TIỂU LUẬN:
Hoàn thiện công tác thẩm định tài
chính doanh nghiệp trong bảo lãnh
tại Ngân hàng TMCP Quân Đội
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nhiều năm qua cùng với sự phát triển của kinh tế khu vực, nền kinh tế nước
ta cũng đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể (GDP đạt khoảng 7-9%). Một trong những
lĩnh vực thành công nhất là lĩnh vực Ngân hàng-Tài chính. Các hoạt động Ngân hàng
phát triển mạnh mẽ, nổi bật là hoạt động bảo lãnh có số dư liên tục tăng qua các năm, hứa
hẹn là một dịch vụ có lợi nhuận tiềm năng. Tuy nhiên, để bảo lãnh thực sự phát huy ưu
điểm thì trước khi thực hiện bảo lãnh không thể xem nhẹ công tác phân tích tài chính của
doanh nghiệp. Công tác này không chỉ quan trọng trong hoạt động bảo lãnh mà còn quan
trọng trong nhiều hoạt dộng ngân hàng khác.
Mặc dù được soạn thảo về quy trình khá chặt chẽ song phân tích tài chính doanh
nghiệp trước khi thực hiện bảo lãnh ở ngân hàng không tránh khỏi những hạn chế nhất
định. Chính vì vậy em lựa chọn đề tài : “Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính
doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Quân Đội
Bố cục chuyên đề gồm 3 phần :
Chương I : Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh của Ngân
hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động bảo lãnh tại Ngân Hàng TMCP Quân Đội
Chương III : Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp
trong hoạt động bảo lãnh tại Ngân Hàng TMCP Quân Đội
CHƯƠNG I
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ngay từ những ngày đầu tiên ra đời, các nhà kinh doanh ngân hàng thương mại đã
mang đến cho khách hàng của mình nhiều dịch vụ tài chính phong phú, đáp ứng hầu hết
các nhu cầu tài chính tiêu dùng cá nhân cũng như tài chính doanh nghiệp.Trong đó phải
kể tới bảo lãnh ngân hàng, một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại, xuất hiện lần đầu
tiên vào những năm 60 tại một thị trường nội địa nước Mỹ nhưng chỉ 10 năm sau đó
nghĩa là vào đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch
thương mại quốc tế và đến ngày nay dịch vụ bảo lãnh đã phát triển mạnh mẽ ở hầu khắp
các quốc gia trên thế giới. Không đứng ngoài xu thế đó, dịch vụ này trong những năm
gần đây đã phát triển không ngừng và mang lại cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
nhiều lợi ích. Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu bảo lãnh ngân hàng là gì và tính ưu việt nào
của dịch vụ bảo lãnh khiến vị trí của nó ngày càng được củng cố một cách chắc chắn
trong các loại giao dịch. Và vì sao trước khi cung ứng một gói dịch vụ bảo lãnh cho
khách hàng, các cán bộ tín dụng ngân hàng phải thẩm định tài chính doanh nghiệp?
Những thắc mắc trên đây sẽ được lý giải trong chương này.
1.1 Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh)
với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng số tiền đã được trả thay.
Về cơ bản, quan hệ bảo lãnh ngân hàng gồm các bên như sau:
Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng, bao gồm: ngân hàng thương mại nhà nước,
ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính
sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp
tác, và các tổ chức tín dụng khác thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng (gọi
chung là các tổ chức tín dụng).
Bên được bảo lãnh là các tổ chức bao gồm:
Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam như doanh
nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh,
doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh
doanh cá thể.
Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.
Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật
Dân sự.
Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham
gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại
Việt Nam.
Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ
hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh. Trong đó, cam
kết bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng hoặc văn bản thỏa
thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ
chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không
thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh
Nhìn chung, bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm sau đây:
Ngân hàng dựa trên chính uy tín của mình để cung ứng dịch vụ bảo lãnh cho
khách hang: Ngân hàng đứng ra bảo đảm với bên nhận bảo lãnh rằng khách hàng của
mình sẽ thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Nếu khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay thế. Nhờ đó, ngân hàng đã tạo được sự tin tưởng cho bên nhận bảo lãnh và góp phần
làm cho các hoạt động thương mại giữa các bên được tiến hành nhanh chóng hơn, thuận
tiện hơn.
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ ngoại bảng: Do ngân hàng dùng uy tín của
mình để cung cấp dịch vụ và ngay tại thời điểm phát hành bảo lãnh, ngân hàng chưa phải
chịu trách nhiệm tài chính thay cho khách hàng nên bảo lãnh được theo dõi ngoại bảng.
Vì thế trong thời gian bảo lãnh, tạm thời nghiệp vụ tín dụng này chưa tác động làm thay
đổi nguồn vốn hay tài sản của ngân hàng phát hành. Nó sẽ được theo dõi nội bảng khi hết
thời hạn bảo lãnh, nếu khách hàng không thực hiện được cam kết của mình với bên đối
tác buộc ngân hàng phải chịu trách nhiệm thay thế. Có nghĩa là việc này tương đương với
việc ngân hàng cấp cho khách hàng một món vay mà khách hàng phải có nghĩa vụ nhận
nợ và hoàn trả nợ cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau: Đối với một gói dịch vụ
bảo lãnh thường có sự kết hợp giữa 3 hợp đồng độc lập. Một là hợp đồng giữa bên được
bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (hợp đồng gốc – hợp đồng giao dịch các loại), hai là hợp
đồng giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, cuối cùng là hợp đồng giữa bên nhận bảo
lãnh và bên bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập so với hợp đồng: Mặc dù mục đích của bảo
lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện
hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng, nhưng việc thanh toán một
bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện được quy định trong bảo
lãnh.
Tính phù hợp của bảo lãnh: Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu tổ chức tín
dụng thanh toán thì tổ chức tín dụng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do người thụ
hưởng xuất trình. Tổ chức tín dụng bảo lãnh có quyền từ chối thanh toán nếu như chứng
từ có dấu hiệu không hợp lệ hay những điều kiện của bảo lãnh không được đáp ứng.
1.1.3 Các loại Bảo lãnh Ngân hàng
Có nhiếu tiêu thức khác nhau để phân loại Bảo lãnh Ngân hàng như: căn cứ vào
bản chất của bảo lãnh, căn cứ vào phương thức phát hành, vào điều kiện và quy
trình…Nhưng đa phần các ngân hàng thương mại tại Việt Nam căn cứ vào theo mục đích
bảo lãnh để phân loại.Và theo mục đích của bảo lãnh, bảo lãnh có thể được chia ra các
loại sau:
Bảo lãnh vay vốn: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên
nhận bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng
không trả nợ hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn. Bảo lãnh vay vốn gồm: bảo lãnh vay vốn
trong nước và bảo lãnh vay vốn nước ngoài (chủ yếu dưới hình thức bảo lãnh mở L/C trả
chậm)
Bảo lãnh thanh toán: là một bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo
lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
Bảo lãnh dự thầu: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên mời
thầu để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trong trường hợp khách
hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt
cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên nhận
bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận
bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy
đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín
dụng phát hành cho bên thụ hưởng bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về
chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách
hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng về chất lượng
sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên
nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh hoàn thanh toán: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát
hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách
hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm
các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả
hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ
hoàn trả số tiền ứng trước cho bên thụ hưởng bảo lãnh.
Bảo lãnh đối ứng: là một bảo lãnh do một tổ chức tín dụng (bên phát hành bảo
lãnh đối ứng) phát hành cho một tổ chức tín dụng khác (bên bảo lãnh) về việc đề nghị
bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo
lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với
bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo
lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
Xác nhận bảo lãnh: là bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng (bên xác nhận bảo lãnh)
phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
của ngân hàng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) đối với khách hàng.
Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của mình đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh.
Đồng bảo lãnh: là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của
khách hàng thông qua một tổ chức làm đầu mối. Trong một số trường hợp, để giảm thiểu
rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này, một ngân hàng
đứng ra đóng vai trò là ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh và có sự tham gia của các
ngân hàng thành viên khác. Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập,
ngân hàng đầu mối có thể đòi bồi hoàn theo tỷ lệ tham gia của họ, dựa trên các bảo lãnh
đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến hành
truy đòi từ bên được bảo lãnh.
1.1.4 Tầm quan trọng của hoạt động bảo lãnh
Một nền kinh tế phát triển luôn tồn tại trong nó nhiều loại hình giao dịch đa dạng,
bao gồm giao dịch tài chính lẫn phi tài chính, giao dịch thương mại lẫn phi thương mại.
Sự an toàn trong các giao dịch luôn được coi là vấn đề của các doanh nghiệp. Với ra sụ
đời của bảo lãnh đã góp phần như một chất xúc tác, giúp các bên đối tác tham gia bảo
lãnh có thể tiến hành giao dịch một cách thuận lợi an toàn hơn, giúp cho nền kinh tế có đà
phát triẻn nhanh hơn và vững chắc hơn .
Trong các giao dịch, bảo lãnh góp phần là một công cụ bảo đảm. Ngân hàng khi
phát hành bảo lãnh đã đồng thời cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp
đồng của người được bảo lãnh, tạo một sự đảm bảo chắc chắn cho người nhận bảo lãnh.
Với sự đảm bảo chắc chắn này khiến cho các hợp đồng được ký kết một cách dễ dàng
thuận lợi và an toàn. Ngày nay khi giao thương phát triển vượt ra phạm vi một quốc gia,
các đối tác có thể hoàn toàn không biết nhau, hoặc mối quan hệ làm ăn mới được hình
thành lần đầu, hoặc họ xa xôi về địa lý… thì bảo lãnh gần như là một dịch vụ hoàn hảo đã
khắc phục được những bất lợi này.
Ngoài công cụ bảo đảm, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ cho người được bảo lãnh.
Thông qua bảo lãnh, người được bảo lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh,
được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ… Chính vì
thế, mặc dù không trực tiếp cấp vốn như trong cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp
cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như trong cho vay.
Tóm lại sự xuất hiện của nghiệp vụ bảo lãnh vừa mang lại lợi ích cho khách hàng,
vừa mang lại một khoản thu phí cho ngân hàng vì vậy nghiệp vụ này ngày càng phát triển
trong các ngân hàng thương mại.
1.1.5 Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh
Là một trong bốn nghiệp vụ tín dụng cơ bản của ngân hàng thương mại. Cũng
giống như nghiệp vụ cho vay, trình tự và thủ tục của bảo lãnh bao gồm các khâu sau: tiếp
nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định bảo lãnh, ký hợp đồng, xử lý nợ quá hạn
phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Bước 1: Khách hàng lập và gửi hồ sơ đề nghị bảo lãnh.
Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý, Giấy đề nghị bảo lãnh, Báo cáo tài chính, Báo
cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác, Hồ sơ tài sản bảo đảm nghĩa
vụ bảo lãnh theo quy định.
Bước 2: Ngân hàng thẩm định hồ sơ và ra quyết định bảo lãnh.
Sau khi nhận được hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng, cán bộ tín dụng ngân hàng
tiến hành thẩm định hồ sơ đó, chủ yếu là thẩm định các điều kiện bảo lãnh của khách
hàng, tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh đã đủ tiêu chuẩn chưa. Tiếp đó, ngân hàng đưa
ra quyết định bảo lãnh hay từ chối. Nếu không chấp nhận bảo lãnh, ngân hàng phải trả lời
bằng văn bản cho khách hàng và nói rõ lý do. Nếu chấp thuận bảo lãnh, ngân hàng phải
cân nhắc lựa chọn hình thức và nội dung bảo lãnh thích hợp nhất với yêu cầu của khách
hàng cũng như khả năng, kinh nghiệm nghiệp vụ của ngân hàng.
Bước 3: Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng và phát hành thư bảo
lãnh.
Ngân hàng phát hành một bản cam kết bảo lãnh và gửi tới cho khach hàng. Ngân
hàng kiểm tra theo dõi chặt chẽ tiến trình bảo lãnh nhằm phòng vệ rủi ro, đôn đốc khách
hàng thực hiện các nghĩa vụ được bảo lãnh.
Bước 4: Khách hàng thanh toán phí bảo lãnh và các khoản phí khác (nếu có) theo
thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh.
Phí bảo lãnh được tính cho mỗi khoản bảo lãnh theo công thức sau:
Phí bảo lãnh = Số dư bảo lãnh × Mức phí bảo lãnh × Thời gian bảo lãnh
Trong đó:
- Số dư bảo lãnh là số tiền đang còn được bảo lãnh.
- Thời gian bảo lãnh là thời gian ngân hàng chịu trách nhiệm bảo lãnh về số dư
bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán theo bảo lãnh đã cấp.
- Mức phí bảo lãnh do các bên thỏa thuận, không vượt quá 2%/năm tính trên số
tiền còn đang được bảo lãnh. Ngoài ra khách hàng còn phải thanh toán cho ngân hàng
bảo lãnh các chi phí hợp lý khác phát sinh liên quan đến giao dịch bảo lãnh khi các bên
có thỏa thuận bằng văn bản.
Bước 5: Tất toán bảo lãnh.
Khi thư bảo lãnh hết thời hạn hiệu lực hoặc khi có thông báo hoặc xác nhận của
bên nhận bảo lãnh về việc hoàn thành nghĩa vụ liên quan đến bảo lãnh, ngân hàng tiến
hành tất toán bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã được bảo
lãnh, bên bảo lãnh phải trả thay và tự động hạch toán nợ vay bắt buộc đối với số tiền trả
nợ thay theo lãi suất nợ quá hạn của bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh và áp dụng
các biện pháp cần thiết để thu nợ như phát mại tài sản bảo đảm, trích tài khoản của bên
được bảo lãnh (nếu có thỏa thuận), khởi kiện ra cơ quan pháp luật và các biện pháp xử lý
tài sản bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
Bên được bảo lãnh có trách nhiệm phối hợp thực hiện và chấp hành các biện pháp
xử lý của tổ chức tín dụng bảo lãnh, thực hiện bồi hoàn cho tổ chức tín dụng trong trường
hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo lãnh.
1.2 Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh của Ngân
hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm và sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp
Trong một nền kinh tế, doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách
pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường với mục tiêu rõ ràng là tăng giá trị tài
sản cho các chủ sở hữu. Và trong một doanh nghiệp, tình hình tài chính bao giờ cũng
đóng vai trò quan trọng nhất, là xương sống, là cốt lõi cho doanh nghiệp tồn tại và phát
triển.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp vể nguyên tắc được phản ánh trong các báo
cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ ,thuyết minh báo cáo tài chính.Trong đó:
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách tổng
quát tài sản của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá: quy mô và kết cấu tài sản và nguồn
hình thành nên tài sản (cơ cấu tài trợ) của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Bảng
cân đối kế toán mô tả tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng cách thể hiện những thứ
mà nó có và nợ tại một thời điểm, chình vì thế nó được lập vào thời điểm cuối niên độ kế
toán.
Báo cáo kết quả kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một
cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một niên độ kế
toán. Báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về phương thức kinh doanh
của doanh nghiệp trong kỳ và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận
hay gây ra tình trạng lỗ vốn. Đồng thời, nó còn thể hiện tình hình sử dụng vốn, lao động,
kỹ thuật, và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh khái quát
tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp, khả năng chi trả được hay không của doanh
nghiệp, thường được xác định trong thời hạn ngắn (từng tháng). Tình hình ngân quỹ của
doanh nghiệp được phản ánh gồm dòng tiền thực nhập quỹ và dòng tiền thực xuất quỹ.
Nhờ vào báo cáo này nhà phân tích có thể thực hiện cân đối ngân quỹ, xác định được dự
phòng ngân quỹ tối thiểu đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp
Tuy các báo cáo tài chính này phản ánh khái quát tình hình tài chính của doanh
nghiệp nhưng chúng chỉ đơn thuần bao hàm những con số nếu như không được các nhà
phân tích tài chính bằng những phương pháp của mình phân tích, nhận xét, đánh giá. Vì
vậyta rút ra được:
Thẩm định tài chính (hay phân tích tài chính) doanh nghiệp là sử dụng một tập
hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và
các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp,
đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
1.2.2 Phương pháp thẩm định tài chính doanh nghiệp
Có nhiều phương pháp được áp dụng để tiến hành thẩm định tài chính doanh
nghiệp, nhưng phương pháp chủ yếu được dùng trong hầu hết các ngân hàng trên thế giới
và tại Việt Nam là phương pháp “ So sánh ”, trong phương pháp này có nhiều loại hình
so sánh khác nhau:
So sánh giữa số thực hiện trong kỳ với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng
thay đổi về tài chính của doanh nghiệp, thấy được tình hình tài chính được cải thiện hay
xấu đi như thế nào.
So sánh giữa số kế hoạch với số thực hiện để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh
nghiệp.
So sánh số thực hiện kỳ này với mức trung bình ngành để thấy vị trí của doanh
nghiệp, thấy tình hình tài chính doanh nghiệp đang ở tình trạng xấu hay tốt, được hay
chưa so với các doanh nghiệp trong ngành.
So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng số, các tỷ số
quan trọng, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới doanh thu… So sánh theo chiều
ngang để thấy được sự thay đổi cả về số tương đối và số tuyệt đối của một khoản mục
nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
1.2.3 Nội dung thẩm định tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1 Thẩm định các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp
Để đánh giá tình hình hoạt động một doanh nghiệp tính tới thời điểm hiện tại và
dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai thì phương pháp phân tích chỉ số các chỉ tiêu
tài chính doanh nghiệp thường được sử dụng cho dù nó vẫn có những hạn chế nhất định.
Phân tích chỉ số đòi hỏi người phân tích phải đánh giá được sự rằng buộc giữa các khoản
mục trên bảng cân đối kế toán cũng như trên báo cáo kết quả kinh doanh và phải chỉ ra
được sự thay đổi theo thời gian của các chỉ số đã tính. Thêm vào đó, người phân tích phải
căn cứ vào chuẩn mực là những chỉ tiêu trung bình ngành để có thể đưa ra nhận xét cũng
như đánh giá một cách chính xác hoặc có thể đưa ra những chỉ tiêu tài chính được đánh giá
là chuẩn mực để so sánh, hay chọn một doanh nghiệp cùng loại hoạt động kinh doanh có
hiệu quả, có tình hình tài chính tốt để so sánh.
Ta có nhóm chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệplà :
a.Các chỉ số phản ánh khả năng thanh khoản, bao gồm :
Khả năng thanh toán tạm thời: là khả năng chi trả của doanh nghiệp đối với những
khoản nợ tới hạn trong kỳ. Nợ tới hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ dài hạn tới
hạn trả, phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp… Khả năng thanh toán tạm thời được
xác định như sau:
Khả năng thanh toán tạm thời = Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán nhanh: là khả năng thanh toán ngay được các khoản nợ tới
hạn theo yêu cầu của các nhà đầu tư hoặc của chủ nợ mà doanh nghiệp có thể đáp ứng.
Được xác định bằng công thức sau:
Khả năng thanh toán nhanh = Tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
b.Các chỉ tiêu phản ánh hoạt dộng của doanh nghiệp: đo lường mức độ hiệu quả
của việc quản lý tài sản và việc quản lý này ảnh hưởng như thế nào tới các hoạt động
được đo lường bởi doanh số bán. Bao gồm:
Chỉ số vòng quay hàng tồn kho: hàng tồn kho là một loại tài sản dự trữ với mục
đích đảm bảo cho sản xuất được tiến hành một cách bình thường, liên tục và đáp ứng nhu cầu thị
trường. Phương pháp thường được sử dụng để xác định mức tồn kho hợp lý là so sánh mức tồn
kho với giá vốn hàng bán trong năm.
Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Kỳ thu tiền bình quân là chỉ tiêu dùng để đánh giá các khoản phải thu. Chỉ tiêu kỳ
thu tiền bình quân được xác định như sau:
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân ngày
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản
trong kỳ, nó phản ánh một đồng tài sản được đầu tư mang lại mấy đồng doanh thu. Chỉ
tiêu này được xác định như sau:
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu
Tổng tài sản
c.Các chỉ tiêu phải ánh cơ cấu tài chính ( hay đòn cân nợ ): thể hiện chính sách
sử dụng vốn nợ và vốn chủ hợp lý như thế nào trong doanh nghiệp Các chỉ tiêu bao
gồm:
Tỷ số nợ: đo lường sự góp vốn của chủ doanh nghiệp so với số nợ vay. Với tỷ số
nợ càng thấp, hệ số an toàn càng cao thì các món nợ càng được bảo đảm. Ngược lại khi tỷ
số nợ cao thì sự rủi ro trong kinh doanh sẽ càng cao. Tỷ số nợ được xác định như sau
Tỷ số nợ = Tổng số nợ
Tổng số vốn
Hệ số đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay cho biết doanh nghiệp sẵn sàng trả
tiền lãi vay tới mức nào. Hệ số này được xác định như sau:
Hệ số đảm bảo = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
khả năng thanh toán lãi vay Lãi vay phải trả
d.Các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời: là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của một
đồng vốn bỏ ra mang lại bao nhiêu đồng lãi. Chỉ tiêu này bao gồm: doanh lợi doanh thu, hệ
số đo lường khả năng tạo thu nhập cơ bản, ROA (tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản) và ROE
(tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu).
Doanh lợi doanh thu: dùng để đánh giá hoạt động sản xuất – kinh doanh thịnh
vượng hay suy thoái, được tính bằng lấy thu nhập sau thuế chia cho doanh thu.
Doanh lợi = Lợi nhuận sau thuế
doanh thu Doanh thu
Hệ số đo lường khả năng tạo thu nhập cơ bản: đo lường sức mạnh tạo thu nhập cơ
bản của tổng tài sản của doanh nghiệp trước ảnh hưởng của thuế và lãi vay. Chỉ tiêu này
được xác định
Hệ số đo lường = Thu nhập trước thuế và lãi vay
khả năng tạo thu nhập cơ bản Tổng tài sản
ROA: phản ánh sức mạnh tạo thu nhập của tài sản sau thuế và đòn bẩy, được xác định
bằng cách lấy thu nhập sau thuế và lãi vay chia cho tổng tài sản:
ROA = Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản mang lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp càng cao.
ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu): chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn
chủ bỏ ra thu được mấy đồng lợi nhuận ròng. Phương pháp xác định ROE như sau:
ROE = Lợi nhuận ròng
Vốn chủ sở hữu
1.2.3.2 Thẩm định các chỉ tiêu phi tài chính
Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính phản ánh tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh
và năng lực trả nợ của doanh nghiệp qua các năm thì những chỉ tiêu phi tài chính giúp
cán bộ tín dụng đánh giá được liệu doanh nghiệp này có đáng tin cậy không và nó có hoạt
động tốt trong tương lai không. Để góp phần hoàn thiện hơn công tác thẩm định tài chính
doanh nghiệp chúng ta cùng xem xét các chỉ tiêu phi tài chính sau :
Tư cách pháp lý của doanh nghiệp
Là một tiêu chí quan trọng mà các cán bộ tín dụng phải đặc biệt lưu tâm khi tiến
hành thẩm định khách hàng của mình, vì Ngân hàng không thể có quan hệ tín dụng với
một doanh nghiệp mà sự tồn tại và mọi hoạt động của nó không được Pháp luật công
nhận. Nếu đặt quan hệ tín dụng nói chung hay cấp bảo lãnh nói riêng đối với những
doanh nghiệp không có tư cách pháp lý thì rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra, nguy cơ mất vốn
của ngân hàng là khó tránh khỏi, thậm chí còn ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng.
Trình độ, kinh nghiệm và năng lực quản trị của Ban lãnh đạo doanh nghiệp
Ban lãnh đạo là đại diện cho doanh nghiệp, có ảnh hưởng mang tinh quyết định tới
thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Họ là những người đề ra phương hướng phát
triển, chiến lược phát triển, chỉ đạo và điều hành nguồn lực con người, công nghệ,
vốn…trong doanh nghiệp. Do đó, trình độ và kinh nghiệm của Ban lãnh đạo doanh
nghiệp phải được các cán bộ tín dụng quan tâm và lưu ý.
Ngành nghề kinh doanh, thị trường tiêu thụ, mức độ cạnh tranh
- Về ngành nghề kinh doanh: Trong một nền kinh tế, các doanh nghiệp khác nhau
kinh doanh ở các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, cho ra các sản phẩm khác nhau để phục
vụ những đối tượng khách hàng khác nhau. Nếu doanh nghiệp thuộc ngành nghề kinh
doanh được Chính phủ ưu tiên phát triển thì hiển nhiên trong tương lai họ sẽ có nhiều hỗ
trợ ưu đãi, nhiều cơ hội kinh doanh hứa hẹn. Tiềm năng phát triển của những doanh
nghiệp này là rất lớn, khiến Ngân hàng tin tưởng hơn vào khả năng tài chính của doanh
nghiệp, do đó có thể Ngân hàng mạnh dạn hơn khi cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho họ.
- Về thị trường tiêu thụ: Thị trường tiêu thụ là một nơi duy trì hoạt động cho công
ty, mang lại lợi nhuận cho công ty, quyết định sự phát triển của công ty. Khi thẩm định
về thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, chúng ta nên nghiên cứu về quy mô và xu thế
phát triển của thị trường tiêu thụ trong thời gian tới.
- Về mức độ cạnh tranh: Có thể đánh giá doanh nghiệp khi nhìn vào mức độ cạnh
tranh của giai đoạn thị trường mà doanh nghiệp đang duy trì hoạt động. Mức độ cạnh
tranh mà doanh nghiệp đang đối mặt là khốc liệt hay dễ dàng? Các đối thủ cạnh tranh của
doanh nghiệp là ai, so với toàn thị trường thì doanh nghiệp đứng ở vị trí nào? Nguy cơ
doanh nghiệp bị thôn tính ra sao? Phương pháp cạnh tranh của doanh nghiệp là gì (cạnh
tranh theo chất lượng sản phẩm, mẫu mã hay giá cả của sản phẩm)? v.v…Tất cả các tiêu
chí này giúp chúng ta nhận xét được liệu trong tương lai doanh nghiệp có thể phát triển
được không hay sẽ đi vào ngõ cụt và vị thế của doanh nghiệp quá thấp trên thị trường hay
mức độ cạnh tranh trên thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động quá cao.
Uy tín doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng
Một doanh nghiệp khi xây dựng cho mình một “chữ tín” thật tốt cũng có nghĩa là
họ đã đạt được một bước thành công trong sự phát triển của mình. Chữ tín bao gồm :
Quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với Ngân hàng ,quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà
cung cấp, với người tiêu thụ, với khách hàng, với các cơ quan quản lý…
Các chỉ tiêu thể hiện uy tìn của doanh nghiệp: nợ quá hạn trong quá khứ, số lần gia
hạn nợ, số lần chậm trả lãi vay, số lần mất khả năng thanh toán với các chủ nợ khác…
Tài sản bảo đảm
Tài sản bảo đảm là tài sản dùng để tăng sự rằng buộc về thực hiện nghĩa vụ trả nợ
của doanh nghiệp đối với Ngân hàng. Điều này có nghĩa là trước khi cấp tín dụng cho
khách hàng, Ngân hàng sẽ nắm giữ tài sản bảo đảm của họ. Nếu doanh nghiệp không
thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng thì Ngân hàng
sẽ phát mại tài sản bảo đảm để bù đắp vào nghĩa vụ tài chính đó. Chính vì thế tài sản bảo
đảm là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để Ngân hàng quyết định có nên
cấp bảo lãnh hay không.
Thông thường, tài sản bảo đảm được các Ngân hàng định giá thấp hơn nhiều so
với giá thị trường và chỉ cấp bảo lãnh với một tỷ lệ thấp hơn giá trị tài sản đã định giá đó,
nhưng cũng có thể thay đổi tuỳ vào khách hang đó là khách hàng như thế nào ( bạn hàng
lâu dài có uy tín với Ngân hàng thi tỷ lệ cấp bảo lãnh đó có thể rất cao ) Sở dĩ có điều này
là vì Ngân hàng muốn giảm rủi ro tài sản bảo đảm bị xuống giá trong quá trình cấp tín
dụng nói chung và bảo lãnh nói riêng. Hơn thế nữa, Ngân hàng tránh rủi ro phi đạo đức,
tăng trách nhiệm của khách hàng với khoản tín dụng.
Tóm lại, khi đánh giá các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu phi tài chính, cán bộ
Ngân hàng cần kết hợp cả hai chỉ tiêu trên để có được một đánh giá toàn diện nhất .Và
nếu cả hai loại chỉ tiêu trên được đánh giá kỹ lưỡng dựa trên cơ sở nguồn thông tin đáng
tin cậy thì Ngân hàng tránh được phần lớn rủi ro trước khi ra quyết định tài trợ.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp
trong hoạt động cấp bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.3.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng
Quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo ngân hàng và các chính sách liên quan đến
thẩm định tài chính doanh nghiệp
Quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo ngân hàng trong thẩm định tài chính rất quan
trọng và có ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình thẩm định cũng như chất lượng thẩm định
tài chính của doanh nghiệp. Nếu Ban lãnh đạo ngân hàng không coi trọng thẩm định tài
chính thì chất lượng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp sẽ thấp. Ngân hàng có thể coi
trọng tiêu chí khác hơn là thẩm định tài chính nhưng chưa hẳn đã phản ánh tình hình tài
chính của doanh nghiệp một cách hiệu quả và chính xác. Ngược lại, Ban lãnh đạo ngân hàng
chú trọng thẩm định tài chính thì sẽ xây dựng được quy trình thẩm định chặt chẽ và kèm theo
ban hành các chính sách hợp lý để nâng cao chất lượng thẩm định.
Quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của Ngân hàng trong
việc đánh giá, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Việc xây dựng một quy
trình nghiêm ngặt, chặt chẽ, cụ thể từng giai đoạn và đảm bảo tính liên hoàn, tính khoa
học theo một trình tự nhất định giữa các giai đoạn đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Thêm vào đó, quy trình thẩm định phải được xây dựng sao cho phù hợp với từng nhóm
khách hàng, tiết kiệm thời gian cho các bên nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng thẩm
định.
Chất lượng thông tin thu thập
Ngân hàng là trung gian tài chính quan trọng, đối tượng kinh doanh của nó là tiền
tệ, nó hoạt động trong thị trường tài chính đầy sôi động và đầy biến động. Vì thế, thông
tin thu thập về khách hàng được xem là yếu tố hàng đầu không thể thiếu. Thông tin là yếu
tố đầu vào quan trọng trong hoạt động thẩm định tài chính khách hàng để xét cấp tín
dụng Ngân hàng nói chung và cấp bảo lãnh nói riêng. Chất lượng thẩm định phụ thuộc
vào sự đa dạng, phong phú, độ chính xác của thông tin.
Cán bộ thẩm định
Kết quả thẩm định chịu ảnh hưởng của yếu tố chủ quan từ cán bộ thẩm định, thể
hiện ở:
- Số lượng cán bộ thẩm định: Số lượng cán bộ thẩm định có ảnh hưởng trực tiếp
đến áp lực về mặt công việc, do đó ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Vì vậy duy trì
số lượng cán bộ thẩm định hợp lý sẽ giúp công tác thẩm định nhanh chóng chính xác và
dảm bảo hơn.
- Trình độ và kinh nghiệm của cán bộ thẩm định: Nếu cán bộ thẩm định trình độ
và nhận thức hạn chế cũng như kinh nghiệm thiếu về các ngành kinh tế đặc thù thì kết
luận đưa ra sẽ không chính xác, dễ dẫn đến những phán quyết sai lầm trong tương lai của
Ngân hàng.
- Đạo đức của cán bộ thẩm định: Kết quả thẩm định tài chính doanh nghiệp phụ
thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của người thẩm định. Cán bộ thẩm định dù có trình độ
chuyên môn cao đến đâu nhưng bóp méo thông tin hay cố tình hướng những kết quả đánh
giá theo ý chí chủ quan, phục vụ cho lợi ích riêng thì không thể có một kết quả thẩm định tốt,
công bằng, minh bạch được. Do đó, vấn đề đạo đức của cán bộ tín dụng luôn phải đặt lên
hàng đầu.
Cơ sở vật chất phục vụ thẩm định
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đồng thời rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngày càng đa dạng, khó dự đoán, cơ sở vật chất phục vụ thẩm định đòi
hỏi được thường xuyên đổi mới, cải tiến và cập nhật để tiết kiệm thời gian, tăng tiến độ
công việc, tạo thuận lợi thoải mái khi phục vụ khách hàng
1.3.2 Các nhân tố thuộc về khách hàng doanh nghiệp
Tiểu sử tín dụng của khách hang:
Tiểu sử tín dụng của khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá tính
chính trực của khách hàng đó. Sự chính trực của doanh nghiệp được đánh giá căn cứ vào
các tiêu thức như:
- Trong quá khứ, doanh nghiệp đã từng xin cấp tín dụng chưa? Xin của ai (ngân
hàng hay đối tác)? Có trả nợ đúng hạn không?
- Doanh nghiệp đã từng bị phá sản chưa?
- Quan hệ của doanh nghiệp với đối tác có tốt không? Có tạo được uy tín trong
môi trường hoạt động của mình không.
Chất lượng thông tin mà khách hàng cung cấp:
Chất lượng thông tin tài chính mà khách hàng cung cấp phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như nguồn thông tin, thời gian cung cấp và đối tượng cung cấp thông tin. Chất lượng
thông tin phụ thuộc trình độ quản trị tài chính trong doanh nghiệp, trình độ chuyên môn
của cán bộ tài chính trong việc tập hợp, lập, thuyết minh các báo cáo tài chính, đặc biệt là
đạo đức của người cung cấp thông tin tài
Thiện chí của khách hàng khi cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định
Với những thông tin cán bộ tín dụng nhận được từ phía khách hàng, họ cần phải
kiểm tra lại, xác minh tính đúng đắn, tính trung thực, tính chính xác của chúng. Để tiến
hành công tác này thì cán bộ tín dụng ngoài việc căn cứ vào tính hợp pháp của các loại
giấy tờ, có thể là đi thực tế để thẩm định, xác minh thông tin. Trong các chuyến đi thực tế
này, thái độ thiện chí của khách hàng khi tạo mọi điều kiện, cung cấp đầy đủ các hồ sơ
giấy tờ theo yêu cầu của cán bộ tín dụng thì khách hàng càng dễ dàng chiếm được thiện
cảm, xây dựng được lòng tin từ phía Ngân hàng. Thêm vào đó chất lượng thẩm định tài
chính của Ngân hàng càng được nâng cao.
1.3.3 Các nhân tố khác
Chính sách kinh tế và định hướng phát triển của Nhà nước
Các chính sách kinh tế và định hướng phát triển của Nhà nước có ảnh hưởng đến
khả năng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. Dựa vào đó mà Ngân hàng có thể
ưu tiên phục vụ một số nhóm khách hàng doanh nghiệp nhất định, nắm bắt cơ hội phát
triển cho Ngân hàng.
Nếu cán bộ thẩm định không đánh giá được những thay đổi trong chính sách của
Nhà nước có thể đưa đến những kết luận không chính xác về tiềm năng cũng như năng
lực tài chính của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai. Mặt khác nếu các văn bản
pháp luật có những quy định không rõ ràng hoặc không đồng bộ sẽ tạo ra khe hở, dẫn đến
tình trạng “lách luật” trong kinh doanh, sẽ gây khó khăn hoặc sai lầm trong công tác
thẩm định tài chính.
Tình hình tăng trưởng kinh tế
Một nền kinh tế tăng trưởng ổn định thì những dự đoán của người thẩm định về
doanh nghiệp sẽ có khả năng sát với thực tế hơn, rủi ro về thị trường của doanh nghiệp co
thể ít hơn.Và kết quả thẩm định tài chính của doanh nghiệp thuộc ngành phát triển ổn
định thường chính xác hơn của một doanh nghiệp thuộc ngành có nhiều biến động.
Hệ thống cung cấp thông tin kinh tế
Nguồn thông tin luôn được xem là yếu tồ đầu vào quan trọng quyết định đến chất
lượng thẩm định tài chính. Vì vậy, để thẩm định tài chính đạt chất lượng tốt, đáng tin cậy
thì nguồn thông tin phải phong phú với chất lượng cao. Như vậy, Ngân hàng phải xây
dựng được hệ thống thông tin đa dạng, nhiều chiều.
Sự phát triển khoa học kỹ thuật
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật sẽ ảnh hưởng thời gian và chất lượng của công
tác thẩm định. Với trang thiết bị hiện đại, Ngân hàng có thể cập nhật được thông tin
nhanh chóng, xử lý kịp thời chính xác và lưu trữ, bảo quản thông tin được lâu dài, an
toàn. Nhờ đó, cán bộ tín dụng có thể đánh giá tình hình tài chính của khách hàng một
cách kịp thời, chính xác không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
* Sự cạnh tranh từ các ngân hàng đối thủ
Thị trường ngân hàng ở Việt Nam hiện nay là rất tiềm năng, theo con số thống kê,
lượng người sử dụng ngân hàng ở Việt Nam tăng từ 1,2 triệu năm 2004 lên khoảng 10
triệu năm 2007 (xấp xỉ 12% dân số) và tăng lên 25 triệu vào năm 2009 thêm vào đó việc
mở cửa thị trường tài chính sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã mang lại nhiều tiềm
năng phát triển to lớn cho ngành ngân hàng. Bên cạnh đó sự cạnh tranh gay gắt giữa các
ngân hàng trong nước với nhau, cạnh tranh giữa các ngân hàng nước ngoài và cạnh tranh
giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Nhờ sức ép của sự cạnh tranh này,
các ngân hàng đã không ngừng cải thiện chất lượng phục vụ nói chung, đồng thời nới
lỏng điều kiện tín dụng, giảm thủ tục cũng như thời gian thẩm định. Việc này có ảnh
hưởng rât lớn đến chất lượng thẩm định, đòi hỏi các cán bộ tín dụng làm việc thật sự
nghiêm túc và tuân thủ chặt chẽ quy trình tránh rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
1.2.4 Đặc điểm công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo
lãnh
Hoạt động bảo lãnh là một trong bốn nghiệp vụ tín dụng cơ bản và quan trọng của
ngân hàng thương mại. Vì vậy, công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động bảo lãnh vừa mang những đặc điểm giống trong các hoạt động tín dụng khác, vừa
mang những đặc điểm riêng.
Phân tích tài chính khách hàng là phân tích các báo cáo tài chính mà khách hàng
cung cấp, các cán bộ tín dụng trong ngân hàng ước lượng nhu cầu tài chính của khách
hàng xin tài trợ, đánh giá khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính với ngân hàng của khách,
ước lượng thiệt hại có thể có, nếu khách hàng không thực hiện đúng với hợp đồng bảo
lãnh và quyết định các điều khoản tài trợ nếu cấp bảo lãnh. Cán bộ tín dụng căn cứ vào
các báo cáo tài chính được cung cấp để tiến hành đánh giá, thẩm định, phân tích một cách
toàn diện, chính xác, khách quan song không thể lệ thuộc vào các thông tin đó. Bởi số
liệu báo cáo trong quá khứ có thể không còn chính xác với thực tế, số liệu chưa được
kiểm toán, số liệu không xác thực với thực tế…
Tuy nhiên, bảo lãnh có những đặc điểm riêng khác với cho vay, leasing hay L/C vì
vậy công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong nghiệp vụ bảo lãnh mang những đặc
điểm riêng. Với dịch vụ bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp, khách hàng doanh nghiệp có
thể chọn hình thức kỹ quỹ hay đặt cọc theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so với giá trị
hợp đồng kinh tế. Do đó, mức độ thẩm định tài chính với các hợp đồng bảo lãnh có tỷ lệ
đặt cọc khác nhau là khác nhau.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP BẢO LÃNH TẠI
NGÂN HÀNG TNCP QUÂN ĐỘI
2.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Quân Đội
Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB) có Trụ sở chính tọa lạc tại số 3 Liễu Giai, Ba
Đình, Hà Nội, trải qua 14 năm hoạt động, MB luôn khẳng định vị trí dẫn đầu trên thị
trường tài chính ngân hàng Việt Nam.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của MB bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng;
Kinh doanh ngoại hối; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác;
Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo
quy định của NHNN Việt Nam.
Gắn liền với phương châm hoạt động “Vững vàng – Tin cậy”, bên cạnh việc gắn
bó với khối khách hàng truyền thống, MB không ngừng mở rộng cung cấp các sản phẩm
dịch vụ đến mọi đối tượng khách hàng thuộc nhiều thành phần kinh tế và góp sức vào
nhiều công trình lớn của đất nước như Nhà máy Thuỷ điện Hàm Thuận-Đa mi, cảng Hàng
không Nội Bài, Tân Sơn Nhất
Tính đến cuối năm 2007, vốn điều lệ của MB đã đạt 1547,2 tỷ đồng, trong đó có
hơn 4.000 cổ đông pháp nhân và thể nhân, thể hiện sự đa dạng hoá trong sở hữu của MB.
Ngay từ quý I năm 2007 tổng số vốn huy động đã đạt 12.343 tỷ đồng. Tổng tài sản đạt
15159 tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2006, dư nợ đạt 7000 tỷ đồng. Tỷ lệ lợi tức trên vốn
cổ phần của MB luôn dẫn đầu trong khối các ngân hàng TMCP .
Hiệu quả hoạt động của MB luôn được các cơ quan quản lý, đối tác cũng như khách
hàng đánh giá cao. Liên tục được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A và trao tặng nhiều
bằng khen cho những thành tích xuất sắc; nhiều năm liền nhận được các giải thưởng
thanh toán quốc tế do các ngân hàng uy tín quốc tế trao tặng như HSBC, Standard
Chatered Bank, UBOC; được người tiêu dùng bình chọn là Thương hiệu mạnh liên tục
trong ba năm liền 2005 -2006 và 2007; đạt cúp vàng Top ten thương hiệu Việt, ngành
hàng: Ngân hàng – tài chính năm 2006; …và nhiều giải thưởng có uy tín, giá trị khác.
Các sản phẩm dịch vụ của MB không ngừng được đa dạng hoá theo hướng hoàn thiện
và phát huy dịch vụ truyền thống kết hợp với phát triển các dịch vụ hiện đại như, hệ
thống thanh toán qua thẻ, Mobile Banking, Internet Banking. Dịch vụ của MB liên tục
được cải thiện, mang lại cho khách hàng không những hiệu quả cao về tài chính mà còn
cả sự yên tâm tuyệt đối.
Song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, MB đặc biệt chú trọng
mở rộng mạng lưới kênh phân phối tại các khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước. Hiện
nay, MB đang có 60 điểm giao dịch trên khắp đất nước, đặt quan hệ đại lý với gần 600
ngân hàng trên thế giới để hợp tác cung cấp các dịch vụ ngân hàng toàn cầu. Nhận thức
được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của Ngân hàng, hàng năm, hàng
ngàn lượt cán bộ, nhân viên chủ chốt của MB đã được cử đi đào tạo trong và ngoài nước.
Trong vòng từ năm 2005 đến cuối năm 2007, gần 1000 cán bộ, nhân viên đã được MB
tuyển dụng vào làm việc tại Ngân hàng. Bởi vậy, hiện nay hơn 2.000 cán bộ, nhân viên
đang cống hiến và làm việc tại Ngân hàng với những chính sách, chế độ đãi ngộ thoả
đáng.
Cùng với số lượng nhân viên trẻ, dồi dào và có chuyên môn hoá cao, MB đang
phát triển trở thành ngân hàng đa năng với việc thành lập các công ty chứng khoán Thăng
Long, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty Quản lý quỹ đầu tư Hà nội, tham
gia góp vốn đầu tư các công ty trực thuộc đã hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận và tạo lập
được uy tín trên thị trường. Công tác quản trị rủi ro được đặt lên hàng đầu nhằm đưa ra
các giải pháp tổng thể để giảm thiểu rủi ro không chỉ cho Ngân hàng mà cho cả khách hàng.
MB luôn đảm bảo tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế và tỷ lệ nợ xấu ở mức hợp lý.
2.1Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Quân Đội - MB
2.1.1 Tình hình hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân Đội
Trải qua 14 năm từ ngày thành lập, Ngân hàng TMCP Quân đội đã không ngừng
hoàn thiện và phát triển. Ngân hàng TMCP Quân Đội đã đạt được những mốc son trong
sự nghiệp phát triển của mình.
a. Năm 2004: Ngân hàng Nhà nước cơ cấu lại hoạt động của mình và của các
Ngân hàng thương mại theo hướng tăng cường cơ chế giám sát từ xa. Bên cạnh đó, đi
kèm với tăng trưởng kinh tế cao là lạm phát vượt quá chỉ tiêu do Quốc hội đề ra buộc
Ngân hàng Nhà nước bình ổn tỷ giá, thắt chặt tín dụng và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm
lãi suất cơ bản. Tất cả những sự kiện này khiến MB đối mặt với thách thức nhiều hơn là
cơ hội. Tuy vậy, bằng hướng tư duy kinh doanh đúng đắn, năm 2004 đánh dấu nhiều
thành công của Ngân hàng. Tổng nguồn vốn huy động được năm 2004 là 4933 tỷ đồng,
trong đó huy động từ thị trường dân cư là hơn2.224 tỷ, từ thị trường các tổ chức kinh tế là
hơn 2.709 tỷ đồng.
Hoạt động tín dụng:
- Doanh số cho vay toàn hệ thống năm 2004 đạt 3921 tỷ đồng, tăng 32% so với
năm 2003
- Thu nhập thuần từ tiền lãi đạt 105.39 tỷ đồng, tăng 45.4% so với năm 2003