Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Giải pháp nhằm mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thị xã Hà Tĩnh.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.73 KB, 76 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Lời mở đầu
Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mình vĩ
đại. Những thành tựu mà nền kinh tế đạt được đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt
đất nước ta. Những thành tựu ấy đã đưa đời sống nhân dân ta đi lên rõ rệt. Làm
thay đổi hoàn toàn nhu cầu cũng như mong muốn của con người. Nếu như nhu
cầu mong muốn của người dân Việt Nam trước đây là “ăn no, mặc ấm” thì nhu
cầu đó hiện nay là “ăn ngon, mặc đẹp”. Theo đó nhu cầu về các cơ sở vật chất,
tiện nghi tiêu dùng ngày càng tăng lên rõ rệt. Các nhu cầu về các sản phẩm giá
trị như nhà đẹp, xe hơi … đã trở thành nhu cầu của không ít bộ phận dân cư.
Những người có thu nhập trung bình thì có những nhu cầu về các sản phẩm ít
cao sang hơn, những người có thu nhập trên trung bình thì lại có những nhu cầu
về các sản phẩm chất lượng tốt hơn, đắt đỏ hơn. Và nhu cầu của con người là vô
tận không bao giờ hết. Tuy nhiên, không phải ai cũng có đủ khả năng tài chính
trong hiện tại để thoả mãn các nhu cầu của mình ngay lập tức, hoặc có đủ nhưng
các khoản đó đang được đầu tư ở một lĩnh vực nào đó hoặc được gửi tiết kiệm
chưa đến hạn… Và khách hàng của chúng ta không thể thoã mãn các nhu cầu
như mong muốn. Nắm bắt được điều này, các ngân hàng thương mại đã thực
hiện cho vay tiêu dùng trong một số năm gần đây.
Thị trường cho vay tiêu dùng hiện nay đã trở thành một thị trường hấp dẫn
đối với các ngân hàng thương mại. Từ năm 2001 đến nay, thị trường này đã đem
đến cho các ngân hàng thương mại Việt Nam không ít lợi nhuận. Tuy nhiên, đây
vẫn là một hình thức cho vay khá mới mẻ và còn nhiều bất cập. Nắm bắt được
điều này, cùng với sự hướng dẫn của Thạc sỹ Cao Thị Ý Nhi cùng các cô chú
trong phòng kinh doanh, tín dụng Ngân hàng No & PTNT thị xã Hà Tĩnh. Em đã
chọn đề tài “Giải pháp nhằm mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thị xã Hà Tĩnh” làm chuyên đề
thực tập.
1
Chuyên đề này gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương


mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn thị xã Hà Tĩnh.
Chương 3: Các giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thị xã Hà Tĩnh.
Với đề tài này em hy vọng với những lý luận và thực tiễn về cho vay tiêu
dùng trong đề tài sẽ giúp ích cho những người quan tâm đến việc mở rộng hoạt
động cho vay tiêu dùng.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trường Đại Học Kinh tế Quốc Dân,
đặc biệt là các thầy cô khoa Tài chính – Ngân hàng đã dìu dắt em đi suốt quảng
đời sinh viên. Thầy cô đã cho em nhiều kiến thức về nghiệp vụ cũng như những
kiến thức về xã hội.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Cao Thị Ý Nhi đã giúp đỡ, định hướng
em hoàn thành chuyên đề này. Em xin cảm ơn ban lãnh đạo chi nhánh cùng các
cán bộ công tác trong phòng kế toán – ngân quỹ, phòng kinh doanh đã giúp đỡ
em rất nhiều trong quá trình thực tập cũng như đã tạo điều kiện cho em trong
việc tìm số liệu cho đề tài thực tập của em.
Thị xã Hà Tĩnh, ngày tháng năm 2007
Sinh viên:
Trần Thị Mai Thảo.
2
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG.
1.1.1 Khái niệm cơ bản về Ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm.

Ngân hàng thương mại (NHTM) được hiểu tổng quát nhất là một trung gian
tài chính hoạt động trên lĩnh vực đặc biệt đó là kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ
Ngân hàng.
Ngày nay, với cơ chế Ngân hàng hai cấp thì Ngân hàng thương mại không
còn chức năng phát hành tiền như trước đây mà Ngân hàng thương mại chỉ còn
chức năng kinh doanh tiền tệ kiếm lãi và các dịch vụ khác liên quan đến kinh
doanh tiền tệ.
1.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại.
Với chức năng dẫn truyền vốn từ nơi thặng dư vốn đến nơi thâm hụt vốn hay
dẫn truyền vốn từ nơi “thừa” đến nơi “thiếu” vốn. Vai trò của Ngân hàng thương
mại thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra do tiết kiệm, tích luỹ của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà
nước trong nền kinh tế. Vì thế, muốn có vốn phải tăng thu nhập quốc dân, để
làm được như vậy phải mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh sự phát triển
của các ngành trong nền kinh tế và ngược lại muốn mở rộng sản xuất kinh
doanh, đẩy mạnh sự phát triển các ngành trong nền kinh tế thì phải có vốn. Mặt
khác, khi nền kinh tế càng phát triển thì càng tạo ra nhiều vốn và tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Ngân hàng đứng ra huy động
vốn nhàn rỗi từ mọi thành phần kinh tế sau đó thông qua hoạt động tín dụng sẽ
cung cấp vốn cho các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh, đáp ứng kịp thời
nhu cầu của các thành phần kinh tế.
3
Thứ hai: Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
Nhà nước sẽ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách tiền tệ và
nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương đối với các Ngân hàng
thương mại. Các Ngân hàng thương mại là trung tâm và phương tiện để thực
hiện các chính sách tiền tệ thông qua nghiệp vụ tín dụng và thanh toán. Thông
qua các nghiệp vụ này, các Ngân hàng thương mại sẽ mở rộng khối lượng cung

ứng tiền tệ trong lưu thông đáp nhu cầu sản xuất và tái sản xuất của các doanh
nghiệp khi nền kinh tế tăng trưởng, thu hẹp khối lượng tiền tệ trong lưu thông
khi nền kinh tế bị lạm phát cao.
Thứ ba: Ngân hàng thương mại là trung gian thanh toán trong nền kinh tế.
Bằng việc đưa ra các thị trường các loại hình dịch vụ như thẻ, séc, mở các tài
khoản giao dịch, chuyển tiền, các Ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu thanh
toán ngày càng cao, đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp, không những thế
còn giúp họ có thể giảm chi phí và thời gian cũng như tăng độ an toàn trong các
hoạt động kinh doanh thương mại của mình.
Thứ tư: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia và nền
tài chính quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi chúng ta luôn phải hội nhập kinh tế
quốc tế, mở rộng quan hệ thương mại với các nước khác trên thế giới càng trở
nên cấp bách và cần thiết. Việc phát triển của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát
triển của kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó vì thế
nền tài chính của mỗi quốc gia cùng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và
Ngân hàng thương mại cùng với các hoạt động kinh doanh của mình đã góp một
vai trò vô cùng quan trọng trong sự hội nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh
như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán, nghiệp vị hối đoái và các nghiệp vụ
khác, Ngân hàng đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng phát triển
cũng như góp phần điều tiết nền tài chính trong nước ổn định và phù hợp với
nền tài chính quốc tế.
4
4
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2. Chức năng cơ bản của Ngân hàng.
1.1.2.1 Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế: nhóm thứ nhất các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi

tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt qua thu nhập và vì thế họ là
những người cần bổ sung vốn; và nhóm thứ hai các cá nhân và tổ chức thặng dư
trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho
hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có một khoản tiền dư thừa tạm thời để tiết kiệm.
Trên thực tế hai loại cá nhân và tổ chức này hoàn toàn độc lập với Ngân hàng.
Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai
cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính
giữa hai nhóm. Nhưng để hai nhóm này gặp nhau con đường ngắn nhất là có
một trung gian đứng giữa để đảm bảo điều kiện của các bên đặt ra. Và Ngân
hàng đã đứng ra làm trung gian đó và tất nhiên Ngân hàng sẽ được hưởng một
khoản lợi nhuận. Ngân hàng nhận tiền gửi từ nhóm thứ nhất với một khoản phí
nhất định và cho nhóm thứ hai vay với một khoản lãi lớn hơn để đảm bảo Ngân
hàng có lãi.
1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán.
Trong nền kinh tế, tiền vàng là phương tiện thanh toán cơ bản được chấp
nhận rộng rãi nhất. Và các Ngân hàng đã không tạo được tiền vàng mà tạo các
phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng dựa vào số
tiền kim loại mà Ngân hàng hiện nắm giữ. Giấy nhận nợ do Ngân hàng phát
hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được
nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện
thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ.
Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của Ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm
phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Ngày nay việc in tiền đã không còn được tự do như trước. Nhà nước đã tập
trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức: hoặc là Bộ Tài chính hoặc
5
là Ngân hàng Trung ương. Và trong điều kiện phát triển thanh toán qua Ngân
hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu.
Khi Ngân hàng cho vay, số dư triên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách

hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng
việc cho vay các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống
Ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản triền gửi được mở
rộng từ Ngân hàng này đến Ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng
tại một Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu của
một khách hàng khác tại một Ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay
mới. Trong khi không một Ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ
dư thừa, toàn bộ hệ thống Ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi gấp bội
thông qua hoạt động cho vay.
1.1.2.3. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng là trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.
Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch
vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, Ngân hàng
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ
nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạmg lưới thanh toán điện tử, kết
nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các Ngân hàng còn thực
hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông
qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua Ngân hàng càng đạt
hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghhệ đó càng được mở rộng. Vì vậy,
công nghệ thanh toán hiện đại qua Ngân hàng thường được các nhà quản lí tìm
cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo
tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các Ngân hàng trong một quốc
gia mà còn giữa các Ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán
quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua Ngân hàng, biến
Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ
đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
6
6
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3. Các dịch vụ Ngân hàng.

1.1.3.1 Nhận tiền gửi.
Để có tiền để cho vay, ngoài vốn tự có Ngân hàng thương mại phải huy động
vốn từ các nguồn khác nhau như là tiền nhàn rỗi của dân cư, tiền chưa sử dụng
của các doanh nghiệp và của Nhà nước dưới dạng tiền gửi thanh toán, tiền gửi
tiết kiệm. Trong quá trình nhân tiền gửi, các Ngân hàng thương mại phải trả cho
khác hàng mọi khoản lãi, đây được coi là phần thưởng cho khách hàng khi đã hi
sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép Ngân hàng sử dụng tạm thời để
kinh doanh và khoản tiền đó được gọi là lãi tiền gửi và đây cũng chính là một
trong những công cụ để các Ngân hàng cạnh tranh trong quá trình huy động tiền
gửi.
1.1.3.2. Mua bán ngoại tệ.
Mua bán ngoại tệ là một trong những dịch vụ quan trọng của các Ngân hàng
do tính chất không khép kính của nền kinh tế một quốc gia. Mua bán ngoại tệ
nghĩa là mua bán loại tiền này lấy một loại tiền khác để hưởng phí dịch vụ. Đây
là dịch vụ rất quan trọng giúp các doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động
buôn bán của mình với nước ngoài cũng như đáp ứng nhu cầu dùng ngoại tệ của
người dân. Ngày nay hoạt động này đã mở rộng ra với rất nhiều các hình thức
dịch vụ phong phú: mua bán, trao đổi, gửi vay các loại ngoại tệ với các nghiệp
vụ như giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai. Các Ngân hàng
thương mại tham gia giao dịch ngoại hối với hai mục đích. Thứ nhất, Ngân hàng
cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là mua hộ và bán hộ cho nhóm khách
hàng riêng lẻ, và Ngân hàng thu một khoản phí. Mục đích thứ hai là Ngân hàng
kinh doanh ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ giá thay đổi.
1.1.3.3 Cho vay.
Đây là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận chủ yếu nhất cho các Ngân
hàng thương mại cũng như chứa đựng nhiều rủi ro nhất đối với các Ngân hàng
thương mại. Có thể phân chia cho vay thành các loại chính sau.
Cho vay thương mại: Đây là các khoản tín dụng phục vụ cho hoạt động mua
bán trao đổi hàng hoá của các doanh nghiệp thông qua các nghiệp vụ như cho
7

vay trực tiếp ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu dự trữ hàng hoá, trợ vốn lưu động và
cho vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
Cho vay tiêu dùng: Đây là loại hình cho vay dành cho người tiêu dùng là cá
nhân, hộ gia đình có nhu cầu vay để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho đời sống hàng
ngày. Ban đầu loại hình này không được các Ngân hàng thương mại ưa chuộng
vì họ cho rằng loại hình này rủi ro cao, nhưng sau đó, do có sư gia tăng thu nhập
của người dân cũng như sự cạnh tranh gay gắt, loại hình này đã phát triển một
cách mạnh mẽ.
Tài trợ cho dự án: Do nhu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp, các
Ngân hàng đã phát triển cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp có thể
xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất, tăng cường
khoa học công nghệ.
1.1.3.4 Bảo lãnh.
Do nhu cầu phát triển nhanh chóng và đa dạng của thương mại hàng hoá đã
hình thành nên loại hình dịch vụ bảo lãnh, đây là việc Ngân hàng dùng uy tín
của mình để bảo lãnh cho khách hàng của mình mua hàng hoá chịu, tham gia
đấu thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hồi thanh toán, bảo lãnh tài chính.
1.1.3.5 Bảo quản tài sản hộ.
Ngân hàng cho khách hàng “thuê két” để bảo quản hộ khách hàng những
giấy tờ có giá, vàng, giấy tờ cầm cố hoặc giấy tờ quan trọng với nguyên tắc an
toàn, bảo mật và thuận tiện.
1.1.3.6. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng sẽ mở một tài khoản cho
khách hàng và không chỉ thực hiện việc bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi
trả khi có giấy thanh toán từ khách hàng gửi đến Ngân hàng, mở ra một phương
thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đem lại tiện ích nhanh chóng đảm bảo và
tiết kiệm chi phí cho khách hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông
tin, bên cạnh các phương thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, luân
chuyển đã phát triển các hình thức thanh mới bằng điện tử…
8

8
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3.7.Quản lý ngân quỹ.
Các NHTM được biết đến là những nhà thủ quỹ và quản lý ngân quỹ chuyên
nghiệp, với kinh nghiệm quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu và chi tài
chính, nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ
trong đó Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một Công ty kinh doanh
và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh
lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.1.3.8. Tài trợ các hoạt động của chính phủ.
Ở hầu hết các quốc gia, các Chính phủ thường ở tình trạng thu không đủ chi,
vì vậy, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân
hàng. Ngày nay, chính phủ giành quyền cấp giấy phép hoạt động và kiểm soát
các Ngân hàng. Các Ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ
phải cam kiết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài
trợ cho Chính phủ. Các Ngân hàng thương mại thường mua trái phiếu Chính phủ
theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà Ngân hàng huy động được.
1.1.3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (leasing).
Các NHTM cho khách hàng thuê các tài sản, thiết bị, máy móc đắt tiền,
khách hàng không có nhu cầu dùng lâu dài hoặc không đủ tài chính để mua. Rất
nhiều Ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy
móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó Ngân hàng mua thiết bị và
cho khách hàng thuê với một số điều kiện nhất định. Dịch vụ này của Ngân hàng
cũng có nhiều điểm giống với cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài
hạn.
1.1.3.10. Các dịch vụ Ngân hàng khác
Ngoài các loại hình dịch vụ trên, Ngân hàng còn có các loại hình dịch vụ
khác như cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp các dịch vụ môi giới
đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý…
Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn tức các Ngân hàng sẽ quản lý hộ tài

sản và quản lý hoạt động tài chính cho các cá nhân và doanh nghiệp có nhu cầu.
Dịch vụ uỷ thách này phát triển sang cả người vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ
9
thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí các Ngân hàng đóng vai trò là người
uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng qua đời bằng cách công bố
tài sản, bảo quản tài sản có giá. Nhiều khách hàng coi Ngân hàng như một
chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn đầu tư, về quản lý tài
sản, về thành lập mua bán, sát nhập doanh nghiệp…
Cung cấp các dịch vụ môi giói đầu tư chứng khoán tức là các Ngân hàng bán
các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các Ngân
hàng tổ chức ra Công ty chứng khoán hoặc các Công ty môi giới chứng khoán
để cung cấp dịch vụ môi giới. Các Ngân hàng còn tư vấn phát hành chứng khoán
cho các công ty khi các công ty có nhu cầu phát hành hoặc phát hành thêm các
loại chứng khoán để huy động vốn.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm tức Ngân hàng liên doanh với các Công ty
bảo hiểm hoặc tổ chức ra Công ty con để thực hiện việc bán bảo hiểm cho khách
hàng, điều đó đảm bảo cho việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị
tàn phế hoặc gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng
cung cấp các dịch vụ bảo hiểm như Tiết kiệm an sinh, Tiết kiệm hưu trí, Tiết
kiệm khuyến học…
Cung cấp các dịch vụ đại lý tức Ngân hàng nhận làm Ngân hàng đại lý cho
các Ngân hàng khác và thực hiện các nghiệp vụ như thanh toán hộ, phát hành hộ
các chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.2 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng là là hoạt động kinh doanh cơ bản đầu tiên của các NHTM. Đây là
hoạt động sinh lời lớn nhất trong các hoạt động kinh doanh của các NHTM. Và
cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất đối với các NHTM. Có nhiều quan
điểm về tín dụng như: Tín dụng là hoạt động tài trợ của Ngân hàng đối với

khách hàng của mình. Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay.
Tín dụng là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng dựa trên nguyên tắc bảo toàn
và sinh lời…
10
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Tóm lại, Tín dụng là hoạt động tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng nhằm
thoã mãn nhu cầu về vốn của khách hàng dựa trên nguyên tắc khách hàng phải
trả cả gốc và lãi đúng như thời hạn cam kết.. Trong quan hệ tín dụng, khách
hàng phải đảm bảo thanh toán cho Ngân hàng cả gốc và lãi đúng thời hạn cam
kết. Ngân hàng phải hoạt động trên nguyên tắc bảo toàn vốn và sinh lời.
1.2.2. Các hình thức của tín dụng
1.2.2.1 Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá
và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người hưởng thụ) có thể
giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc
mang đến Ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Sơ đồ 1.1. Chiết khấu thương phiếu:
(1) Người bán chuyển hàng hoá hoặc dịch vụ cho người mua;
(2) Thương phiếu được lập, người mua ký, cam kết trả tiền cho người bán
(người thụ hưởng) khi thương phiếu đến hạn và giao thương phiếu cho người
bán hoặc người hưởng thụ;
(3)Trong thời hạn có hiệu lực của thương phiếu, người bán có thể mang
thương phiếu đến Ngân hàng để xin chiết khấu;
(4) Sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, Ngân hàng có thể phát tiền
cho người bán và nắm giữ thương phiếu (Ngân hàng có thể yêu cầu người bán
ký hậu vào thương phiếu, cam kết trả tiền cho Ngân hàng nếu người mua không
trả - quyền truy đòi đối với thương phiếu);
(5) Đến hạn, Ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền (nếu
người mua không trả, Ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên ký tên trên

thương phiếu).
Số tiền Ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết
khấu và lệ phí chiết khấu.
1.2.2.2. Cho vay.
11
Đây là hình thức tín dụng cơ bản của tất cả các NHTM. Và cũng là nghiệp vụ
mang lại thu nhập chính cho các NHTM. Cho vay được áp dụng với nhiều sản
phẩm đa dạng tuỳ vào năng lực mỗi Ngân hàng. Cho vay thường được áp dụng
với các hình thức sau:
Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được
chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin Ngân hàng hạn mức thấu chi và
thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho Ngân hàng). Trong quá trình
hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt quá số
dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền
nhập về tài khoản tiền gửi, Ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi thấu chi. Các khoản
chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức
này.
Cho vay trực tiếp từng lần: Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay
tương đối phổ biến của Ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay
thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách
hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu
cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng, tức là vốn từ
Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh
doanh.
Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ tín dụngtheo đó Ngân hàng thoả thuận
cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ
hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp
trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của

khách hàng.
Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không
được quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp Ngân hàng quy định hạn mức
cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Mỗi lần vay khách hàng chỉ
cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua
12
12
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và
hợp lệ của chứng từ, Ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để
mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người
vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với
nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và
khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc
vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để Ngân hàng xem
xét lại mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính
của khách hàng.
Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng theo đó Ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả
góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợi cho tài
sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả nợ mỗi lần được tính toán sao cho phù
hợp với khả năng trả nợ.
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn
mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hoá mà
khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán
hàng từ phía Ngân hàng và làm đại lí thu tiền cho Ngân hàng, hoặc khách hàng
trả trực tiếp cho Ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua
nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.

Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội
Nông dân, Hội cựu chiến binh… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên
theo một mục đích riêng, song chủ yếu đề hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho
mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo
luôn được các tổ chức này rất quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ
chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Ngân hàng cũng có thể cho vay
13
thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho
vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền vay sai mục đích.
Mục đích cho vay qua trung gian nhằm tiết kiệm chi phí cho vay, giảm bớt
rủi ro. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng
vị thế của mình để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành
viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất
lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
1.2.2.3. Cho thuê tài chính.
Đây là một sản phẩm có thể nói là biến dạng của hình thức cho vay. Ngân
hàng tài trợ cho khách hàng bằng cách mua các tài sản theo yêu cầu của khách
hàng để khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu Ngân hàng nên có
thể thu hồi để bán hoặc cho thuê lại khi người thuê không trả nợ được. Điều này
giảm bớt thiệt hại cho Ngân hàng. Nghiệp vụ này phát sinh khi khách hàng
không đủ tiền mua, hoặc chỉ có nhu cầu sử dụng trong thời gian ngắn hơn thời
gian khấu hao của tài sản… Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là thuê nghiệp vụ
và thuê tài chính. Trong thuê nghiệp vụ người thuê chỉ thuê trong một thời gian
ngắn, không có dự định mua tài sản đó để sử dụng lâu dài. Cho thuê tài chính
đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài và người đi thuê có quyền mua lại tài
sản khi hết hợp đồng thuê. Hoạt động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho thuê
tài chính.
1.2.2.4. Bảo lãnh, bảo đảm.

Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng
khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng, qua đó
khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực hiện
được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
1.3. CHO VAY TIÊU DÙNG
1.3.1. Vai trò của cho vay tiêu dùng
1.3.2.1 Đối với người tiêu dùng
14
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Xã hội ngày càng phát triển, thu nhập và trình độ dân trí ngày càng cao đã tác
động rất lớn đến nhu cầu tiêu dùng của người dân. Những nhu cầu đó bây giờ
không chỉ là cơm no áo ấm, không giản dị như trước đây nữa mà là những nhu
cầu như nhà ở có đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, có phương tiện đi lại hiện đại, được
đi du lịch, được nghỉ mát… Tuy nhiên xã hội nào cũng vậy, không phải tất cả
mọi người đều có khả năng tự trang trải cho những nhu cầu đó bằng chính
nguồn tài chính hiện tại của mình.
Có thể khẳng định rằng người đi vay - người tiêu dùng là người hưởng trực
tiếp và nhiều nhất những lợi ích mà hình thức CVTD mang lại. Từ thực tế cho
thấy rằng có nhiều nhu cầu mang tính tự nhiên, thiết yếu, có ý nghĩa quan trọng
trong cuộc sống đối với các cá nhân và hộ gia đình. Những nhu cầu này không
sớm thì muộn người tiêu dùng cũng phải được thoả mãn. Ví dụ như nhu cầu về
mua sắm sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện nghi sinh hoạt, mua sắm các
phương tiện như xe máy, ôtô...
Mặc dù những nhu cầu thiết yếu thì nhiều nhưng của cải thì được tích luỹ
theo thời gian do vậy khả năng tài chính thường bị giới hạn. Vì vậy mà làm nảy
sinh một sự thật là người ta thường mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt sau
một khoảng thời gian tích luỹ khá dài. Khi đó lợi ích cảm nhận được từ sự

hưởng thụ sẽ ít đi. Do vậy người tiêu dùng sẽ tìm cách để phối hợp khéo léo
giữa việc thoả mãn các nhu cầu với yếu tố thời gian và khả năng thanh toán
trong hiện tại và tương lai. Điều này có nghĩa là người tiêu dùng sẽ tìm cách để
hưởng thụ trước số tiền sẽ có trơng tương lai. Nếu phân tích theo khía cạnh tài
chính, việc mượn tiền trước của Ngân hàng để tiêu dùng khiến chúng ta phải trả
lãi thực chất cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền mà ta sẽ có tại một thời điểm
nào đó trong tương lai về thời điểm hiện tại.
Mặt khác, khi xuất hiện cho vay tiêu dùng, sức mua sắm của người dân sẽ
tăng nhanh, do đó mang lại sức mua rất lớn cho thị trường, tuy nhiên sự lựa
chọn hàng hoá sẽ trở lên khắt khe hơn, kỹ lưỡng hơn, do đó cạnh tranh sẽ trở lên
gay gắt hơn dẫn đến nhà sản xuất sẽ chú trọng vào chất lượng và luôn tìm kiếm
15
những sản phẩm tốt nhất để tung ra thị trường, vì vậy người tiêu dùng sẽ được
hưởng những dịch vụ tốt nhất với đồng tiền mà mình bỏ ra.
CVTD chính là một giải pháp, nhờ vay tiêu dùng mà người tiêu dùng được
hưởng các lợi ích trước khi tích luỹ đủ tiền để mua sắm. Bên cạnh đó CVTD còn
đặc biệt cần thiết và có ý nghĩa khi đáp ứng các nhu cầu chi tiêu có tính cấp
bách như chi tiêu cho giáo dục, y tế. Như vậy, việc Ngân hàng thực hiện nghiệp
vụ CVTD sẽ mang lại cho người tiêu dùng những lợi ích tốt nhất.
1.3.1.2 Đối với nhà sản xuất.
Lợi ích của nhà sản xuất là cùng với sự gia tăng nhu cầu có khả năng thanh
toán của người tiêu dùng, là sự gia tăng cầu về hàng hoá dịch vụ, qua đó làm
tăng quy mô thị trường về hàng hoá dịch vụ.Vì vậy các doanh nghiệp sẽ bán
được nhiều hàng hoá hơn, cũng như đẩy nhanh được quá trình bán hàng, tăng
vòng quay hàng tồn kho, giảm các khoản phải thu, từ đó làm tăng thu nhập và
tăng độ an toàn trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó CVTD cũng tạo ra sự
cạnh tranh cao hơn giữa các nhà sản xuất cả về số lượng, mẫu mã, chủng loại
sản phẩm, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.3.1.3 Đối với các Ngân hàng thương mại.
Các Ngân hàng ngày càng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các tổ

chức tài chính phi Ngân hàng như công ty bảo hiểm, công tư ty chứng khoán…
Do vậy để thành công Ngân hàng phải dựa vào khả năng xác định các dịch vụ
tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả.
Như vậy để tăng tính cạnh tranh của NHTM thì cần phải phát triển một cách
toàn diện hoạt động Ngân hàng cả chiều rộng lẫn chiều sâu, trong đó CVTD
đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lược cạnh tranh của
Ngân hàng. Hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ làm tăng thu nhập của Ngân hàng,
mở rộng và tăng cường mối quan hệ giữa Ngân hàng với doanh nghiệp, tăng
cường khả năng cạnh tranh cũng như tạo hình ảnh và thương hiệu đối với công
chúng.
Với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
tiền đó để cho vay kiếm lời, các NHTM song song với nỗ lực huy động vốn,
16
16
Chuyên đề tốt nghiệp
phải khai thác thị trường tín dụng một cách triệt để, nghĩa là tìm cách để đảm
bảo khả năng đáp ứng và trên cơ sở đó thoả mãn tốt nhất các nhu cầu về tín
dụng của nền kinh tế. Vì vậy, sẽ là sai lầm và thiếu sót nếu bỏ qua thị trường
khách hàng cá nhân. Trong lịch sử, hầu hết các NHTM không tích cực cho vay
đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng những khoản CVTD nói chung
có quy mô nhỏ và rủi ro vỡ nợ cao do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời
thấp. Đầu thế kỷ XX, các NHTM bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách
hàng để tiến hành cho vay thương mại. Và rồi, sự cạnh tranh khốc liệt trong việc
giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các Ngân hàng phải hướng vào người tiêu
dùng như là một khách hàng trung thành. Sau thế chiến thứ hai, CVTD đã trở
thành một trong những loại hình có mức tăng trưởng nhanh nhất. Các Ngân
hàng tiếp tục phát triển và trở thành tổ chức cấp tín dụng chính trong lĩnh vực
CVTD. Như vậy, phát triển cho vay tiêu dùng là một biện pháp tốt để mở rộng
thị trường cho các NHTM.
Trong nghiệp vụ CVTD, khách hàng tiềm năng của Ngân hàng và sự đa dạng

về nhu cầu là vô cùng lớn. Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng gần như là vô tận,
đó là nền tảng vững chắc của Ngân hàng khi tiến hành CVTD. Thực tế, rất nhiều
hộ gia đình sẽ không muốn gửi tiền của mình vào một Ngân hàng nếu họ không
thấy được rằng mình có triển vọng vay lại Ngân hàng đó khi có nhu cầu. Vì vậy,
các NHTM cung cấp sản phẩm dịch vụ CVTD cũng có nghĩa là sẽ mở rộng
được quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền
gửi cho Ngân hàng. Đồng thời, phát triển CVTD cũng chính là Ngân hàng thực
hiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy Ngân hàng nâng cao được khả
năng cạnh tranh, tăng thu nhập và phân tán rủi ro cho Ngân hàng.
Bên cạnh đó mục tiêu hoạt động của Ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận, trong
khi đó cho vay tiêu dùng có giá trị của món vay nhỏ nhưng số lượng món vay
thì rất lớn nên có thể chia sẻ rủi ro, đồng thời lại đơn giản hơn rất nhiều so với
cho vay đối với sản xuất mà lãi suất lại tương đối cao. Do vậy việc mở rộng cho
vay tiêu dùng đối với NHTM là một hướng kinh doanh có hiệu quả và tương đối
an toàn.
17
Ngày nay các dịch vụ của Ngân hàng ngày càng đa dạng và cuộc cạnh tranh
hết sức mạnh mẽ. Thực hiện phát triển cho vay tiêu dùng vừa mở rộng khách
hàng vay, tăng quan hệ giao dịch của Ngân hàng với khách hàng để hình ảnh của
Ngân hàng ngày càng đậm nét trên thị trường.
Với những lợi ích trên, phát triển cho vay tiêu dùng là hướng đi rất đúng đắn
của các NHTM
1.3.1.4 Đối với nền kinh tế
CVTD là đòn bẩy hữu hiệu cho việc kích cầu. Thị trường CVTD đã góp phần
tạo nên sự sôi động của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn vốn
cho khu vực sản xuất trong nước, từ đó tăng GDP cho nền kinh tế. Đi đôi với nó
là hàng loạt các vấn đề xã hội được giải quyết như tạo công ăn việc làm, tăng
thu nhập cho người dân, giúp họ cải thiện mức sống, giảm tệ nạn xã hội, góp
phần quan trọng đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi… và làm tăng tiết kiệm quốc gia.
Nhưng bên cạnh đó cần phải chú ý đến tác dụng phụ của tăng cầu, đó là khi lạm

phát thì tăng cầu lại là một điều không tốt sẽ làm cho nền kinh tế càng trở nên
“quá nóng”.
Tóm lại, hoạt động CVTD ra đời là một tất yếu, phù hợp với sự phát triển của
xã hội và tuân theo quy luật kinh tế. Dù ở vị trí nào, người tiêu dùng, người sản
xuất, NHTM, hay tổng quan nền kinh tế nói chung đều được hưởng lợi từ hoạt
động này. Có thể nói phát triển CVTD là một hướng đi đúng đối với các NHTM
trong điều kiện hiện nay.
1.3.2.Khái quát về Cho vay tiêu dùng.
1.3.2.1. Khái niệm về cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng(CVTD) được hiểu là một hình thức tín dụng trong đó Ngân
hàng sẽ thoả thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản
tiền cho mục đích tiêu dùng theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi cho Ngân
hàng sau một khoảng thời gian nhất định.
18
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Là một hình thức tín dụng của NHTM, và cũng như các hình thức cho vay
khác, có rất nhiều quan điểm về CVTD, có quan điểm cho rằng CVTD là các
khoản tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng nhằm mục đích chi tiêu cho các
nhu cầu trong đời sống hàng ngày của khách hàng, bao gồm cả cá nhân và hộ
gia đình. Và cũng có quan điểm cho rằng CVTD là hình thức tài trợ của Ngân
hàng dành cho người tiêu dùng trong đó, Ngân hàng sẽ chuyển giao tiền cho
khách hàng với nguyên tắc khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi cho Ngân
hàng khi đến hạn thanh toán.
Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu
cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ… Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu
giáo dục, y tế và du lịch cũng có thể được tài trợ bởi CVTD.
1.3.2.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cũng là một hình thức cho vay của Ngân hàng dành cho cá nhân và hộ gia
đình, CVTD có đầy đủ đặc điểm chung của một hình thức cho vay như đối

tượng cho vay, nguyên tắc cho vay, thu nhập từ các khoản vay và rủi ro từ các
khoản vay. Ngoài ra CVTD còn có các đặc điểm đặc trưng sau:
- Quy mô món vay nhỏ.
Người tiêu dùng luôn có sự tích luỹ từ trước khi có ý định mua sắm các tài
sản có giá trị lớn (do tâm lý cũng như trong điều lệ cho vay của các Ngân hàng
là người tiêu dùng phải có vốn chủ sở hữu trước khi vay vốn). Hơn nữa, giá cả
của hàng hoá dịch vụ tiêu dùng thường không lớn so với quy mô vốn của một
Ngân hàng.
- Lãi suất cao.
CVTD là một khoản đem lại lợi nhuận rất cao cho các Ngân hàng với lãi suất
“cứng nhắc” tức nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của Ngân hàng và có một
khoản lãi cần thiết. Không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh, lãi suất
cho vay thường biến động theo điều kiện thị trường, như vậy với cho vay tiêu
dùng Ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng lên.
19
Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao đến mức mà bản
thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng
kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận.
Lý do chính khiến các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cao nhất trong thang
lãi suất cho vay của Ngân hàng đó là do chi phí và rủi ro của các khoản vay tiêu
dùng là cao nhất trong các loại cho vay của Ngân hàng. Tất nhiên đây cũng
không phải là lý do đặc biệt gì vì đó luôn là nguyên nhân chính làm cho giá cả
của các khoản tín dụng Ngân hàng thông thường tăng lên. Nguyên nhân có thể
do:
Đặc điểm về quy mô của món vay tiêu dùng thường nhỏ, thời gian vay không
kéo dài lâu trong khi số lượng các món vay tiêu dùng thường lại rất lớn. Hơn
nữa, thông tin về các cá nhân thường không đầy đủ và chính xác hoàn toàn, tiêu
dùng là hoạt động không mạng lại các lợi ích kinh tế cụ thể cho người tiêu dùng,
không cho các con số cụ thể về thu nhập từ hoạt động sử dụng vốn vay hay các
nguồn thu nhập cụ thể cho người tiêu dùng nên gây khó khăn cho cán bộ tín

dụng từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định các nguồn trả nợ Ngân hàng của các
khách hàng vay vốn, giải ngân và thu nợ. Điều đó làm cho chi phí mỗi món vay
cao và rủi ro các khoản vay này tăng lên so với các loại cho vay kinh doanh luôn
có những con số cụ thể với chi phí và thu nhập rõ ràng từ các nguồn công khai.
Rủi ro lớn.
Nguyên nhân các khoản CVTD có rủi ro cao là vì:
Thứ nhất, các khoản cho vay này có lãi suất cố định nên Ngân hàng phải chịu
rủi ro lãi suất khi chi phí huy động tăng lên.
Thứ hai, đối tượng của CVTD là cá nhân, hộ gia đình nên chất lượng các
thông tin tài chính của khách hàng thường không cao. Tư cách của khách hàng
là một yếu tố rất quan trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay nhưng lại rất
khó xác định. Trong cho vay đối với hộ sản xuất kinh doanh, nguồn trả nợ được
lấy từ kết quả kinh doanh, còn trong CVTD nguồn trả nợ là thu nhập hoặc tài
sản của người vay. Khả năng trả nợ thanh đổi nhanh chóng khi người vay thay
đổi điều kiện làm việc hoặc sức khoẻ, khả năng bù đắp trong trường hợp rủi ro
20
20
Chuyên đề tốt nghiệp
hầu như không có. Lý do là các cá nhân dễ dàng giữ kín các thông tin đáng ra
phải trình bày (như triển vọng về công việc cũng như tình trạng sức khoẻ) hơn là
hầu hết các hãng kinh doanh khác (vì các hãng kinh doanh này sẽ phải gửi kèm
theo dơn xin vay mọi giấy tờ chứng nhận về tài chính đã được kiểm toán). Hơn
nữa, cá nhân và hộ gia đình không thể dễ dàng vượt qua các khó khăn về tài
chính so với một hãng kinh doanh. Đấy là chưa kể đến những trường hợp người
đi vay cố tình lừa đảo. Trong những trường hợp như vậy thì dù có nắm giữ tài
sản đảm bảo hay không thì các Ngân hàng vẫn phải đối mặt với rủi ro giảm thu
nhập.
Có tính nhạy cảm theo chu kỳ.
CVTD thường có tính nhạy cảm theo chu kỳ, nó tăng lên trong thời kỳ nền
kinh tế mở rộng, khi mà mọi người dân cảm thấy lạc quan về tương lai. Ngược

lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy
không tin tưởng nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn
chế việc vay mượn từ Ngân hàng, và khi đó tình trạng chất lượng khách hàng
cũng giảm khiến tỉ lệ khách hàng được vay vốn cũng giảm xuống.
Ngoài ra CVTD còn có một số đặc điểm như: Khi vay tiền, cá nhân người
tiêu dùng thường không quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng hơn là
lãi suất mặc dù chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến quy mô số tiền
phải trả. Trong khi lãi suất không phảo là một trong những yếu tố quan trọng mà
hộ gia đình vay tiền quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động
rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng. Những người
có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của mình.
Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập chính có học vấn
cao cũng vậy. Với họ, việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như
mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp.
1.3.2.3. Phân loại cho vay tiêu dùng.
Việc phân loại tín dụng tiêu dùng được lựa chọn trên nhiều tiêu thức khác
nhau để có một cái nhìn toàn diện về cho vay tiêu dùng ở những góc độ khác
nhau.
21
- Căn cứ vào mục đích vay:
Căn cứ vào mục đích vay thì cho vay tiêu dùng bao gồm:
* Cho vay tiêu dùng cư trú (Residential Mortgage Loan):
Đây là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm xây dựng hay
cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
* Cho vay tiêu dùng phi cư trú (Nonresidential Loan):
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang
trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí du
lịch, chữa bệnh hay thanh toán tiền viện phí...
- Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
* Cho vay tiêu dùng trả góp ( Installment Consumer Loan):

Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm cả số
tiền gốc lẫn lãi) cho Ngân hàng theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định
trong thời hạn cho vay. Phương thức này được áp dụng cho các khoản vay có giá
trị lớn hoặc thu nhập từng định kì của người đi vay không đủ khả năng thanh
toán hết một lần số nợ vay. Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các Ngân hàng
thường chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau:
- Thứ nhất: Loại tài sản được tài trợ.
Thông thường thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản hình
thành từ tiền vay đáp ứng được nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương
lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, Ngân hàng thường chú ý đến điều này vì
Ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời
hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn. Bởi vì có như vậy thì người tiêu dùng
mới được hưởng những tiện ích do tài sản đem lại trong một khoản thời gian dài.
- Thứ hai: Số tiền phải trả trước.
Nói chung thì các Ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải thanh toán
trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm - số tiền này được gọi là số tiền trả
trước. Phần còn lại, Ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để
một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng chính họ là chủ sở hữu tài sản, mặt
khác lại có tác dụng hạn chế rủi ro cho Ngân hàng. Một khi không cảm nhận
22
22
Chuyên đề tốt nghiệp
được rằng mình là chủ sở hữu của tài sản được hình thành từ tiền vay thì người
đi vay sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng
không trả nợ, trong nhiều trường hợp, Ngân hàng đành phải tiếp nhận và phát
mại tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều đã bị giảm giá
trị, tức là giá thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả
trước có vai trò rất quan trọng trong việc giúp Ngân hàng hạn chế rủi ro. Số tiền
trả trước thường phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả

trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền
trả trước ít.
+ Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng.
+ Môi trường kinh tế
+ Năng lực tài chính của những người đi vay
- Thứ ba: Chi phí của khoản vay.
Chi phí của khoản vay là chi phí mà người đi vay phải trả cho Ngân hàng về
việc sử dụng vốn. Chi phí này chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có
liên quan. Chi phí khoản vay này phải trang trải được chi phí huy động vốn, chi
phí hoạt động, rủi ro, đồng thời phải mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho
Ngân hàng.
- Thứ tư: Điều khoản thanh toán.
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách
hàng, Ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
+ Số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn phải phù hợp với khả năng về thu nhập trong
mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
+ Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng.
+ Thời hạn cho vay không nên quá dài. Thời hạn cho vay bị giới hạn bởi thời
gian hoạt động của tài sản tài trợ. Và nếu thời hạn cho vay qua dài dễ làm cho
giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh đồng thời rủi ro tín dụng cũng tăng lên. Hơn
nữa, khi thời hạn cho vay quá dài thì thiện chí trả nợ của những người đi vay
cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
23
- Thứ năm: Số tiền khách hàng thanh toán cho Ngân hàng mỗi kỳ trả nợ.
Để xác định số tiền khách hàng phải thanh toán cho Ngân hàng trong mỗi kỳ
trả nợ, ta có thể áp dụng một trong các phương pháp sau đây:
+ Phương pháp lãi gộp (Add on Method): Đây là phương pháp thường được
áp dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp, do tính chất đơn giản và dễ hiểu của
nó. Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính bằng cách lấy vốn gốc nhân
với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn

phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi kỳ hạn trả nợ.
+ Phương pháp lãi đơn (Simple Interest Method): Theo phương pháp này,
vốn gốc người đi vay phải trả cho từng kỳ hạn trả nợ được tính đều nhau bằng
cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả mỗi kỳ
hạn được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn nợ Ngân hàng.
* Cho vay tiêu dùng phi trả góp (Noninstallment Consumer Loan).
Theo phương thức này thì tiền vay được khách hàng thanh toán cho Ngân
hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì tín dụng tiêu dùng phi trả góp chỉ
được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
*Cho vay tiêu dùng tuần hoàn (Revolving Consumer Credit):
Đây là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó Ngân hàng cho phép khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng
lai. Theo phương thức này thì trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn
cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được Ngân
hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo
một hạn mức tín dụng.
- Căn cứ vào nguồn gốc các khoản nợ
* Cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó Ngân hàng mua
những khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay
dịch vụ cho người tiêu dùng. Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua
bán nợ. Trong hợp đồng, Ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng
khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu. Công
24
24
Chuyên đề tốt nghiệp
ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Theo
nguyên tắc người mua hàng phải trả trước một phần giá trị của hàng hoá. Có hai
cách tài trợ tín dụng tiêu dùng gián tiếp cho khách hàng:
(1) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng

hoá, người mua trả trước một phần giá trị tài sản mua bán chịu.
(2)Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng và lập bộ chứng từ bán
chịu hàng hoá.
(3)Công ty bán lẻ giao bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho Ngân hàng làm
thế chấp.
(4)Ngân hàng thanh toán tiền còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(5)Người tiêu dùng thanh toán nợ vay theo thoả thuận trong bộ chứng từ bán
chịu cho Ngân hàng.
Ưu điểm của cho vay tiêu dùng gián tiếp:
+ Cho phép Ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
+ Cho phép Ngân hàng giảm được chi phí trong cho vay. Vì việc mua lại các
chứng từ bán chịu hàng hoá sẽ đơn gian hơn việc lập một bộ hồ sơ cho vay. Mặt
khác người bán hàng cũng chịu trách nhiệm giám sát các khoản cho vay trong
một giới hạn nào đó (như theo dõi các tài khoản trả không đúng hạn, việc tái sở
hữu, bán hàng hoá tái sở hữu v.v…).
+ Là nguồn gốc để mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động khác
của Ngân hàng.
+ Trong trường hợp Ngân hàng có mối quan hệ tốt với các công ty bán lẻ thì
cho vay tiêu dùng sẽ có tính an toàn cao hơn, giúp Ngân hàng giảm bớt rủi ro.
Nhược điểm của cho vay tiêu dùng gián tiếp:
+ Ngân hàng không được tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, điều này dẫn
đến Ngân hàng không thể kiểm soát được khách hàng mà công ty bán lẻ đã bán
chịu, không kiểm soát được chất lượng tín dụng.
+ Ngân hàng không thẩm định được khách hàng trước khi cho vay, dễ dẫn
đến rủi ro cho Ngân hàng trong trường hợp có hiện tượng cố ý lừa đảo.
25

×