn để mua hàng
dự trữ, xây dựng văn phòng, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng
nhanh nhất ở các nước phát triển từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Loại hình cho vay
này không phát triển trước đó vì đặc điểm của nó là những món vay nhỏ và hàm chứa
rủi ro cao. Tuy nhiên sau đó, việc người tiêu dùng có thu nhập cao và ổn định hơn
cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay giữa các tổ
chức tài chính đã buộc các NHTM hướng tới mảng cho vay tiêu dùng như một thị
trường tiềm năng.
Bên cạnh đó, các ngân hàng còn ngày càng chú trọng nhiều hơn đến cho vay tài
trợ dự án như xây dựng các nhà máy mới trong các ngành công nghệ cao. Loại hình
cho vay này có rủi ro cao, tuy nhiên lại đem lại lợi nhuận cao.

Hiện nay, nhiều loại hình cho vay khác nhau đang tồn tại ở các NHTM. Việc
phân loại cho vay chính là việc sắp xếp các khoản vay theo từng nhóm dựa trên một số
tiêu thức nhất định.
Tuỳ theo từng ngân hàng mà cho vay được phân thành các hình thức khác nhau,
nhưng nhìn chung hiện nay tồn tại các cách phân loại sau:


* Căn cứ vào thời hạn cho vay
Theo tiêu thức này, cho vay được phân ra thành 3 loại chính:
 Cho vay ngắn hạn



Đây là hình thức cho vay có thời hạn vay dưới 12 tháng. Mục đích của hình
thức vay này là để giải quyết sự thiếu hụt vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp
và đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Với hình thức cho vay này, ngân
hàng có thể áp dụng hình thức cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp, cho vay theo món,
cho vay theo hạn mức, cho vay có tài sản đảm bảo, cho vay không cần tài sản đảm
bảo, cho vay theo hạn mức thấu chi, chiết khấu hay cho vay luân chuyển.
 Cho vay trung hạn
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời
hạn từ trên 1 năm cho tới 5 năm. Cho vay trung hạn thường được dùng để tài trợ cho
việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ sản xuất…
 Cho vay dài hạn
Theo những quy định chung, cho vay dài hạn có thời hạn là trên 5 năm. Mục
đích của cho vay dài hạn là để tài trợ cho những nhu cầu vốn dài hạn như xây nhà,
mua các thiết bị, công nghệ cần vốn có quy mô lớn, xây nhà máy sản xuất mới.
* Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo căn cứ này, cho vay bao gồm 2 loại:
 Cho vay có tài sản đảm bảo

Với hình thức này, tài sản đảm bảo là một điều kiện để vay vốn khi khách hàng
muốn vay vốn tại ngân hàng. Tài sản đảm bảo của khách hàng có thể được thực hiện
dưới dạng cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh của người thứ ba. Tài sản đảm bảo giúp cho
ngân hàng hạn chế những rủi ro có thể xảy ra và giúp cho ngân hàng bù đắp được phần
nào tổn thất khi khách hàng không hoàn thành được nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng. Sự
đảm bảo này có cơ sở pháp lý nên ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai nếu như
nguồn thu nợ thứ nhất không được khách hàng thực hiện.
 Cho vay không có tài sản đảm bảo
Việc yêu cầu tài sản đảm bảo có thể giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro
xảy ra. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, tài sản đảm bảo lại cản trở việc khách hàng
tiếp cận với nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Do đó, trong một số trường hợp đặc



biệt ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng mà không đòi hỏi tài sản đảm bảo.
Với hình thức này, khách hàng không cần thực hiện việc cầm cố, thế chấp hay sự bảo
lãnh của người thứ ba. Cho vay không cần tài sản đảm bảo chủ yếu áp dụng cho những
khách hàng có uy tín, có quan hệ lâu năm với ngân hàng.
* Căn cứ theo hình thức cho vay
Theo căn cứ này,có thể phân cho vay ra thành 2 loại:
 Cho vay trực tiếp với khách hàng
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng.
Với hình thức này, khách hàng có nhu cầu vay vốn được ngân hàng trực tiếp giao vốn
kèm theo một hợp đồng tín dụng, trong đó quy định rõ số tiền và thời hạn mà khách
hàng này phải hoàn trả cả vốn và lãi cho ngân hàng.
 Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức cho vay mà ngân hàng không trực tiếp giao vốn cho khách
hàng. Việc cho vay của ngân hàng được thực hiện thông qua các tổ chức trung gian.
Hiện nay, ở Việt Nam, các tổ chức trung gian thường là các tổ, đội, nhóm, hội (phụ nữ,
nông dân…), nhóm sản xuất… Các tố chức trung gian này thường có các thành viên

hoạt động theo những tiêu chí chung. Ngân hàng thực hiện việc cho vay theo tổ, tức là
đã chuyển một số bước trong quá trình cho vay sang cho các tổ này như: phát tiền cho
vay, thu nợ gốc và lãi khi đến hạn,…Ngoài ra, hình thức cho vay gián tiếp này còn có
thể được ngân hàng áp dụng cho các hãng sản xuất, hãng bán lẻ.
* Căn cứ theo mục đích cho vay:
Theo hình thức này, có thể chia cho vay thành hai loại:

 Cho vay tiêu dùng:
Đó là một trong những hình thức cho vay của ngân hàng thương mại nhằm tài
trợ cho nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng
nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện
vận chuyển… Đối tượng của hình thức cho này là khách hàng cá nhân.



 Cho vay kinh doanh:
Đây là hình thức cho vay của ngân hàng thương mại nhằm tài trợ cho nhu cầu
kinh doanh của khách hàng chẳng hạn như mở nhà hàng, cửa hàng… Đối tượng của
hình thức cho vay này chủ yếu là các doanh nghiệp.
Bên cạnh các căn cứ trên, nhiều ngân hàng còn có nhiều căn cứ khác để phân
loại cho vay như:
- Căn cứ vào loại tiền vay, có thể chia thành cho vay bằng nội tệ và cho vay
bằng ngoại tệ.
- Căn cứ vào đối tượng vay, có thể chia thành cho vay đối với Nhà nước, cho
vay đối với các tổ chức tín dụng, cho vay đối với doanh nghiệp, cho vay đối với hộ gia
đình, cho vay đối với cá nhân.
- Căn cứ vào các ngành kinh tế, có thể chia thành cho vay công nghiệp - thương
mại, cho vay nông nghiệp và cho vay xuất nhập khẩu…
Việc phân chia các hình thức cho vay này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc quản lý các khoản vay của ngân hàng. Tuỳ theo từng đặc thù riêng mà các ngân

hàng có các tiêu chí phân loại khác nhau.
 Thanh toán quốc tế:
Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được
thực hiện là trao đổi ngoại tệ. Đây là những giao dịch có mức độ rủi ro cao và yêu cầu
phải có trình độ chuyên môn cao.
Trong xu hướng phát triển kinh tế thế giới như hiện nay, thương mại quốc tế
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển xuất nhập khẩu
đòi hỏi các ngân hàng phải tham gia một cách tích cực và hữu hiệu. Ngân hàng tài trợ
cho các doanh nghiệp và cung ứng các loại hình dịch vụ thanh toán, đảm bảo cho hoạt
động xuất – nhập khẩu được thông suốt, đảm bảo an toàn, hiệu quả cho hoạt động này.
Trên đây là những lý luận chung nhất về ngân hàng thương mại và các hoạt
động cơ bản của ngân hàng thương mại. Phần tiếp theo sẽ tập trung nêu rõ những vấn
đề chung nhất về cho vay tiêu dùng, một mảng lớn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại.



1.1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm cho tiêu dùng
Trước hết, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở
hữu (NHTM) sang người sử dụng (người vay), sau một thời gian nhất định lại quay về
với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Cho vay tiêu dùng là một trong những hình thức cho vay của ngân hàng thương
mại nhằm tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Ngân hàng cho vay đối với
người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa,
phương tiện vận chuyển…Cho vay đối với người tiêu dùng có thể gồm cho vay trực
tiếp đối với người tiêu dùng, hoặc cho vay gián tiếp bằng việc ngân hàng mua lại các
hóa đơn bán hàng của các hãng bán lẻ hàng hóa. Hình thức cho vay gián tiếp này còn
được gọi là tài trợ bán hàng trả góp.
Như vậy cơ sở cho vay tiêu dùng là gì? Câu hỏi này sẽ được giải đáp ở mục

sau.
1.1.2.2. Cơ sở cho vay tiêu dùng
Thứ nhất, nhu cầu cho vay tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ do sự gia tăng nhu cầu
về hàng tiêu dùng lâu bền như nhà, xe, đồ gỗ sang trọng…và nhu cầu về du lịch của
một lượng khách hàng rộng lớn.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp là đối tượng cho vay chủ yếu của NHTM. Tuy
nhiên, thị phần cho vay các doanh nghiệp của NHTM đã và đang giảm sút. Đó là do
nhiều công ty lớn tự tài trợ chủ yêú bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Một nguyên
nhân nữa là các NHTM phải chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ trong lĩnh vực cho vay của
các công ty tài chính. Do đó, các ngân hàng có xu hướng mở rộng thị trường cho vay
tiêu dùng để gia tăng thu nhập.
Cuối cùng, thu nhập của người tiêu dùng ngày càng được cải thiện và ổn định
hơn, từ đó có thể đảm bảo việc trả nợ cho ngân hàng một cách đều đặn. Do đó, rủi ro
trong cho vay tiêu dùng của NHTM sẽ có xu hướng giảm.
Hình thành trên cơ sở đó, cho vay tiêu dùng bao gồm rất nhiều hình thức khác
nhau. Cụ thể đó là những hình thức được trình bày trong mục tiếp theo.



1.1.2.3.Các hình thức cho vay tiêu dùng
Tuỳ theo các cách chia mà cho vay tiêu dùng có thể chia thành các hình thức
khác nhau.


* Phân loại theo tài sản đảm bảo
Nếu theo tài sản đảm bảo, có thể phân loại cho vay tiêu dùng ra thành hai loại
sau:
 Cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo
 Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo
* Phân loại theo hình thức tài trợ của ngân hàng

Nếu phân loại theo phương thức này, cho vay tiêu dùng thành bao gồm hai loại
sau:
 Cho vay trực tiếp cho khách hàng
Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp này bao gồm có ba phương thức sau:
 Tín dụng trả định kỳ
Đây là phương thức khách hàng vay và trả trực tiếp cho ngân hàng với mức trả
và thời hạn trả mỗi lần được quy định khi cho vay.
 Thấu chi
Đó là phương thức trong đó một cá nhân có thể rút tiền từ tài khoản vãng lai
của mình vượt mức số dư có, tới một hạn mức đã được thoả thuận trước.
Cả hai loại tín dụng trên đều không cần ký hợp đồng vay mượn mà chỉ cần
thông qua thoả thuận nghiệp vụ với các nội dung: hạn mức, lãi suất, yêu cầu đảm bảo
phí các loại, bảo hiểm (nếu có), thời hạn có hiệu lực của hạn mức, kỳ hạn nợ (nếu có).
 Thẻ tín dụng
Đây là phương thức cho vay mà ngân hàng phát hành thẻ cho những người có
tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện để cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa



mà chủ thẻ được phép sử dụng.
 Cho vay gián tiếp
Đó là việc ngân hàng mua các phiếu bán hàng từ những người bán lẻ hàng
hoá. Do vậy, đây chính là hình thức tài trợ bán hàng trả góp của các NHTM.
Cho vay gián tiếp của ngân hàng được thực hiện bằng một trong hai cách sau:
 Cách 1:
Trong hình thức này, ngân hàng, người bán và người mua phải thoả thuận với
nhau về số tiền vay, mức và thời hạn trả dần. Sau đó, ngân hàng thanh toán cho người
bán hàng và giữ lại quyền sở hữu tài sản cho đến khi người mua trả góp đủ.
Có thể mô tả quy trình như sau:


(1)
(2)
(5) (3) (4)


Trong đó:
(1): Người mua trả trước 20-30% giá trị của tài sản.
(2): Người bán giao tài sản cho người mua, đồng thời giữ lại quyền sở hữu tài
sản.
(3): Người bán giao quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng làm thế chấp và phiếu
bán hàng.
(4): Ngân hàng trả phần tiền còn thiếu cho người bán (70-80%).
(5): Người mua trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn được xác định.
 Cách 2:
Phương thức này được thực hiện với thời hạn và mức trả dần tương tự như trên
nhưng khác ở một số điểm. Đó là người bán giao tài sản và cả quyền sở hữu cho người
mua, người bán và người mua thực hiện hành vi mua bán chịu tài sản nên xuất hiện kỳ
phiếu, ngân hàng chiết khấu kỳ phiếu của người bán.

Người mua

Người bán

NHTM



Có thể mô tả như sau:
(1)
(4)


(2) (5) (3)



Trong đó:
(1): Người mua mua chịu hàng hoá và có kỳ phiếu cho người bán.
(2): Người mua ký quỹ 20-30% giá trị tài sản và cam kết thế chấp tài sản.
(3): Ngân hàng chiết khấu kỳ phiếu từ người bán hàng.
(4): Người bán giao tài sản và quyền sở hữu cho người mua.
(5): Người mua tiến hành trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn được xác
định.



* Phân loại theo mục đích vay của khách hàng
Nếu chia theo mục đích vay của khách hàng, có thể chia cho vay tiêu dùng
thành các hình thức sau:
 Cho vay tiêu dùng cư trú:
Hình thức cho vay tiêu dùng này nhằm mục đích hỗ trợ khách hàng về việc
mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhà cửa, mua đất.
 Cho vay tiêu dùng phi cư trú:
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng nhằm hỗ trợ khách hàng về mua sắm
phương tiện vận chuyển, du lịch, du học, học nghề…

Người mua

Người bán

NHTM




Mặc dù bao gồm những hình thức cho vay phong phú như vậy, cho vay tiêu
dùng có một số đặc điểm chung trình bày ở phần tiếp theo.
1.1.2.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Trước hết, cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có độ rủi ro cao. Như đã nói
ở trên cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của khách hàng. Do vậy khả năng thu hồi lại nợ vay của ngân hàng phụ thuộc rất
lớn vào khả năng tài chính, sức khoẻ…của người vay. Nếu người vay bị chết, bị ốm
hay bị mất việc thì ngân hàng sẽ rất kho thu hồi được món vay.
Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức lãi suất cao trong
khung lãi suất của NHTM. Chính vì độ rủi ro tiềm ẩn rất cao, ảnh hưởng tới sự an toàn
của hoạt động của ngân hàng, mà khách hàng muốn nhận tài trợ theo hình thức cho
vay tiêu dùng phải chịu mức lãi suất khá cao. Mức lãi suất này giúp đảm bảo cho ngân
hàng có thể hạn chế được rủi ro và đảm bảo thu nhập trong những trường hợp có sự cố
ngoài ý muốn xảy ra.
Như đã nói ở trên, cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức lãi suất cao
trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng, mặt khác số lượng khách hàng của hình
thức cho vay này lại nhiều nên đây là hình thức tài trợ mang lại nguồn lợi nhuận cao
cho ngân hàng. Lãi suất của những khoản vay này thường ổn định. Ngân hàng sẽ phải
chịu rủi ro khi chi phí huy động vốn tăng lên.
Thêm vào đó, cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Chẳng hạn như
khi nền kinh tế mở rộng, mọi người cảm thấy lạc quan về tương lai, cho vay tiêu dùng
sẽ tăng lên. Trái lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình
cảm thấy không tin tưởng nhất là khi họ thấy tỉ lệ thất nghiệp tăng lên, họ sẽ hạn chế
vệc vay mượn từ ngân hàng.
Cuối cùng, các khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị nhỏ nhưng số lượng
các khoản vay nhiều. Do cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho hoạt động tiêu dùng
của khách hàng nên giá trị thường nhỏ, vụn vặt. Tuy nhiên do nhu cầu tiêu dùng của

người dân ngày càng tăng do nền kinh tế không ngừng phát triến, nên nhu cầu về các



khoản vay tiêu dùng là rất lớn. Chính điều này cũng làm cho ngân hàng phải bỏ ra một
khoản chi phí không phải là nhỏ khi tiến hành hoạt động cho vay tiêu dùng.
Với những đặc điểm nêu trên, cho vay tiêu dùng có tác động mạnh mẽ trước hết
đến người tiêu dùng, ngân hàng và sau nữa là đến nền kinh tế. Chi tiết của những vai
trò đó sẽ được làm rõ ở mục sau.
1.1.2.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng không chỉ thể hiện rõ vai trò to lớn đối với ngân hàng mà
còn đối với nền kinh tế và đối với người tiêu dùng. Có thể nói hình thức cho vay này
đem lại lợi ích cho cả ba đối tượng trên. Cụ thể như sau:
* Vai trò đối với ngân hàng
Như đã phân tích ở trên, cho vay tiêu dùng là một trong những loại hình cho
vay có lãi suất cao nhất, do đó có thể đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Đồng thời,
theo nguyên tắc doanh lợi và rủi ro, đây cũng là hoạt động hàm chứa rủi ro cao của
ngân hàng. Do vậy, để có được lợi nhuận cao đó, ngân hàng cần áp dụng những biện
pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả như: thu thập thông tin về khách hàng một cách chính
xác, phân tích khách hàng, lập phòng riêng theo dõi cho vay tiêu dùng…
Do sức ép cạnh tranh của các tổ chức tài chính phi ngân hàng và sự cải thiện
trong thu nhập của người dân, cho vay tiêu dùng, loại hình trước đây được các ngân
hàng xếp vào loại hình cho vay nguy hiểm với mức độ rủi ro cao, đã trở thành một thị
trường tiềm năng được các ngân hàng chú trọng mở rộng và phát triển.
* Vai trò đối với người tiêu dùng
Thứ nhất, đời sống con người không ngừng được cải thiện làm cho nhu cầu của
con người về hàng tiêu dùng không chỉ dừng lại ở những mặt hàng giản đơn để đáp
ứng những nhu cầu hàng ngày mà còn là những hàng hóa có giá trị lớn hơn rất nhiều
như nhà cửa,ô tô,… Như vậy, để đáp ứng được tất cả các nhu cầu trên, một yêu cầu
được đặt ra cho con người là cần có một nguồn tài chính đủ lớn. Có thể nói, nguồn tài




chính này chỉ có thể được đáp ứng từ nguồn tài trợ của ngân hàng cho người tiêu dùng
thông qua cho vay tiêu dùng.
Thứ hai, cho vay tiêu dùng gián tiếp tạo ra nguồn hàng hóa phong phú về mẫu
mã, chất lượng cao để người tiêu dùng lựa chọn. Thật vậy, hình thức tín dụng này còn
làm tăng sự cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau. Những người sản xuất
muốn thu hút được nhiều khách hàng phải không ngừng đa dạng hóa các chủng loại
hàng hoá, mẫu mã hàng hoá, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm. Do đó,
người tiêu dùng là người được lợi nhất.

* Vai trò đối với các doanh nghiệp
Mục tiêu hoạt động hàng đầu của các doanh nghiệp sản xuất là tối đa hoá giá
trị tài sản. Để đạt được mục tiêu đó, các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để tăng
số lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ được. Điều này phụ thuộc phần lớn vào khả năng
tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của khách hàng. Hiện nay, mặc dù nhu cầu về hàng hoá,
dịch vụ của người tiêu dùng không ngừng tăng, nhưng nhu cầu đó trong nhiều trường
hợp lại không được thỏa mãn bằng nguồn tài chính hiện có của khách hàng. Nói cách
khác, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của khách hàng tăng mạnh không đồng
nghĩa với khả năng tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ đó của họ. Nguồn tài chính từ sự tài
trợ của ngân hàng là một giải pháp tối ưu. Như vậy, hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng giải quyết được sự ùn tắc trong việc tiêu thụ hàng hoá, đẩy nhanh quá trình
lưu thông hàng hóa, tăng số vòng quay hàng tồn kho, tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Từ đó, nguồn tín dụng này cũng giúp cho các doanh nghiệp
có điều kiện tăng cường sản xuất, mở rộng qui mô, mở rộng thị trường.
* Vai trò đối với nền kinh tế
Nhu cầu về hàng tiêu dùng của khách hàng tăng nhanh kéo theo nền sản xuất
hàng hoá, dịch vụ được đẩy mạnh, lưu thông hàng hoá cũng được tăng cường. Những
nhà sản xuất luôn muốn tiêu thụ nhanh chóng hàng hoá, dịch vụ của mình, tuy nhiên

điều này phụ thuộc phần lớn vào khả năng tài chính của người tiêu dùng. Như đã nói ở



trên, nếu chỉ đơn thuần chỉ dựa vào nguồn tài chính hiện có của khách hàng thì không
thể nào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của họ, do vậy giải pháp tối ưu là sử dụng
nguồn tài trợ của ngân hàng. Như vậy, nguồn vốn của ngân hàng thông qua hình thức
cho vay tiêu dùng đã góp phần đẩy mạnh lưu thông hàng hoá, góp phần thúc đẩy sự
phát triển chung của nền kinh tế.
Có thể nói, cho vay tiêu dùng có vai trò quan trọng không chỉ với người tiêu
dùng, ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế. Với vai trò to lớn như vậy, cho vay tiêu
dùng được ngân hàng thực hiện thao quy trình như thế nào? Câu hỏi này sẽ được giải
đáp ở mục tiếp theo.
1.1.2.5. Quy trình cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Quy trình cho vay được bắt đầu với giai đoạn cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ
khách hàng và kết thúc với giai đoạn kế toán viên tất toán, thanh lý hợp đồng tín dụng.
Quy trình cho vay được tiến hành theo ba bước:
- Thẩm định trước khi cho vay;
- Kiểm tra, giám sát trong khi cho vay;
- Kiểm tra, giám sát, tổ chức thu hồi nợ sau khi cho vay.
Quy trình cho vay của ngân hàng thương mại được tóm tắt qua sơ đồ sau:














































Xác định thị
trường và các thị
trường mục tiêu
NHU CẦU KHÁCH
HÀNG

THẨM ĐỊNH PHÊ DUYỆT
THƯƠNG LƯỢNG


Ti
ếp nhận yêu
cầu khách hàng
 Tìm hiểu triển
vọng
 Tham khảo ý
kiến bên ngoài


M
ục
đích vay

 HĐKD
 Quản lý

 Số liệu



K
ỳ hạn

 Thanh toán
 Các điều khoản
 Bảo đảm tiền vay
 Các vấn đề khác


Cán b
ộ quản trị
rủi ro
 Giám đốc/Tổng
giám đốc

GIẢI NGÂN


Th
ủ tục hồ s
ơ hoàn t
ất

 Chuyển tiền
TH
Ủ TỤC HỒ S

Ơ



D
ự thảo hợp
đ
ồng

 Xem xét hồ sơ
 Kiểm tra tài sản bảo đảm
 Miễn bỏ giấy tờ pháp lý


Các v
ấn
đ
ề khác

THANH TOÁN


Tr

đ
ủ gốc

 Trả đủ lãi
QUẢN LÝ TÍN DỤNG



S
ố liệu

 Các điều khoản
 Bảo đảm tiền vay
 Thanh toán
 Đánh giá tín dụng
Trả nợ đúng hạn
Đ
Ề XUẤT TÍN DỤNG

THỦ TỤC HỒ SƠ & GIẢI NGÂN
QU
ẢN LÝ DANH MỤC







XỬ LÝ






Tóm lại, mục 1.1 đã khái quát những lý luận chung nhất cho vay tiêu dùng như

khái niệm, cơ sở, các hình thức, đặc điểm và tác động của cho vay tiêu dùng. Những
phần tiếp theo sẽ đi sâu hơn vào mở rộng cho vay tiêu dùng, vấn đề trung tâm của
chuyên đề tốt nghiệp. Trước hết là những chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay tiêu dùng
của ngân hàng thương mại.
1.2. Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Đầu tiên, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm mở rộng cho vay tiêu dùng, rồi sau
đó mới có thể đưa ra những chỉ tiêu phản ánh.
1.2.1. Khái niệm mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng
Trước hết, mở rộng được là gia tăng về mặt lượng của một đối tượng cụ thể nào
đó. Chẳng hạn như mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp
được hiểu là làm tăng những chỉ tiêu phản ánh mặt lượng của hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp đó.
Từ đó, mở rộng cho vay tiêu dùng nghĩa là làm tăng những chỉ tiêu phản ánh
mặt lượng của hoạt động này. Những chỉ tiêu đó bao gồm: doanh số từ hoạt động cho
vay tiêu dùng của ngân hàng và tốc độ tăng trưởng của con số này, dư nợ cho vay tiêu
dùng và tốc độ tăng trưởng của nó, tỷ lệ dư nợ cho vay tiêu dùng trên tông dư nợ và số
lượng khách hàng sử dụng dịch vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng.
TỔN THẤT


Không tr
ả nợ gốc

 Không trả nợ lãi



Nh
ận biết sớm


 Chính sách xử lý
 Quản lý
 Dấu hiệu cảnh báo
 Cố gắng thu hồi nợ
 Biện pháp pháp lý
 Tái cơ cấu

Dấu hiệu bất thường



Để hiểu rõ hơn về mở rộng cho vay tiêu dùng, mục tiếp theo sẽ bao gồm những
chỉ tiêu phản ánh nó.




1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
 Doanh số từ hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng và tốc độ tăng trưởng
của doanh số này
Doanh số từ hoạt động cho vay của NHTM là tổng số tiền mà khách hàng chấp
nhận trả cho NHTM khi sử dụng sản phẩm cho vay của NHTM đó. Chỉ tiêu này cho
thấy cái nhìn tổng quan nhất về quy mô cho vay của ngân hàng.
Ngân hàng thu từ tiền vay và lãi vay khách hàng trả ngân hàng khi khoản vay
đáo hạn. Đứng trên phương diện so sánh về doanh số, NHTM nào có doanh số cho vay
cao chứng tỏ NHTM đó “bán” được nhiều sản phẩm cho vay hoặc “bán” được các sản
phẩm cho vay có giá trị lớn; tạo ra mức thu nhập lớn cho ngân hàng.
Tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay tiêu dùng năm N+1 được tính bằng
doanh số cho vay tiêu dùng năm N+1 chia cho doanh số cho vay tiêu dùng năm N.
Việc so sánh doanh số từ hoạt động cho vay tiêu dùng giữa các năm của một NHTM

cũng cần thiết để có thể đánh giá mức độ “trưởng thành” trong hoạt động cho vay của
ngân hàng.
 Dư nợ cho vay tiêu dùng và tốc độ tăng trưởng của dư nợ cho vay tiêu dùng
Dư nợ cho vay tiêu dùng là tổng giá trị các khoản cho vay tiêu dùng tại một thời
điểm nhất định của ngân hàng. Chỉ tiêu này lớn hay bé phản ánh quy mô cho vay tiêu
dùng của ngân hàng.
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng năm N+1 được tính bằng dư nợ cho
vay tiêu dùng năm N+1 chia cho dư nợ cho vay tiêu dùng năm N. Chỉ tiêu này cho



thấy sự tăng lên hay thu hẹp của quy mô cho vay tiêu dùng qua các năm của ngân
hàng.
 Tỷ lệ dư nợ cho vay tiêu dùng trên tổng dư nợ
% Dư nợ cho vay tiêu dùng= Dư nợ cho vay tiêu dùng/ Tổng dư nợ
Đây là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu cho vay tiêu dùng (phân theo
tiêu chí mục đích vay vốn) so với tổng dư nợ của ngân hàng. Các sản phẩm dịch vụ
“bán” được đều quy về giá trị bằng tiền. Do đó, dư nợ cho vay tiêu dùng, tổng dư nợ
đều là các giá trị biểu hiện bằng tiền.
Tỷ lệ này càng cao thì chứng tỏ nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng
càng phát triển, và có thể xem cho vay tiêu dùng là hoạt động chủ chốt trong hoạt động
tín dụng nói chung của ngân hàng.
Tỷ lệ càng thấp thì chứng tỏ nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng có thể
chưa phát triển, chưa được chú trọng hay có những biện pháp phát triển phù hợp, hoặc
đây không phải là nghiệp vụ chủ chốt của ngân hàng. Khi đó ngân hàng cần đặt ra
những câu hỏi: định hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng cụ
thể như thế nào; sản phẩm cho vay này đã phù hợp với nhu cầu của thị trường chưa;
lợi thế cạnh tranh của ngân hàng đã được khai thác hết và đúng chưa.
Bên cạnh đó, có thể so sánh chỉ tiêu này giữa các năm với nhau để đưa ra nhận
định về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng qua các năm. Nếu tỷ lệ này không thay đổi, dư

nợ ngắn hạn và tổng dư nợ đều tăng thì hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng là
ổn định. Nếu tỷ lệ này giảm mà tổng dư nợ không thay đổi chứng tỏ hoạt động này
đang có xu hướng giảm. Nếu tỷ lệ này tăng trong khi tổng dư nợ tăng chứng tỏ hoạt
động này đang phát triển rất tốt Nhiều khả năng khác có thể xảy ra. Song, dựa vào
đây, nhà lãnh đạo ngân hàng sẽ đánh giá được tình hình hoạt động cho vay tiêu dùng
của ngân hàng.
 Số lượng khách hàng sử dụng sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng



Thông qua việc ghi chép lại các giao dịch trong hoạt động cho vay tiêu dùng từ các
kênh cung ứng, ngân hàng sẽ nắm được số lượng khách hàng đang sử dụng sản phẩm
cho vay tiêu dùng của ngân hàng cụ thể là bao nhiêu.
Từ đó, việc so sánh số lượng khách hàng năm nay so với năm trước cho thấy sự
tăng trưởng hay giảm sút trong quy mô cho vay tiêu dùng của NHTM.
Như vậy, để mở rộng cho vay tiêu dùng, ngân hàng phải tìm biện pháp để làm
gia tăng các chỉ tiêu nêu trên. Tuy nhiên, để thực hiện được mục đích đó, ngân hàng
phải xem xét và phân tích được những nhân tố có tác động tích cực cũng như những
nhân tố có tác động tiêu cực đến hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của các NHTM
Cho vay tiêu dùng là một trong những hình thức cho vay của ngân hàng thương
mại, hoạt động của nó chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau. Các ngân hàng
luôn phải xem xét các nhân tố đó một cách thận trọng để nhằm phát huy những nhân tố
có tác động tích cực đến cho vay tiêu dùng, đồng thời hạn chế tới mức tối đa các nhân
tố có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động cho vay tiêu dùng.
Có thể chia những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại thành hai nhóm: nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách
quan.
1.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan
Cho vay tiêu dùng chịu tác động chủ yếu của các nhân tố chủ quan, những nhân

tố xuất phát từ bản thân ngân hàng. Đây có thể coi là nhóm yếu tố quyết định hoạt
động cho vay tiêu dùng. Tuỳ theo định hướng phát triển của mỗi ngân hàng thương
mại mà tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay của mỗi ngân hàng là
khác nhau. Có những ngân hàng coi cho vay tiêu dùng là một hoạt động quan trọng,
nhưng bên cạnh đó cũng có những ngân hàng không coi cho vay tiêu dùng là hoạt
động chiến lược mà tập trung nguồn lực mở rộng và phát triển các hoạt động khác. Do
vậy, định hướng phát triển và nội lực của mỗi ngân hàng là nhân tố quyết định đối với
sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.3.1.1. Quy mô vốn huy động của ngân hàng



Quy mô vốn huy động đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc mở rộng hoạt
động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. (Vốn huy
động ở các chi nhánh ngân hàng chính là vốn nợ). Thật vậy, cũng như những doanh
nghiệp sản xuất, vốn huy động đối với ngân hàng chính là nguyên liệu đầu vào của quá
trình sản xuất. Nếu như không có vốn huy động thì ngân hàng không thể thực hiện
được hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình. Trái lại, nếu nguồn vốn huy động của
ngân hàng lớn thì ngân hàng mới có thể cho vay nhiều, từ đó hoạt động cho vay mới
được mở rộng.
Bên cạnh đó, quy mô nguồn vốn huy động lớn hay nhỏ cũng là một nhân tố thu
hút khách hàng đến với ngân hàng. Quy mô nguồn vốn lớn tạo điều kiện cho ngân
hàng nâng cao cơ sở hạ tầng, máy móc, thiết bị, công nghệ ngân hàng…, từ đó tạo
tiềm lực lớn cho ngân hàng.
1.3.1.2. Quy trình và thủ tục cho vay của ngân hàng
Đây là một yếu tố tác động không nhỏ đến quy mô cho vay tiêu dùng của ngân
hàng. Tâm lý của khách hàng là không muốn mất thời gian trong những thủ tục hành
chính khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng nói chung và cho vay tiêu
dùng nói riêng. Có thể nói, không một khách hàng nào muốn giao dịch tại một ngân
hàng có quy trình và thủ tục cho vay rườm rà, phức tạp. Do vậy, nếu quy trình và thủ

tục cho vay tiêu dùng của ngân hàng nhanh chóng và hiệu quả sẽ thu hút rất nhiều
khách hàng. Trái lại, quy trình và thủ tục cho vay của những ngân hàng đó phức tạp,
phiền hà sẽ làm hạn chế lượng khách hàng. Hiện nay, các ngân hàng đều tìm cách rút
ngắn quy trình và thủ tục cho vay nhằm thu hút khách hàng. Như vậy, khi tiến hành
hoạt động cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng, các ngân hàng cần có một
hệ thống các quy trình và thủ tục cho vay hợp lý, nhanh chóng nhưng chính xác.
1.3.1.3. Ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng
Một nhân tố khác ảnh hưởng đến mở rộng quy mô cho vay nói chung và cho
vay tiêu dùng nói riêng là sự cần thiết của việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong lĩnh
vực ngân hàng. Trong thời đại ngày nay, thông tin trở thành vấn đề thiết yếu, không
thể thiếu trong mọi hoạt động, trong đó có hoạt động của ngân hàng. Công nghệ ngân



hàng đóng vai trò sống còn đối với các ngân hàng. Công nghệ hiện đại là cơ sở để các
ngân hàng mở rộng hoạt động trong đó có hoạt động cho vay tiêu dùng. Công nghệ
ngân hàng hiện đại không những giúp các ngân hàng quản lý tốt hơn hoạt động của
toàn bộ hệ thống và đưa ra các giải pháp một cách nhanh chóng mà còn đem lại những
tiện ích và dịch vụ mới với các mức phí cạnh tranh cho các khách hàng. Công nghệ
thông tin cũng giúp các ngân hàng nâng cao năng lực quản lý rủi ro đối với từng khách
hàng và toàn bộ hệ thống. Ngược lại, nếu công nghệ của ngân hàng lạc hậu, việc quản
lý các hoạt động của ngân hàng sẽ gặp khó khăn, công tác xử lý cũng như lưu giữ
thông tin không được thực hiện một cách tốt nhất, do đó, làm giảm năng lực cạnh
tranh của ngân hàng so với các tổ chức tài chính khác.
1.3.1.4. Sự đa dạng và chất lượng của các hình thức cho vay tiêu dùng
Sự đa dạng hóa các hình thức cho vay tiêu dùng là một nhân tố then chốt tác
động đến việc mở rộng quy mô cho vay tiêu dùng bởi lẽ sự đa dạng này mang đến cho
khách hàng nhiều gói sản phẩm, dịch vụ để chọn lựa. Do đó, xác suất cho việc chọn
được sản phẩm phù hợp với mình của khách hàng sẽ cao hơn. Từ đó, ngân hàng đã
thành công trong việc mở rộng quy mô cho vay. Thật vậy, một ngân hàng cung cấp

nhiều hình thức cho vay tiêu dùng để khách hàng chọn lựa chắc chắn sẽ thu hút khách
hàng hơn so với một ngân hàng có ít hình thức cho vay tiêu dùng. Đây cũng chính là
nhân tố mỗi ngân hàng cần chú trọng để tăng sức cạnh tranh, thu hút khách hàng trong
thị trường tài chính ngân hàng sôi động hiện nay.
Bên cạnh đó, chất lượng của các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng quy mô cho vay tiêu dùng. Nếu dịch
vụ mà ngân hàng cung cấp có chất lượng tốt thì sẽ thu hút được một số lượng lớn hơn
khách hàng. Ở góc độ của khách hàng, chắc chắn họ sẽ lựa chọn ngân hàng cung cấp
sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt hơn để sử dụng.
1.3.1.5. Những ưu đãi cho khách hàng khi vay vốn
Khách hàng khi mua hàng hóa hay sử dụng bất kỳ dịch vụ nào cũng rất chú
ý đến những ưu đãi mà họ có thể được hưởng từ doanh nghiệp, tổ chức cung cấp
những hàng hóa, dịch vụ đó. Trong ngành ngân hàng cũng vậy, họ luôn muốn gửi tiền



ở những ngân hàng có lãi suất huy động vốn cao, rút tiền trước hạn mà vẫn được
hưởng lãi suất có kỳ hạn của kỳ hạn gần nhất,… Tương tự như thế, một cá nhân muốn
vay vốn vì mục đích tiêu dùng ở ngân hàng sẽ luôn tìm đến những ngân hàng có nhiều
ưu đãi cho họ nhất như lãi suất cho vay thấp, điều kiện cho vay đơn giản ví dụ như
không cần tài sản đảm bảo,… Điều này chắc chắn sẽ thu hút một lượng khách hàng
đến với ngân hàng vì có thể nói tài sản đảm bảo là một trở ngại lớn của một lượng lớn
khách hàng khi có nhu cầu vay tiêu dùng tại ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng cần xem
xét kỹ hồ sơ khách hàng cũng như giám sát việc trả nợ của khách hàng một cách chặt
chẽ khi cung cấp những ưu đãi này cho khách hàng.
1.3.1.6. Chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại
Đây là một trong những yếu tố tạo lên sức mạnh của các ngân hàng thương mại.
Nhân viên ngân hàng là người trực tiếp thực hiện các chiến lược kinh doanh của ngân
hàng thương mại. Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân
hàng chính là hiện hữu chủ yếu của dịch vụ. Chính vì vậy, kiến thức chuyên môn của

của nhân viên ngân hàng góp phần làm tăng thêm giá trị của các sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng cung cấp. Bên cạnh đó, kiến thức chuyên môn của nhân viên ngân hàng
cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thẩm định các khoản vay. Cho vay tiêu
dùng là một loại hình cho vay có mức độ rủi ro tiềm ẩn rất lớn, nên ngay từ khâu thẩm
định các khoản vay nếu cán bộ thẩm định không làm tốt có thể gây ra tổn hại rất lớn
cho ngân hàng.
Ngoài ra, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng cũng là một yếu tố rất
quan trọng trong việc cho vay. Nếu một cán bộ ngân hàng không có đạo đức nghề
nghiệp thì nguy cơ xảy ra rủi ro cho ngân hàng cũng không phải là nhỏ. Thêm vào đó,
sự nhiệt tình, phong cách phục vụ khách hàng của nhân viên ngân hàng cũng có ý
nghĩa rất lớn trong thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Đó là do sự cạnh tranh rất
mạnh mẽ giữa các ngân hàng nên sự phục vụ tận tình của nhân viên đối với khách
hàng là vô cùng quan trọng.

×