Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.72 KB, 82 trang )

1
Lời nói đầu
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
quan trọng. Cùng với tiến trình đổi mới kinh tế và đặc biệt khi nước ta lại vừa
gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO), hệ thống tài chính- tiền tệ của Việt
Nam đã và đang phát triển rất mạnh mẽ. Và trong hệ thông tài chính-tiền tệ đó
thì NHTM là một mắt xích quan trọng với tư cách là kênh dẫn vốn cho nền kinh
tế. NHTM đã có những đóng góp rất to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế
thông qua việc tài trợ cho các dự án, trong đó có những dự án rất quan trọng đối
với sự phát triển của đất nước. Đối với ngân hàng tài trợ dự án là hoạt động
mang lại lợi nhuận cao song cũng chứa đựng nhiều rủi ro (do quy mô lớn, thời
gian dài…). Để hạn chế rủi ro, hướng tới mục tiêu an toàn và sinh lời, các
NHTM tiến hành việc thẩm định các dự án thông qua hoạt động thực tiễn của
mình, họ ngày càng ý thức được tầm quan trọng của việc thẩm định dự án trước
khi ra quyết định tài trợ.
Thẩm định dự án có rất nhiều nội dung (thẩm định về phương diện thị
trường, thẩm định về phương diện tài chính…) trong đó thẩm định dự án về mặt
tài chính luôn được coi là trọng tâm, có lẽ bởi nó gần với lĩnh vực chuyên môn
của Ngân hàng nhất và nó cũng trả lời câu hỏi mà Ngân hàng quan tâm nhất là
khả năng trả nợ của khách hàng. Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNT Hà
Nội, em nhận thấy hoạt động thẩm định tài chính của ngân hàng đã có nhiều cải
tiến, song nếu được bổ sung hoàn thiện thêm 1 số biện pháp hợp lý thì hiệu quả
đạt được càng cao góp phần giảm thiểu đáng kể rủi ro trong hoạt động đầu tư dự
án. Vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác thẩm định tài
chính dự án tại NHNT Hà Nội” làm đề tài tốt nghiệp của mình.

2
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận gồm
3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thẩm định tài chính dự án trong hoạt động
cho vay tại các NHTM


Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh
NHNT Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện công tác thẩm
định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội
Em xin chân thành cám ơn cô giáo hướng dẫn Ths Phan Thị Hạnh và các
cán bộ phòng Quan hệ khách hàng, tổ Thẩm định dự án Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em
mong sẽ nhận được các ý kiến đóng góp để bài viết được hoàn thiện hơn.

3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ
ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CÁC NHTM
1.1. Khái niệm chung về dự án
1.1.1. Dự án và vai trò của dự án
Đầu tư là một nhu cầu thiết yếu đối với mỗi nền kinh tế. Đầu tư là hoạt
động hy sinh các nguồn lực (tiền, tài sản có sẵn, thời gian, công sức…) vào một
hoạt động nào đấy, trong một thời gian nhất định để đạt được lợi ích (tiền, lợi ích
xã hội…). Đặc điểm của hoạt động đầu tư là: quyết định đầu tư là một quyết
định tài chính, phải được cân nhắc về tính khả thi của nó, cân nhắc giữa những gì
phải bỏ ra và những kết quả kỳ vọng, và một đặc điểm rất quan trọng nữa là đầu
tư mang tính rủi ro. Tính rủi ro của đầu tư bắt nguồn từ bản chất của hoạt động
đầu tư là hy sinh nguồn lực ở hiện tại để kỳ vọng những lợi ích ở tương lai dài
hạn. Vì thế để thực hiện đầu tư và đầu tư có hiệu quả cao nhất đòi hỏi phải có sự
chuẩn bị chu đáo, dự tính và lên kế hoạch cho các giai đoạn đầu tư cụ thể. Sự
chuẩn bị này được thực hiện thông qua việc soạn thảo các dự án. Vậy dự án là
gì?
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau trong cách định nghĩa dự án, đó
là:
- Dự án là một hệ thống các thuyết minh, được trình bày một cách chi tiết,

có luận cứ về các giải pháp sử dụng nguồn lực để đạt mục tiêu cao nhất trong
chủ trương đầu tư.

4
- Dự án là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch
hoá nhằm đạt được mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong
một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực nhất định.
- Dự án là một tập hợp những đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng
vốn, kết quả thu được trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ
thể để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống
Trong chuyên đề này, khái niệm về dự án sẽ được hiểu như sau: "dự án là
một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và
chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội
hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đạt được những kết quả nhất định và
thực hiện được những mục tiêu xác định trong tương lai lâu dài"
Dự án có vai trò rất quan trọng đối với chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác
động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có dự án, nền
kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển. Những công trình thế kỷ của nhân
loại trên thế giới luôn là những minh chứng về tầm quan trọng của dự án. Dự án
là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và
theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. Dự án là căn cứ để các tổ chức tài chính đưa
ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy
phép đầu tư. Do vậy, hiểu được những đặc điểm của dự án là một trong những
yếu tố quyết định sự thành công của dự án.
1.1.2. Đặc điểm của dự án
Xuất phát từ khái niệm dự án, có thể nhận biết những đặc điểm cơ bản sau
đây của dự án:

5
• Dự án không chỉ là một ý tưởng hay phác thảo mà còn hàm ý hành động

với mục tiêu cụ thể. Nếu không có hành động thì dự án chỉ vĩnh viễn tồn tại ở
trạng thái tiềm năng.
• Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng mà phải
nhằm đáp ứng một nhu cầu cụ thể đã được đặt ra, tạo nên một thực tế mới.
• Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn. Môi trường triển
khai dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong
quá trình thực hiện dự án rủi ro thường là có thể xảy ra. Đặc điểm này có ảnh
hưởng rất lớn đến mức độ thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của
các nhà quản lý dự án.
• Dự án bị khống chế bởi thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc thù
phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất cơ
hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh
tế.
• Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực. Thông thường, các dự án bị ràng
buộc về vốn, vật tư, lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn, mức độ ràng
buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp; mọi quyết định liên quan đến các
vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối nhiều mối quan
hệ, chẳng hạn: chủ đầu tư, nhà tư vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ, nhân công, các
nhà kỹ thuật …Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần đạt tới
mục tiêu của dự án.
Một dự án sẽ thành công nếu các đặc điểm của dự án được các nhà quản lý
dự án nhận biết và đánh giá một cách đúng đắn.
1.1.3. Phân loại dự án đầu tư

6
Trên thực tế, các dự án rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô thời hạn
và được phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Chẳng hạn có thể phân loại các
dự án đầu tư theo các tiêu thức sau:
- Theo cơ cấu tái sản xuất: Dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư
theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Trong đó dự án đầu tư chiều

rộng thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian
cần hoạt động để thu hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm
cao. Còn dự án đầu tư theo chiều sâu thường đòi hỏi khối lượng mạo hiểm thấp
hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội: Dự án đầu tư có thể phân chia
thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển khoa
học kỹ thuật, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội)…, hoạt
động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ tương hỗ với nhau. Chẳng
hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện
cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn các dự
án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho các
dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư
khác.
- Theo các giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái
sản xuất xã hội: Có thể phân loại các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh
thành dự án đấu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất. Dự án đầu tư thương
mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết
quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định không cao lại dễ dự
đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án
đầu tư có thời hạn hoạt động dài hạn (5, 10, 20 năm hoặc lâu hơn), vốn đầu tư

7
lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ
thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất động trong tương lai không
thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu
ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định
về chính trị…)
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ
ra: Ta có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn và dự án
đầu tư dài hạn.

- Theo sự phân cấp quản lý dự án: tuỳ theo tầm quan trọng và quy mô của
dự án, dự án đầu tư được chia thành 4 nhóm: Dự án quan trọng quốc gia (do
Quôc hội quyết định chủ trương đầu tư), dự án nhóm A, dự án nhóm B, dự án
nhóm C. Đối với các dự án đầu tư nước ngoài được chia thành 3 nhóm: dự án
nhóm A, dự án nhóm B và các dự án phân cấp cho các địa phương.
- Theo cấp độ nghiên cứu gồm 2 loại dự án tiền khả thi và dự án khả thi.
Dự án tiền khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi (giai đoạn sơ
bộ lựa chọn dự án). Nội dung của dự án tiền khả thi còn sơ bộ chưa chi tiết. Kết
quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá lại cơ hội đầu tư để lựa
chọn quyết định có nên chuyển sang giai đoạn tiếp theo không. Dự án khả thi là
kết quả của giai đoạn nghiên cứu khả thi. Nội dung của dự án khả thi chi tiết,
mức độ chính xác cao. Nó là căn cứ để chủ đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền
của nhà nước ra quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu tư.
- Theo nguồn vốn: dự án đầu tư bằng nguồn ngân sách Nhà nước, dự án
đầu tư bằng nguồn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín dụng cho
nhà nước bảo lãnh, dự án đầu tư bằng nguồn vốn huy động của doanh nghiệp và
các nguồn vốn khác, dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗn hợp.

8
1.2. Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM
1.2.1. Khái niệm thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của
NHTM
Như ta đã biết dự án là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm soạn thảo
trong bước nghiên cứu khả thi. Mặc dù trong dự án đã đề cập tất cả các khía
cạnh liên quan đến hoạt động đầu tư một cách khá đầy đủ và chi tiết nhưng dẫu
sao nó cũng không tránh khỏi tính chủ quan của người lập dự án và những
khiếm khuyết, lệch lạc còn tồn tại trong quá trình lập dự án là lẽ đương nhiên.
Để khẳng định được một cách chắc chắn hơn mức độ hợp lý và hiệu quả, tính
khả thi của dự án cũng như quyết định đầu tư thực hiện dự án, cần xem xét,
kiểm tra lại dự án một cách độc lập với quá trình chuẩn bị, soạn thảo dự án, hay

nói cách khác cần thẩm định dự án. Thẩm định dự án được tiến hành chủ yếu
đối với giai đoạn xác định dự án, phân tích và lập dự án, duyệt dự án. Nội dung
thẩm định dự án thường bao gồm: thẩm định kỹ thuật, thẩm định kinh tế xã hội
và thẩm định tài chính.
Trên phương diện tài trợ vốn cho các dự án, các ngân hàng thương mại
hoặc tổ chức tài chính-tín dụng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, qua thẩm định
dự án sẽ khẳng định được tính hiệu quả và an toàn của việc đầu tư. Nhờ đó mà
tổ chức tài chính -tín dụng có được cơ sở vững chắc trong quá trình quyết định
tài trợ vốn. Là người tài trợ cho dự án, NHTM đặc biệt quan tâm nhiều đến khả
năng hoàn trả vốn và sinh lời của dự án, chính vì thế thẩm định dự án về mặt tài
chính luôn được Ngân hàng đặt lên hàng đầu trong danh sách các nội dung cần
thẩm định.
Như vậy thẩm định tài chính là một nội dung lớn và quan trọng trong thẩm
định dự án. Thẩm định tài chính dự án là rà soát lại, đánh giá một cách khoa học

9
và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư:
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế , các cá nhân. Nếu như Chính phủ, các cơ
quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều tới hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thì các
nhà đầu tư lại quan tâm nhiều hơn tới khả năng sinh lãi của dự án. Cùng với
thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có những thông tin
cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
1.2.2. Sự cần thiết của thẩm định tài chính dự án đối với NHTM
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ - một lĩnh vực rất nhạy cảm của nền kinh tế. Ngân hàng dùng tiền của người
khác để kinh doanh bằng cách cung cấp các khoản tín dụng cho những người có
nhu cầu. Một trong những hoạt động tín dụng của Ngân hàng là tài trợ cho các
dự án. Cho vay theo dự án là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển, đổi
mới hoạt của các NHTM. Rủi ro của loại hình tín dụng này nói chung là cao
song lợi nhuận lại rất lớn. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của công tác

thẩm định dự án đầu tư nên các NHTM cần phải tiến hành thẩm định dự án.
Thẩm định dự án là công việc hết sức quan trọng trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại. Bởi lẽ một dự án đầu tư thường đòi hỏi nhu cầu vốn
lớn, thời gian dài, quá trình thực hiện đầu tư phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn,
nhiều công việc theo một trình tự nhất định và cũng đòi hỏi công tác quản lý
phức tạp. Hơn nữa dự án đầu tư là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm soạn
thảo trong bước nghiên cứu khả thi nên còn mang nhiều tính chủ quan.Chính
những điều này đòi hỏi dự án đầu tư nhất thiết phải trải qua một quá trình thẩm
định kỹ càng.

10
Thẩm định dự án không chỉ quan trọng đối với bản thân ngân hàng, các tổ
chức tài chính-tín dụng mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối với các chủ đầu tư và
các cơ quan quản lý Nhà nước.
Đối với chủ đầu tư, với tư cách người lập dự án thì đương nhiên chủ đầu
tư sẽ biết rất rõ và tỷ mỷ về dự án đã trình. Tuy nhiên trên thực tế chủ đầu tư có
rất nhiều dự án khác nhau trong cùng một giai đoạn và họ sẽ gặp khó khăn trong
việc lựa chọn dự án. Doanh nghiệp tuy nắm vững được những vấn đề cụ thể
thuộc phạm vi dự án nhưng đôi khi khả năng thu thập, nắm bắt thông tin mới của
chủ đầu tư lại bị hạn chế, nhất là tình hình khu vực và quốc tế, những xu hướng
kinh tế ,chính trị xã hội…Bên cạnh đó, một dự án dù được tiến hành soạn thảo
kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo mà họ
thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận vấn đề của dự án… Những điều này
làm tăng rủi ro, giảm tính chính xác trong phán đoán của người soạn thảo. Việc
thẩm định dự án được tiến hành độc lập với quá trình soạn thảo dự án cho phép
chủ đầu tư nhìn nhận lại dự án của mình một cách khách quan hơn để phát hiện
được những thiếu sót trong quá trình sọan thảo và bổ sung kịp thời, từ đó giúp
chủ đầu tư chọn được phương án tối ưu nhất, xác định các mặt lợi, mặt hại khi
đưa dự án vào vận hành.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng,

mục đích thẩm định dự án là nhằm đánh giá được tính phù hợp của dự án đối với
quy hoạch phát triển chung của ngành, của địa phương và của cả nước trên các
mặt : mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả. Tất cả các dự án đầu tư thuộc
mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của
đất nước, bởi vậy, trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép đầu tư, các Cơ
quan có thẩm quyền của Nhà nước cần biết xem dự án đó có góp phần đạt được

11
mục tiêu của Quốc gia hay không, nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ
nào…Đồng thời việc thẩm định giúp xác định tính lợi hại và sự tác động của dự
án khi đi vào hoạt động trên các khía cạnh như: ứng dụng công nghệ mới, trình
độ sử dụng vốn, ô nhiễm môi trường cũng như các lợi ích kinh tế xã hội mà dự
án đem lại.
Đối với bản thân ngân hàng và các tổ chức tài chính – tín dụng thì thẩm
định đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của tín dụng là có
nên cho vay hay không và cho vay như thế nào.Thông qua kết quả thẩm định cán
bộ thẩm định có thể rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh
tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án để ra quyết định
đồng ý hay từ chối cho vay.
Thẩm định dự án còn góp phần nâng cao tính khả thi của dự án, bởi lẽ
thông qua những thông tin và kinh nghiệm đã đúc kết được trong quá trình thẩm
định nhiều dự án khác nhau, ngân hàng thương mại chủ động tham gia góp ý với
chủ đầu tư nhằm bổ sung điều chỉnh những nội dung còn thiếu sót trong dự án
giúp cho chủ đầu tư giảm thiểu rủi ro đảm bảo hiệu quả cũng như tính khả thi
của dự án.
Thông qua quá trình thẩm định ngân hàng sẽ có cơ sở để kiểm tra việc sử
dụng vốn đúng mục đích và tiết kiệm vốn.Thẩm định cũng tạo ra cơ sở tương đối
vững chắc để ngân hàng xác định số tiền vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp
lý, đảm bảo vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, vừa có
khả năng thu hồi vốn đúng hạn.

Thẩm định một dự án có rất nhiều nội dung, tuy nhiên mối quan tâm của
Ngân hàng là khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn của khách hàng, đồng thời
Ngân hàng có thế mạnh chuyên sâu về lĩnh vực tài chính cho nền thẩm định dự
án về mặt tài chính được Ngân hàng chú trọng hơn cả.

12
Việc thẩm định tài chính dự án sẽ giúp cho Ngân hàng đánh giá được mức
độ khả thi của các dự án và ra quyết định: có tài trợ không? tài trợ dự án nào?
quy mô tài trợ bao nhiêu, thời gian, lãi suất, quá trình giải ngân, quản lý và thu
hồi nợ như thế nào. Như vậy thẩm định nhất là thẩm định tài chính dự án là cần
thiết, nó là một bộ phận của công tác quản lý nhằm đảm bảo hoạt động cho vay
có hiệu quả, mặt khác cũng không bỏ mất các cơ hội đầu tư.
Tóm lại, để đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời, NHTM nhất thiết phải
thực hiện thẩm định tài chính dự án trước khi ra quyết định tài trợ.
1.2.3. Nội dung của thẩm định tài chính dự án
1.2.3.1. Dự toán vốn đầu tư
Đây là nội dung quan trọng đầu tiên cần xem xét khi tiến hành thẩm định
tài chính dự án. Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan
trọng đối với tính khả thi của dự án : nếu vốn đầu tư dự tính quá thấp thì dự án
có thể bị đổ vỡ do công trình không thể đưa vào thực hiện được, ngược lại nếu
dự tính quá cao thì không phản ánh được chính xác hiệu quả tài chính của dự án.
Tổng mức vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư và xây dựng (kể cả vốn sản
xuất ban đầu) và là giới hạn chi phí tối đa của dự án được xác định trong quyết
định đầu tư.
Tổng mức vốn đầu tư được xác định dựa trên cơ sở năng lực sản xuất theo
thiết kế, khối lượng các công tác chủ yếu và sản xuất đầu tư, giá chuẩn hay đơn
giá tổng hợp do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Hiện nay tổng mức vốn đầu tư được chia ra thành ba loại: Vốn cố định ,
vốn lưu động ban đầu và vốn đầu tư dự phòng.
 Tính toán về vốn cố định:


13
Vốn cố định bao gồm toàn bộ chi phí có liên quan đến việc hình thành tài
sản cố định từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư và giai
đoạn kết thúc xây dựng dự án vào sử dụng cụ thể: chi phí chuẩn bị, giá trị nhà
xưởng và kết cấu hạ tầng sẵn có được sử dụng cho dự án, chi phí xây dựng mới
hoặc cải tạo nhà xưởng cũng như kết cấu hạ tầng, chi phí mua máy móc thiết
bị ,dụng cụ sản xuất phương tiện vận tải, chi phí chuyển giao công nghệ, chi phí
đào tạo cán bộ và các chi phí khác.
 Tính toán về vốn lưu động:
Vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho việc dự trữ các
tài sản lưu động nhằm đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của dự án. Chỉ có vốn lưu
động ban đầu (cho chu kỳ sản xuất đầu tiên của doanh nghiệp) mới được tính
vào vốn đầu tư bao gồm:
Vốn sản xuất: Chi phí nguyên liệu, điện nước, phụ tùng, bao bì, tiền
lương…
Vốn lưu thông: Sản phẩm dở dang, tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng
hóa bán chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị…
 Dự phòng vốn đầu tư:
Do trong nền kinh tế giá cả nguyên vật liệu luôn biến động bên cạnh đó
trong quá trình thi công công trình có thể gặp phải những rủi ro về kỹ thuật hoặc
nảy sinh các chi phí bất thường nên cần phải dự trù một khoản dự phòng để sẵn
sàng ứng phó với những bất trắc có thể xảy ra.
Ngoài ra trong việc thẩm định, ngân hàng cần phải quan tâm đến cơ cấu
vốn đầu tư bằng ngoại tệ, nội tệ để từ đó xác định nguồn ngoại tệ nào sẽ đảm
bảo cho dự án được thực hiện.
Tùy theo từng dự án chỉ có vốn lưu động (dự án ngắn hạn), song các dự
án phức tạp thường bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động, sai lầm hay mắc

14

phải của các chủ đầu tư khi xây dựng dự án làchủ dự án không tính toán đầy đủ
vốn lưu động hoặc không được tính .
Căn cứ vào bảng dự trừ vốn, ngân hàng kiểm tra mức vốn đầu tư cho các
hạng mục, tính toán tổng vốn đầu tư sát với nhu cầu thực tế. Điều đặc biệt có ý
nghĩa quan trong thẩm định toàn bộ nội dung về tài chính là cán bộ thẩm định
phải đảm bảo tính chính xác, hợp lý và độ tin cậy của các số liệu đưa vào tính
toán chứ không nên căn cứ vào số liệu sẵn có trong dự án một cách máy móc rập
khuôn như tính toán lại các phép tính mà chủ đầu tư đã làm. Sau khi thẩm định
vốn đầu tư cuả dự án, Ngân hàng tiến hàng so sánh với dự tính ban đầu khi phê
duyệt dự án, giải thích chênh lệch nếu có.
Phương pháp dự toán bao gồm phương pháp dự báo theo tỷ phần doanh
thu và phương pháp dự toán tổng thể. Phương pháp dự báo theo tỷ phần doanh
thu thường được áp dụng đối với các dự án nhỏ, gắn kết trực tiếp với hoạt động
thường ngày của doanh nghiệp còn phương pháp dự toán tổng thể áp dụng đối
với các dự án lớn có thể được xem như doanh nghiệp có tính “độc lập cao”.
Các phương thức tài trợ cho dự án thông thường bao gồm tài trợ bằng vốn
chủ sở hữu, tài trợ bằng nợ, tài trợ bằng leasing và tài trợ kết hợp.
• Tài trợ dự án bằng vốn tự có:
- Phát hành cổ phiếu: doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu để tài trợ
cho dự án. Có 2 loại là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Các cổ đông nắm giữ
cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công ty, do đó họ có quyền đối với
tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập của công ty. Cổ tức của cổ phiếu
thường phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của dự án. Cổ phiếu ưu tiên
thường chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu
ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người chủ của cổ phiếu này

15
có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả
cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ
tức của kỳ đó.

- Thặng dư vốn: Thặng dư vốn là khái niệm chỉ chênh lệch giữa giá thị
trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó ở thời điểm phát hành
- Thu nhập giữ lại: trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện
thuận lợi để gia tăng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ thu nhập giữ lại để tái
đầu tư, tài trợ cho các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây là phương thức tài trợ có nhiều ưu điểm, giảm được chi phí, giảm bớt sự
phụ thuộc vào bên ngoài nên được nhiều doanh nghiệp rất coi trọng.
• Tài trợ cho dự án bằng nợ:
- Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng là một nguồn vay quan trọng đối với
các chủ đầu tư. Ngân hàng cung cấp các khoản tài chính rất đa dạng như ngắn
hạn, trung hạn, dài hạn với lãi suất cố định hay biến đổi. Tuy nhiên, nguồn vốn
này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng,
điều kiện đảm bảo tiền vay, sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn.
- Tín dụng thương mại: Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong
quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Đây là một phương thức
tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh đồng thời tạo khả năng mở
rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên nếu quy mô
tài trợ quá lớn thì mức độ rủi ro cũng rất cao.
- Phát hành trái phiếu: các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để tài
trợ cho các dự án mới. Việc phát hành trái phiếu mang lại cho dự án nguồn tài

16
chính dài hạn tuy nhiên không phải dự án nào cũng có thể sử dụng phương thức
tài trợ này vì đòi hỏi chi phí phát hành lớn và uy tín của chủ thể phát hành.
• Tài trợ thông qua đi thuê: Thay vì vay vốn cũng có thể thuê thiết bị nhà
máy hoặc thậm chí các đơn vị sản xuất hoàn chỉnh, nói cách khác các tài sản sinh
lợi được mượn. Đổi lại, người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản
tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng đó.
Mỗi phương thức tài trợ đều có những đặc trưng riêng và có ảnh hưởng

chi phối tới việc xác định dòng tiền phù hợp và lựa chọn lãi suất chiết khấu.
1.2.3.2. Dự tính các dòng tiền của dự án
Sau khi thẩm định tổng mức vốn đầu tư, bước tiếp theo của quá trình thẩm
định là thẩm định dòng tiền cuả dự án để tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính
của dự án.Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ
vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án.
Dòng tiền ròng của dự án là mức chênh lệch giữa khoản thu và chi. Đây là vấn
đề các ngân hàng thương mại đặc biệt quan tâm vì khả năng trả nợ vay của dự án
phụ thuộc rất lớn vào kết quả kinh doanh hàng năm của chủ đầu tư. Chính vì vậy
việc thẩm định về chi phí sản xuất, doanh thu, và lợi nhuận hàng năm của dự án
là việc làm không thể thiếu trong thẩm định tài chính của dự án . Việc tính dòng
tiền được thực hiện thông qua các báo cáo tài chính dự tính cho từng năm hay
từng giai đoạn của đời dự án. Qua báo cáo tài chính nhà thẩm định sẽ thấy được
tình hình hoạt động của dự án, nhưng trước hết phải lập được dự trù chi phí,
doanh thu, lợi nhuận của dự án.
Dự trù chi phí: bao gồm tất cả các khoản chi phí bỏ ra trong suốt quá trình
kể từ khi bắt đầu bỏ vốn cho đến khi kết thúc dự án. Chi phí gồm có:

17
- Chi phí vốn của dự án (vốn cố định và vốn lưu động): chi phí này diễn
ra trong những năm của quá trình thực hiện xây dựng công trình và những chi
phí để tạo ra tài sản lưu động ban đầu, các khoản chi phí thay thế hoặc mua sắm
máy móc, thiết bị.
- Thay đổi vốn lưu động ròng của dự án: Do trong các năm vận hành khai
thác của dự án vốn lưu động có thể tăng hoặc giảm do thay đổi quy mô hoạt
động…
- Chi phí vận hành hàng năm: Dòng này bao gồm tất cả các khoản chi phí
xảy ra trong những năm vận hành khai thác dự án: chi phí nguyên vật liệu, năng
lượng, tiền lương công nhân, chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị…
Dự trù doanh thu: doanh thu từ hoạt động của dự án bao gồm doanh thu

do bán sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phế liệu…Doanh thu của dự án được dự
tính cho từng năm hoạt động và dựa vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hằng năm
của dự án để xác định .Cần tính toán đầy đủ các nguồn thu như: Doanh thu từ
sản phẩm chính, từ sản phẩm phụ...
Do tiền có giá trị về thời gian nên chúng ta không thể so sánh các dòng
tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy chúng về một mốc để
so sánh.
Các nguyên tắc đánh giá dòng tiền của dự án bao gồm:
- Luồng tiền phù hợp: nghĩa là một sự thay đổi trong tổng luồng tiền
trong tương lai của doanh nghiệp phải là hậu quả trực tiếp của việc thực hiện dự
án. Nguyên tắc này đòi hỏi khi tính toán dòng tiền của dự án ta phải xem xét dự
án đơn thuần với các giá trị độc lập với hoạt động khác hoặc dự án khác. Nguyên
tắc này cũng dẫn đến một yêu cầu quan trọng là phải loại bỏ được chi phí chìm

18
khi phân tích. Chi phí chìm là những chi phí đã trả hay phải trả mà việc chấp
nhận hay không chấp nhận dự án không có ảnh hưởng tới các chi phí đó.
- Đưa chi phí cơ hội vào phân tích: Chi phí cơ hội là cơ hội thu nhập bị
bỏ qua do chấp nhận dự án này mà không chấp nhận dự án khác. Ví dụ, khi thực
hiện dự án doanh nghiệp phải sử dụng một diện tích đất 1.000 m
2
để xây dựng
nhà xưởng nghĩa là doanh nghiệp đã mất đi khoản thu nhập có thể thu được do
cho thuê mảnh đất đó nếu dự án không được thực hiện. Chi phí cơ hội phải được
cho vào khi tính toán dòng tiền của dự án.
- Tác dụng phụ: Khi dự án được thực hiện có thể có những tác động đến thu
nhập hiện tại của doanh nghiệp như việc doanh nghiệp bị giảm doanh thu hiện tại
do khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm do dự án sản xuất ra.
- Tài sản lưu động ròng: Ngoài tài sản cố định, dự án còn đòi hỏi một
lượng vốn dài hạn để đầu tư và tài sản lưu động ròng và lượng đầu tư này sẽ

được thu hồi khi dự án kết thúc.
- Phân bổ chi phí quản trị chung: Chi phí quản trị chung là những chi phí
hoạt động không liên quan trực tiếp tới bất cứ sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào
của doanh nghiệp. Do đó các chi phí này cần được phân bổ cho các bộ phận và
sản phẩm theo một tiêu thức nhất định.
1.2.3.3. Dự tính lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu
đối với một dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định giá trị
hiện tại ròng của dự án.
Việc xác định chính xác lãi suất chiết khấu có ý nghĩa quyết định khi tính
toán hiệu quả tài chính của dự án.
Những nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất chiết khấu bao gồm:

19
- Cơ cấu vốn và chi phí của mỗi loại vốn
- Mức lãi suất tính toán còn chịu ảnh hưởng của độ rủi ro của dự án. Dự
án có độ rủi ro lớn thì giá trị của lãi suất chiết khấu của dự án phải lớn.
- Khả năng và phương pháp huy động vốn: Khi nguồn vốn bị hạn chế,
cần phải tăng lãi suất chiết khấu
- Mức lãi suất tối thiểu được sử dụng ở các công ty khác. Khi lãi suất
chiết khấu sử dụng ở các dự án khác tăng lên, ngân hàng cũng có thể tăng lãi
suất chiết khấu của dự án cần xem xét lên
- Lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp thực hiện dự án: nếu lợi nhuận
bình quân của doanh nghiệp cao thì mức thu lợi tối thiểu của dự án được chọn sẽ
cao hơn và ngược lại.
- Tỉ lệ lạm phát cũng ảnh hưởng đến lãi suất tính toán. Nếu tỉ lệ lạm phát
cao ngân hàng phải tăng mức lãi suất tính toán để đảm bảo mức lãi suất tính toán
thực tế trong tương lai và ngược lại.
Phương pháp xác định lãi suất chiết khấu:
- Khi vốn đầu tư là nợ

Khi vốn đầu tư là vốn đi vay thì chủ đầu tư phải trả một lãi suất là Kd, Kd
chính là chi phí của nợ vay khi chưa tính tới tác động của thuế. Do chi phí trả lãi
vay được coi là chi phí hợp lý khi tính thuế nên doanh nghiệp tiết kiệm được một
khoản thuế là Kd* T (T là thuế suất) vì vậy chi phí nợ vay sau thuế là:
Chi phí nợ vay sau
thuế
= Kd*(1-T)
Ví dụ: nếu doanh nghiệp A vay tiền với lãi suất 10% và thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp là 40% thì chi phí nợ vay sau thuế là:

20
10%*(1-0.4) = 6%
Nói tóm lại, đối với những dự án mới, nếu vốn tài trợ cho dự án hoàn toàn
là nợ thỉ lãi suất chiết khấu được sử dụng để chiết khấu các dòng tiền có thể
được xem là chi phí nợ sau thuế bằng Kd*(1-T)
- Khi vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu:
+ Chi phí cổ phiếu ưu tiên: Chi phí của cổ phiếu ưu tiên (Kp) được xác định
bằng cách lấy cổ tức ưu tiên (D
P
) chia cho giá phát hành thuần của cổ phiếu (P
n
) – là
giá mà doanh nghiệp nhận được sau khi đã trừ chi phí phát hành:
n
P
P
P
D
K =
+ Chi phí của lợi nhuận không chia: Chi phí của lợi nhuận không chia là tỉ

lệ cổ tức mà người nắm giữ cổ phiếu thường yêu cầu đối với dự án mà doanh
nghiệp đầu tư bằng lợi nhuận không chia.
Thực tế có ba phương pháp thường được sử dụng để xác định chi phí lợi
nhuận không chia: phương pháp CAPM, phương pháp luồng tiền chiết khấu,
phương pháp lấy lãi suất trái phiếu cộng với phần thưởng rủi ro
Phương pháp CAPM: Sử dụng phương trình CAPM để xác định tỷ lệ lợi
tức mong đợi đối với cổ phiếu đang xét:
K
s
= K
RS
+ (K
RM
+ K
RF
)*β
i
Trong đó: K
RS
: Lợi tức của tài sản phi rủi ro
K
RM
: Lợi tức của cổ phiếu có độ rủi ro trung bình
β:Hệ số bêta của cổ phiếu
K
s
:Lợi tức mong đợi đối với cổ phiếu đang xét

21
Phương pháp luồng tiền chiết khấu: Theo phương pháp này tỷ lệ cổ tức

yêu cầu đối với cổ phiếu thường được xác định bởi phương trình sau:

g
P
D
K
s
+=
0
1
Trong đó: D
1
: Cổ tức mong đợi được trả vào cuối năm thứ nhất
P
0
: Giá hiện tại của cổ phiếu
G : tỉ lệ tăng trưởng của cổ tức mong đợi
Phương pháp lãi suất trái phiếu cộng với mức bù rủi ro: theo phương pháp
này K
s
được xác định bằng việc cộng một mức bù rủi ro khoảng từ 3-5% vào lãi
suất nợ dài hạn của doanh nghiệp.
K
s
= Lãi suất trái phiếu + Phần thưởng rủi ro
+ Chi phí cổ phiếu thường mới: Việc phát hành cổ phiếu mới cần phải
tính đến các chi phí phát hành do đó chi phí của cổ phiếu mới sẽ là:
K
e
=

D
1
+ g
P
0
(1-F)
Trong đó: P
0
: Giá của cổ phiếu
K
e
: Chi phí của cổ phiếu mới
F: Chi phí phát hành
- Khi vốn đầu tư gồm nợ và vốn chủ sở hữu thì lãi suất chiết khấu là chí
phí vốn bình quân:
WACC = Wd x Kd + Wc x Ks
Trong đó : Wd là tỷ trọng của vốn vay trong tổng mức vốn đầu tư
Wc là tỷ trọng của vốn tự có của doanh nghiệp
Kd là chi phí của nợ vay ngân hàng

22
Ks là chi phí vốn tự có
1.2.2.4. Phân tích rủi ro dự án
Các dự án đầu tư được sọa thảo và tính toán hiệu quả kinh tế dựa trên cơ
sở dự kiến quá trình kinh doanh, thu lợi nhuận sẽ diễn ra trong tương lai. Trong
nền kinh tế thị trường, các số liệu dự báo thường xuyên có sự biến đổi đặc biệt là
trong tương lai xa do đó khả năng dự án gặp phải rủi ro là không tránh khỏi.
Chính vì vậy cần có những phương pháp và công cụ dự báo rủi ro dự án. Qua các
công cụ này, các nhân tố gây rủi ro và ảnh hưởng của chúng đến dự án sẽ được
lượng hóa, nhờ vậy chủ đầu tư có cơ sở đánh giá và đề ra những biện pháp hạn

chế rủi ro cho dự án.
Có nhiều phương pháp phân tích rủi ro dự án .Phổ biến và đơn giản nhất là
phân tích độ nhạy và phân tích tình huống.
- Phân tích độ nhạy: là phương pháp nhằm phân tích sự biến động của
NPV và IRR khi các biến đầu vào thay đổi. Người phân tích có thể cho một biến
thay đổi trong khi cố định các biến còn lại hoặc đồng thời cho nhiều biến thay
đổi. Trong khi phân tích độ nhạy, người ta đặc biệt quan tâm đến giới hạn của
sự thay đổi để từ đó có thể ký hợp đồng để sự thay đổi không vượt qua mức giới
hạn cho phép. Khi NPV rất nhạy cảm với một thay đổi nhỏ của một yếu tố, ta
nói rủi ro dự tính đối với yếu tố đó là cao.
- Phân tích tình huống: được sử dụng trong phân tích đánh giá dự án
trong trường hợp có nhiều khả năng và rủi ro bằng việc tính kỳ vọng toán của
các biến cố. Trong phân tích tình huống, người ta thường xem xét tới tình huống
xấu nhất, tình huống tốt nhất và tình huống trung gian giữa tốt và xấu gọi là tình
huống cơ sở. Trong tình huống xấu nhất, ta cho các khoản mục có giá trị bất lợi
nhất như: giá bán thấp nhất, lượng bán thấp nhất hay chi phí cao nhất. Ngược

23
lại, trong tình huống tốt nhất ta cho các khoản mục có giá trị có lợi nhất. Từ đó
phân tích mức độ biến thiên của NPV và IRR để đánh giá rủi ro của dự án.
1.2.2.5. Các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án
Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu để đánh giá hiệu quả của dự án bao gồm: Giá
trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất nội hoàn (IRR), tỷ suất nội hoàn điều chỉnh (MIRR),
thời gian hoàn vốn (PP), chỉ số doanh lợi (PI), chỉ tiêu cân đối Lợi ích- Chi phí
(B/C), lợi nhuận kế toán bình quân (APP), điểm hoà vốn (BP).
a/ Giá trị hiện tại ròng (NPV)
Giá trị hiện tại ròng của dự án là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của
các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra
được hiện tại hoá ở mốc 0. NPV phản ánh kết quả lỗ, lãi của dự án theo giá trị
hiện tại (tại thời điểm 0) sau khi đã tính đến chi phí cơ hội của vốn đầu tư.

Công thức tính:


=

+
=
n
t
t
t
CF
k
CF
NPV
1
0
)1(
Trong đó: CF
0
: Vốn đầu tư bỏ ra ban đầu, giả định vốn đầu tư được bỏ
ra một lần, vào đầu năm thứ nhất của dự án
CF
t
: Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1
đến n
n: Số năm thực hiện dự án
k: Lãi suất chiết khấu, giả định là không thay đổi trong các năm
Từ công thức trên có thể thấy NPV nhạy cảm với lãi suất chiết khấu. Khi r
thay đổi thì NPV thay đổi, đây chính là nhược điểm của phương pháp hiện tại

hoá. Dự án thường phải chịu những khoản chi phí lớn trong những năm đầu, khi

24
vốn đầu tư đi vào hoạt động. Bởi vậy, khi lãi suất tăng giá trị hiện tại của dòng
thu nhập sẽ giảm nhanh hơn giá trị của chi phí, do đó NPV sẽ giảm xuống. Khi r
vượt qua một mức nào đó, NPV sẽ chuyển từ dương sang âm.
Từ những nội dung trên, chúng ta thấy NPV có ưu nhược điểm sau:
- Ưu điểm:
+ NPV đo lường trực tiếp phần lợi nhuận mà dự án đóng góp vào tài
sản của chủ doanh nghiệp
+ Sử dụng chi phí cơ hội về sử dụng vốn làm tỷ lệ chiết khấu
+ NPV giả định rằng những khoản thu nhập tạm thời được tái đầu tư
với tỷ lệ sinh lời bằng tỷ lệ chi phí sử dụng vốn
+ Quyết định chấp nhận hay từ chối và xếp hạng các dự án phù hợp
với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của chủ doanh nghiệp
- Nhược điểm:
+ Phương pháp NPV chỉ cho biết lợi nhuận tuyệt đối, không cho biết
lợi nhuận tương đối do đó việc đánh giá không được toàn diện.
+ Độ tin cậy của NPV phụ thuộc vào khả năng lựa chọn lãi suất chiết
khấu.
b/ Tỉ suất hoàn vốn nội bộ (IRR)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là trường hợp đặc biệt của lãi suất chiết khấu, ở
đó giá trị hiện tại ròng (NPV) của dự án bằng 0 (tức là mức lãi suất chiết khấu
mà tại đó giá trị hiện tại của dòng lợi ích bằng giá trị hiện tại của dòng chi phí.

25
Ý nghĩa: IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các
dòng tiền thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết
khấu.


0
)1(
1
=
+
=

=
n
t
t
t
IRR
CF
NPV
Trong đó: NPV: giá trị hiện tại ròng của dự án
CF
t
: Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án
CF
0
: Vốn đầu tư bỏ ra ban đầu
Khác với NPV, việc tính trực tiếp IRR là một việc hết sức khó khăn phức
tạp. Vì vậy, IRR được tính bằng phương pháp nội suy. Theo phương pháp này
cần tìm 2 lãi suất r
1
và r
2
sao cho ứng với lãi suất nhỏ hơn (giả sử r
1

) ta có NPV
>0 còn lãi suất kia (r
2
) sẽ làm NPV <0, r
*
cần tính ứng với NPV = 0 sẽ nằm giữa
2 lãi suất r
1
và r
2
. r
*
được nội suy theo công thức:
IRR = R
1
+
NPV
1
(r
2
-

r
1
)
NPV
1
 +NPV
2


Nếu khoảng cách giữa các giá trị r
*
với r
1
và r
2
còn lớn, chúng ta có thể
tiếp tục nội suy với cặp r
*
và r
1
hay với cặp r* và r
2
để xác định đúng hơn IRR.
Khi sử dụng phương pháp nội suy, không nên nội suy quá rộng, cụ thể là
khoảng cách giữa hai lãi suất được chọn không nên vượt mức 5%. Ngoài ra, cần
thận trọng khi xác định lãi suất ban đầu
Chỉ tiêu IRR có những ưu nhược điểm sau
- Ưu điểm:

×