Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tính khoa học và tính cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.51 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU


Karl Marx (C. Mác, 1818 – 1883) – Một nhà tư tưởng vĩ đại, nhà khoa
học, nhà cách mạng lỗi lạc về lý luận, về tổ chức, về đấu tranh thực tiễn. Người
thầy vĩ đại của những người cộng sản, của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và tồn thể nhân loại tiến bộ. Lý luận “Hình thái kinh tế - xã hội” là lý
luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C. Mác xây dựng lên, có vị trí
quan trọng trong triết học Mác-Lênin. Lý luận đó đã được khoa học thừa nhận
và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý
luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, C. Mác đã
chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, bản chất
của từng chế độ xã hội, nghiên cứu về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép
phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện
chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó; chỉ ra quy luật vận động và phát triển
của nó như một qua trình lịch sử - tự nhiên. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên
cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong những giai
đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói chung của xã
hội loài người.
Hơn hai thế kỷ đã đi qua, với biết bao biến thiên của lịch sử, những cống
hiến vĩ đại của C. Mác, đặc biệt, là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với tư
cách là hịn đá tảng của học thuyết Mác. Vì vậy, đã có nhiều nước chọn học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận để xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cũng như trước những biến
đổi không ngừng của thế giới trong bối cảnh của cuộc Cách mạng cơng nghiệp
4.0, nhiều người đã hồi nghi về tính đúng đắn và khoa học của học thuyết này.
Giá trị tư tưởng C. Mác luôn bị các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính
trị chống phá, xuyên tạc và phủ nhận, phủ định tính khách quan của quy luật xã
hội, cho rằng thực tiễn ngày nay có nhiều đổi thay như: Tồn cầu hóa, khoa học
cơng nghệ có bước tiến nhảy vọt, internet vạn vật, chiến tranh cục bộ, xung đột
1




tơn giáo, xung đột sắc tộc, biến đổi khí hậu, dịch bệnh… tiếp tục diễn ra ở nhiều
nơi nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác là lỗi thời, sai lầm.
Do vậy, cần phải có những luận cứ để đấu tranh phản bác những quan
điểm sai trái nhằm bảo vệ “tính khoa học và tính cách mạng của học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội” trong bối cảnh hiện nay. Bằng các luận cứ về mặt lý
luận khoa học, về mặt thực tiễn và về thực tế lịch sử, chúng ta có quyền khẳng
định tính đúng đắn của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Trong quá trình làm tiểu luận, tuy bản thân đã rất cố gắng nghiên cứu và
chọn lọc để hoàn thành, song chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Vì vậy, rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để nội
dung tiểu luận hoàn thiện hơn cũng như phát huy được giá trị thực tiễn của nội
dung nghiên cứu. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy PGS.TS. Vũ Hồng Sơn,
đã truyền đạt, cung cấp kiến thức, giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Trân trọng kính chào!


2


NỘI DUNG

I. Hình thái Kinh tế - Xã hội
1. Quan niệm của các nhà xã hội học, triết học trước Mác
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, trước Mác đã có khơng ít cách tiếp cận,
nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ những nhận thức khác
nhau, với những quan điểm lập trường khác nhau mà có sự phân chia lịch sử, sự
tiến hố của xã hội theo những cách khác nhau như: Thời đại đồ đá, thời đại đồ

đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước,… và gần đây là các nền văn
minh: Văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công
nghiệp,...
Trước Mác, các nhà xã hội học, triết học đã khơng thể giải thích một cách
khoa học sự vận động theo quy luật khách quan của lịch sử hay vấn đề phân kỳ
lịch sử xã hội, chẳng hạn: Nhà xã hội học Italia Vicô (1668-1744) đã phân chia
các thời kỳ lịch sử như phân chia các giai đoạn của một vòng đời: thơ ấu, thanh
niên và tuổi già. Nhà triết học duy tâm Đức Hêghen (1770-1831) lại phân chia
lịch sử loài người thành ba thời kỳ chủ yếu là thời kỳ phương đông, thời kỳ cổ
đại và thời kỳ Giecmani. Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp Phuriê (17721831) đã chia tiến trình lịch sử thành bốn thời kỳ: Thời kỳ mông muội, thời kỳ
dã man, thời kỳ giả tưởng và thời kỳ văn minh. Nhà di truyền học Mỹ Herry
Mooc-Gan (1818-1881) lại phân chia lịch sử thành ba thời kỳ chính: Thời kỳ
mơng muội, thời kỳ dã man và thời kỳ văn minh. Những cách phân kỳ như vậy,
khơng đem lại cách nhìn khoa học về một xã hội cụ thể, chỉ coi trình độ phát
triển của khoa học - công nghệ, của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định duy
nhất, mà không thấy được (hoặc họ cố tình khơng thấy) vai trị của các quan hệ
kinh tế, quan hệ giai cấp, quan hệ chính trị - pháp lý, quan hệ dân tộc...
2. Quan điểm của C. Mác
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết quá trình lịch sử,
C. Mác đã đặt cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xã hội trên quan điểm duy
vật lịch sử và trên quy mơ lịch sử nhân loại. Từ đó, C. Mác đã xây dựng một
3


phạm trù khoa học của Chủ nghĩa duy vật lịch sử về xã hội, hình thành học
thuyết về hình thái kinh tế xã hội với những nội dung chính sau đây:
- Sự sản xuất xã hội là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã
hội lồi người, đó là cái phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loài người và
loài súc vật. Sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và
sản xuất ra bản thân con người. Trong hiện thực, ba q trình này của sản xuất

khơng tách biệt với nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng, là cơ
sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Và xét đến cùng thì sản xuất vật chất quy
đình và quyết định tồn bộ đời sống xã hội.
- Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những
lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay
đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, lồi người thay đổi tất cả
những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có
lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng
nghiệp”. Như vậy theo Mác, lực lượng sản xuất xét đến cùng đóng vai trị quyết
định trong việc thay đổi tồn bộ các quan hệ xã hội.
- Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng: Thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
mặc dù kiến trúc thượng tầng có khả năng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Mác viết: “Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như các
hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con
người, để giải thích các quan hệ và hình thái đó,mà trái lại, phải thấy rằng
những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất,
… Nếu ta không thể nhận định được về một con người mà chỉ căn cứ vào chính
ý liến của người đó đối với bản thân, thì ta cũng có thể nhận định được về một
thời đại đảo lộn như thế mà chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải
giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung
đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã
hội”.
4


Từ những quan điểm cơ bản trên, C.Mác đi đến kết luận hết sức khái
quát: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những
quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ (tức những quan

hệ sản xuất), những quan hệ này phù hợp với một chỉnh độ nhất định của các
lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp
thành cơ cấu kinh tế xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến
thức thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất
định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhìn thấy động lực của lịch sử nằm ngay
trong hoạt động thực tiễn vật chất của con người. Học thuyết hình thái kinh tế
xã hội là quan niệm duy vật biện chứng được cụ thể hoá trong việc xem xét đời
sống xã hội. Động lực của lịch sử không phải do một lực lượng thần bí nào, mà
chính là hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật
khách quan. Hoạt động thực tiễn đó lại xuất phát từ cái sự thật hiển nhiên:
“Trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động,
trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động
chính trị, tơn giáo, triết học…”.
3. V.I. Lênin kế thừa tư tưởng, quan điểm của C. Mác
Học thuyết Mác về kinh tế - xã hội không chỉ xác định các yếu tố cấu
thành hình thái kinh tế xã hội, mà còn xem xét xã hội trong q trình biến đổi và
phát triển khơng ngừng. C. Mác viết: “Tơi coi sự phát triển của những hình
thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên”. Điều này đã được V.I. Lênin
giải thích: “Chỉ có đem qui những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất
thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
Từ những tư tưởng của C. Mác, V.I. Lênin đã tiếp tục phát triển, làm
phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế - xã hội, ông đã chỉ ra những sai lầm
của các nhà xã hội học trước Mác là không biết xuất phát từ những quan hệ giản
đơn là quan hệ sản xuất mà đi thẳng vào nghiên cứu những hình thức chính trị,
pháp luật,... Theo lập trường của xã hội học chủ quan, những kết luận đó trái
5



với tất cả những điều đã quan sát trong lịch sử. Khi giải phẫu chủ nghĩa tư bản,
chính C. Mác phát hiện ra mối quan hệ bản chất, từ đó tìm ra quy luật của sự
vận động. Mỗi xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất riêng, một chế độ kinh tế
nhất định. Quan hệ sản xuất là cái cơ bản quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội
khác.
V.I. Lênin kế thừa tư tưởng, quan điểm của Mác, khái quát hình thái kinh
tế - xã hội như sau: “Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, dùng để chỉ một xã hội cụ thể tồn tại trong một giai đoạn nhất
định của lịch sử loài người, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng của xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó”.
II. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1. Khái niệm
* Phương thức sản xuất: “Là cách thức mà con người dùng để làm ra
của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó, con người
có những mối quan hệ nhất định với tự nhiên và quan hệ với nhau trong sản
xuấ vật chất”. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định lịch sử xã hội loài người là
lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển.
Mỗi xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất của
nó với những đặc điểm riêng. Như vậy, phương thức sản xuất là biểu thị cách
thức, phương thức mà con người tiến hành trong quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn nhất định của lịch sử - xã hội, nó quy định tính chất, kết cấu,
đặc điểm của xã hội.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa hai mặt: Lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất.
* Lực lượng sản xuất: “Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản
xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động và những người lao động
với kinh ngiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản
xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội”.


6


Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện khả năng cải biến giới tự nhiên của con
người thông qua việc sử dụng công cụ lao động tác động vào thế giới khách
quan nhằm đảm bảo cho nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Lực
lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình
tác động vào giới tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất. Về mặt kết cấu, lực
lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản
xuất (trước hết là công cụ lao động) để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất
định.
Trong những yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động giữ vị
trí hàng đầu trong lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện
ở trình độ của cơng cụ lao động, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, trình độ tổ chức lao động xã hội, trình độ tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm
của người lao động,.. Người lao động là những người có tri thức, kinh nghiệm,
kỹ năng, kỹ xảo nhất định, có tham gia và đóng vai trị quyết định đối với quá
trình sản xuất vật chất. V.I. Lênin viết: “Lực lượng sản xuất vật chất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Trong lịch sử loài
người, lực lượng sản xuất đã trãi qua các trình độ phát triển, đó là trình độ thủ
cơng, trình độ cơ khí, trình độ sử dụng máy móc tự động hóa.
Tư liệu sản xuất: Gồm cơng cụ lao động, đối tượng lao động và phương
tiện lao động. Công cụ lao động là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất,
đóng vai trị quyết định trong tư liệu sản xuất. Theo Ph. Ăngghen, công cụ lao
động là “Khí quan của bộ óc con người”. Trình độ phát triển của cơng cụ lao
động là thước đo trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
Công cụ lao động, khoa học ngày càng phát triển, đối tượng lao động sẽ
trở nên đa dạng hoá, xuất hiện thêm nhiều đối tượng lao động mới. Ngày nay,
khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, giữ vai trò hết sức quan

trọng, vì khoa học đã kết tinh, thẩm thấu vào các yếu tố của lực lượng sản xuất
và biến đổi về chất tất cả những yếu tố ấy,… Đồng thời, thời gian áp dụng
những phát minh từ khoa học vào quá trình sản xuất được rút ngắn. Trong một
7


chừng mực nhất định, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội đã trở thành một lực
lượng sản xuất trực tiếp vì: Khoa học đã trở thành điểm xuất phát trực tiếp của
những biến đổi to lớn về kỹ thuật, sự phát triển như vũ bảo của khoa học đã
xuất hiện một loạt những ngành công nghệ mới như công nghệ sinh học, năng
lượng, vật liệu mới, nano,…tạo ra những ngành sản xuất mới ngày càng hiện
đại, làm cho nền kinh tế thế giới chuyển sang một bước ngoặt mới trong q
trình phát triển, đó là kinh tế tri thức.
* Quan hệ sản xuất: “Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người
với con người trong sản xuất vật chất,thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi hoạt động với
nhau, quan hệ trong phân phối sản phẩm”.
Như vậy, nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm ba mặt: Quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối. Mỗi
mặt quan hệ có vai trị riêng, xác định đối với sự phát triển của nền sản xuất vật
chất và đối với sự phát triển của lịch sử loài người.
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Là quan hệ giữa người đối với tư
liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai. Nó quy định tính chất
của quan hệ sản xuất, đây là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất. Quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với quan hệ quản lý
và quan hệ phân phối. Trong xã hội, nếu nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người,
cịn những người khác khơng có (hoặc có rất ít) tư liệu sản xuất thì quan hệ
giữa người với người trong sản xuất vật chất là quan hệ lệ thuộc, phục tùng, là
quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột. Trong những xã hội nền sản xuất dựa trên

chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tư liệu sản xuất sẽ thuốc về số đông người,
quan hệ giữa người với người là quan hệ hợp tác với nhau trong sản xuất vật
chất.
- Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất: Là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân cơng chun mơn hố và
hợp tác hố lao động quan hệ giữa người quản lý với công nhân. Trong điều
8


kiện khoa học, kỹ thuật từng bước phát triển vượt bật như hiện nay, nhờ ứng
dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật vào quản lý, vai trò của quan hệ tổ
chức và quản lý ngày càng tăng lên, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất ở
tầm vĩ mô. Tổ chức, quản lý sản xuất tốt sẽ thúc đẩy quan hệ sở hữu phát triển,
ngược lại sẽ kìm hãm thậm chí làm biến dạng quan hệ sở hữu.
- Quan hệ phân phối: Là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu
chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không
ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi
người lao động. Quan hệ phân phối được quyết định bởi quan hệ sở hữu nhưng
cũng tác động mạnh trở lại đến quan hệ sở hữu, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích con người theo hướng tích cực hoặc tiêu cực, qua đó tác động đến xu
hướng vận động của nền sản xuất hoặc theo hướng tăng trưởng hoặc trì trệ và
đến sự biến đổi của quan hệ sở hữu.
2. Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
* Lực lượng sản xuất suy cho cùng quyết định quan hệ sản xuất:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất thay đổi, sớm hay muộn cũng kéo theo sự
thay đổi của quan hệ sản xuất, vì lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản
xuất là hình thức của phương thức sản xuất, mà nội dung lại quyết định hình
thức. Ta thấy mức độ chinh phục của con người với giới tự nhiên quy định mức
độ quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất. Quan hệ giữa

con người với con người trong thời đại tự động hóa khác với thời đại thủ cơng.
Nói cách khác, thời đại kinh tế khác nhau thì quan hệ giữa con người với con
người trong sản xuất cũng khác nhau.
Thứ hai, sự phát triển của sản xuất vật chất bao giờ cũng bắt đầu từ sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Trong quá trình lao động, con người cải tạo tự
nhiên, củng cố tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo,… đồng thời sáng tạo ra
tư liệu sản xuất mới, dẫn đến lực lượng sản xuất phát triển không ngừng. Lực
lượng sản xuất phát triển đến một chừng mực nào đó sẽ trở nên mâu thuẫn gay
gắt với quan hệ sản xuất cũ, tất yếu đó địi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ
9


bằng quan hệ sản xuất mới. Quan hệ sản xuất mới lại tiếp tục thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, rồi đến lúc nào đó, mâu thuẫn giữa chúng lại trở nên
gay gắt, lực lượng sản xuất lại đòi hỏi phá vỡ quan hệ sản xuất cũ thay bằng
quan hệ sản xuất mới cho phù hợp,… Cứ như vậy, nó thúc đẩy xã hội phát triển
từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác.
Thứ ba, Trình độ của người lao động, tư iệu sản xuất như thế nào thì nó
quy định quan hệ sở hữu tương ứng như thế đó. Ai ắm được quyền sở hữu đối
với tư liệu sản xuất, người đó có quyền tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm.
Tư liệu sản xuất đặc biệt là công cụ lao động quy định cách thức tổ chức quản
lý sản xuất. Trình độ khoa học – kỹ thuật khác nhau cũng đưa lại hình thức sở
hữu, cách thức tổ chức quản lý và phương thức phân phối khác nhau.
* Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực
lượng sản xuất:
Tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ nó có đời
sống riêng, nó có thể thay đổi nhanh, chậm, hoặc đi song hành với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định trực tiếp mục đích xã hội của
sản xuất; quy định hình thức tổ chức quản lý của sản xuất, quản lý xã hội; quy
định khuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất, tinh thần, do

đó nó có thể hình thành một hệ thống những nhân tố tác động trở lại đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá
trình sản xuất vật chất nên nó có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quan
hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hai xu hướng sau: Nếu quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển; nếu quan hệ sản xuất khơng phù hợp với trình độ lực
lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
* Từ mối quan hệ biện chứng trên, ta rút ra quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là một trạng thái
trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất,
tức trong đó các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất tạo địa bàn đầy đủ, tạo
điều kiện thuận lợi cho lực lượng sản xuất phát triển, tạo điều kiện tối ưu cho
10


việc kết hợp giữa con người với tư liệu sản xuất và khoa học kỹ thuật, làm cho
lực lượng sản xuất phát triển hết khả năng của nó.
Mặt khác, lực lượng sản xuất luôn biến đổi, đặc biệt là công cụ lao động.
Đến một lúc nào đó, trình độ của nó chuyển sang một giai đoạn cao hơn, quan
hệ sản xuất sẽ trở nên khơng cịn phù hợp, trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan đòi hỏi xã hội phải xóa bỏ
quan hệ sản xuất cũ thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất… Cứ như vậy, sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất sẽ thúc đẩy nền sản xuất vật chất cũng như xã hội phát triển
khơng ngừng từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác
ngày càng cao hơn.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất được biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp, giữa giai cấp bảo thủ muốn
duy trì quan hệ sản xuất lạc hậu với giai cấp tiến bộ đại diện cho lực lượng sản
xuất tiên tiến. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quna hệ sản xuất trở

nên gay gắt, thì lực lượng sản xuất tất yếu sẽ địi hỏi thay thế quan hệ sản xuất
cũ bằng quan hệ sản xuất mới của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn này chỉ có thể
được giải quyết thơng qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị, đỉnh cao của nó là cuộc cách mạng xã hội.
III. Nội dung khoa học và cách mạng của Học thuyết Hình thái kinh
tế - xã hội.
Hội nghị 81 Đảng cộng sản và công nhân quốc tế họp tại Mátxcơva
(tháng 11-1960) đã đưa ra quan điểm chung về thời đại ngày nay - đó là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, được mở đầu bằng Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại. Quan điểm đó thể hiện sự trung thành và vận dụng
sáng tạo học thuyết của C. Mác về hình thái kinh tế - xã hội, một học thuyết
mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã
hội, làm cơ sở phương pháp luận trong phân tích khoa học về quá trình vận
động và phát triển xã hội theo lịch sử - tự nhiên.

11


Như vậy, học thuyết Mác không chỉ xác định các yếu tố cấu thành nên
hình thái kinh tế - xã hội, mà cịn phân tích sự vận động của xã hội trong một
quá trình phát triển liên tục theo quy luật khách quan. Đó là một học thuyết cho
đến nay vẫn tràn đầy sức sống và sẽ mãi trường tồn mãnh liệt, là cơ sở phương
pháp luận để nghiên cứu, xem xét, phân tích lịch sử xã hội và nhận thức đúng
đắn về nội dung, tính chất của thời đại ngày nay.
1. Những quan điểm sai trái phủ nhận tính khoa học và tính cách
mạng của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
Những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, các nước
XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Sự
đổ vỡ này xảy ra ngay tại Liên Xô - quê hương của Cách mạng Tháng Mười,
nơi khai sinh ra nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, nơi được coi thành trì

của CNXH hiện thực - khiến cho các học giả tư sản được dịp lên tiếng phê
phán, bác bỏ chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
nói riêng.
Từ đó, các thế lực thù địch vẫn ln ra sức tìm mọi cách lợi dụng xun
tạc, cơng kích và phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ cho rằng sự sụp đổ của
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ “Sự lạc
hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin”; và bởi, “Chủ nghĩa xã hội
mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”,
không bao giờ thực hiện được”. Họ cũng cho rằng CNXH khoa học mà các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã xây dựng chỉ là một học thuyết “viễn vông”, “ảo
tưởng”,... Những luận điệu đó được tung ra khắp nơi trên thế giới với các hình
thức, diễn đàn khác nhau nhằm phủ nhận bản chất khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cũng từ đây, ở một số nước phương Tây đã hình thành những trào lưu
chống Mác. Từ thập niên 90 của thế kỷ XX đã bùng nổ các bài viết, các cơng
trình phê phán chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin, bác bỏ từng phần hay toàn
bộ học thuyết này. Sự chống phá chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội nói riêng được chia thành các xu hướng chính như sau:
12


Thứ nhất, xu hướng của các học giả tư sản phương Tây luôn đối lập với
C.Mác về lập trường tư tưởng.
Có thể nói, ngay từ khi ra đời ở những năm 40 của thế kỷ XIX, triết học
Mác đã luôn phải đối diện với sự chống phá của các học giả phương Tây do
mâu thuẫn đối kháng về lập trường tư tưởng. Trong khi họ ln bảo vệ lợi ích
của giai cấp tư sản và tìm mọi cách để luận chứng cho sự “tồn tại hợp lý” của
chế độ TBCN thì các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác lại khẳng định loài người nhất
định sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Do đó, khi CNXH ở Liên Xơ và Đơng Âu
sụp đổ, nhiều học giả phương Tây, cả cánh tả và cánh hữu, từ tân bảo thủ đến

tân tự do, tin rằng đây là một dấu chấm hết đối với chủ nghĩa Mác - Lênin sau
hơn 150 năm tồn tại. Francis Fukuyama với cơng trình nổi tiếng “Sự cáo chung
của lịch sử và người cuối cùng” cho rằng cùng với sự kết thúc của “Chiến
tranh Lạnh” và sự sụp đổ của bức tường Berlin, “Cuộc đấu tranh giữa các hệ
tư tưởng như là động lực của sự tiến bộ nhân loại đã đến hồi kết với thắng lợi
cuối cùng thuộc về nền dân chủ tự do và chủ nghĩa tư bản thị trường”. Một số
học giả của xu hướng này cho rằng, C.Mác và V.I.Lênin đã không lường trước
được khả năng thích nghi, tiến hóa của CNTB, chẳng hạn trong việc giải quyết
mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa tư bản và lao động.
Thứ hai, xu hướng của những kẻ cơ hội nhân danh bảo vệ chủ nghĩa
Mác nhưng thực chất là xuyên tạc, hạ bệ chủ nghĩa Mác.
Không chỉ phải đối mặt với sự chống phá của các học giả tư sản phương
Tây mà ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội nói riêng cịn ln bị những kẻ cơ hội cơng kích, tấn cơng.
Sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, các phần tử cơ hội thuộc các
đảng cộng sản đã mạo danh là những người mácxít - mặc dù lên tiếng ủng hộ
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nhưng thực chất là vịn vào sự thoái trào của
hệ thống các nước XHCN để đòi xét lại chủ nghĩa Mác. Có người theo xu
hướng này cịn cố gắng tìm mọi cách để đối lập quan điểm của V.I. Lênin với
quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về CNXH và thời kỳ q độ. Họ cho rằng
mơ hình xây dựng CNXH ở một nước riêng lẻ có trình độ phát triển lạc hậu bỏ
13


qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà V.I. Lênin đặt nền móng ở Nga là
một biểu hiện của sự “Chệnh hướng khỏi các nguyên lý mácxít cơ bản”.
Chính sự xun tạc này đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến lập trường, quan
điểm của những người theo chủ nghĩa Mác, dẫn đến sự giảm sút lớn số lượng
những người trung thành với học thuyết này trên toàn thế giới. Xu hướng “phi
mácxit hóa”, phân rã về tư tưởng, ly khai với học thuyết Mác - Lênin trỗi dậy

mạnh mẽ tại hàng loạt nước từng đi theo con đường XHCN, cũng như trong nội
bộ các đảng cộng sản, các đảng XHCN và phong trào công nhân quốc tế.
Thứ ba, xu hướng của những người theo thuyết kỹ trị hiện đại muốn phủ
nhận những luận điểm cơ bản của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội trong
thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Thuyết kỹ trị là một học thuyết tuyệt đối hóa vai trị của khoa học - kỹ
thuật đối với sự phát triển của xã hội loài người. Ngay khi C.Mác đưa ra tư
tưởng phân chia lịch sử xã lồi người thành các hình thái kinh tế - xã hội thì các
nhà kỹ trị cũng có cách phân chia xã hội lồi người thành các nền văn minh.
Ngày nay, trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, khi mà khoa
học - công nghệ đang ngày càng có vai trị to lớn đối với sự phát triển của xã
hội loài người, các nhà kỹ trị mới lại đang tìm cách vin vào những thành tựu của
khoa học - công nghệ hiện đại để phủ nhận những quan điểm được coi là sống
còn của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Một trong những quan điểm đó là
việc C. Mác đã khẳng định con người là chủ thể của lịch sử, người lao động là
nhân tố đóng vai trị quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, các học giả của thuyết kỹ trị hiện đại cho rằng, ngày nay, với
sự xuất hiện ngày càng nhiều “robot thơng minh”, “trí tuệ nhân tạo” khiến
người máy đang dần thay thế con người. Điều đó khiến người lao động vốn từ
chỗ là chủ thể của quá trình sản xuất đang bị gạt ra bên lề quá trình sản xuất ấy,
trở thành nhân tố đóng vai trị thứ yếu. Biểu hiện của sự thay đổi này là thay vì
cần đến nhiều nhân cơng để lao động, sản xuất thì ngày càng có nhiều doanh
nghiệp chỉ cần ít nhân cơng. Thay vì trả lương cho nhân cơng, các doanh nghiệp
đầu tư vào máy móc, cơng nghệ. Do đó, các nhà kỹ trị hiện đại cho rằng đã đến
14


lúc cần xem xét lại quan điểm của C.Mác về vai trị, vị trí trung tâm, có ý nghĩa
quyết định của người lao động trong sản xuất vật chất.
2. Tiếp tục khẳng định tính khoa học, tính cách mạng của lý luận về

hình thái kinh tế - xã hội
Chúng ta không thể phủ nhận một hiện thực là sự sụp đổ của CNXH hiện
thực ở Liên Xô và Đông Âu là một bước lùi lịch sử của của phong trào cộng sản
và cơng nhân tồn thế giới. Đó cũng là một tổn thất to lớn cho phong trào đấu
tranh cho những mục tiêu cao cả và tốt đẹp của nhân loại: hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và hạnh phúc của con người. Tuy nhiên, sự sụp đổ
đó khơng phải là sự “cáo chung” của chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội nói riêng. Nó cũng khơng phải là do chủ nghĩa Mác Lênin đã lạc hậu, lỗi thời mà đó thực sự là do đã hiểu sai, vận dụng sai những
quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác trong quá trình xây dựng
CNXH. Bản chất chủ nghĩa Mác - Lênin là cách mạng và khoa học. Do đó, nó
địi hỏi việc nhận thức, vận dụng và phát triển vừa phải đứng vững trên lập
trường cách mạng, lập trường của giai cấp công nhân, vừa phải thực hiện với
một tinh thần và phương pháp khoa học nghiêm túc, đúng đắn.
Những người mácxít thấm thía sâu sắc những tổn thất to lớn từ sự sụp đổ
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng cũng nhận ra rằng, điều đó đã khách
quan tạo cho chúng ta có thêm dữ liệu để nhận thức đúng, trở về đúng với
những quan điểm của C. Mác, Ph. Ănghen và V.I. Lênin, đồng thời vận dụng,
phát triển đúng đắn, sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Từ đó thấy rõ
hơn những sai lầm của các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN trong việc nắm
bắt bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng vào
thực tiễn; thấy rõ hơn tính chất nguy hiểm của các địn tấn cơng, xun tạc của
các thế lực thù địch trong việc phủ nhận chủ nghĩa Mác trên phạm vi tồn thế
giới.
Trong tình hình hiện nay, chính từ các quốc gia tư bản phương Tây, người
ta lại thấy có những tiếng nói về những giá trị của chủ nghĩa Mác, của học
thuyết kinh tế Mác, về phong trào “Trở về với Mác”, tìm đọc Mác. Đặc biệt, ở
15


những thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn

cầu 2008 - 2009, trong khủng khoảng nợ cơng và suy thối kinh tế ở nhiều quốc
gia tư bản phát triển, phong trào “Trở về với C.Mác”, tìm đọc C. Mác lại trở
nên sơi nổi hơn bao giờ hết. Những tác phẩm kinh điển của C. Mác và
V.I.Lênin vẫn được tìm đọc nhiều nhất, đặc biệt là bộ “Tư bản” của C.Mác vẫn
xếp số một trên thế giới và được dịch ra 134 ngôn ngữ ở 63 nước. Khơng thể cố
nói bừa rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết “ảo tưởng”, đã “lạc hậu, lỗi
thời” khi chính học thuyết này đã tạo nên những hiện thực làm biến đổi thế
giới, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử loài người và có sức lơi cuốn
cũng như tầm ảnh hưởng sâu rộng tồn nhân loại. Trong bối cảnh mới có nhiều
thay đổi hiện nay, để bảo vệ tính khoa học và tính cách mạng của học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta không chỉ cần khẳng định những chân giá trị
trong quan điểm của triết học Mác - Lênin mà còn phải bổ sung, phát triển để
những quan điểm đó thêm sức sống mới của thời đại.
Khơng thể phủ nhận được ngày nay những thành tựu của khoa học - công
nghệ hiện đại với sự ra đời của người máy đã thay thế không chỉ những công
việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp mà cịn có thể thay thế cho cả những
hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là
khoa học - công nghệ hiện đại trở thành yếu tố quyết định sự phát triển của lực
lượng sản xuất, từ đó người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngồi
q trình sản xuất. Bản thân C. Mác chưa bao giờ phủ nhận vai trò của khoa học
bởi chính Ph. Ăngghen đã từng khẳng định: “Đối với Mác, khoa học là một
động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”. Về thực chất, khoa học - công
nghệ trước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển
trí tuệ của con người. Do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng tạo và
quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển của khoa học - công nghệ, đồng thời
quyết định việc sử dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất theo mục đích của
mình. Vì vậy, khoa học - cơng nghệ là của con người, gắn liền với con người,
phụ thuộc vào con người và phải thông qua hoạt động của con người mới có thể
được vật hóa vào q trình sản xuất.. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả
16



thời đại của khoa học - công nghệ hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng
vai trị quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì thế, quan điểm của
C.Mác về vai trò quyết định của người lao động đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất vẫn cịn đúng đắn.
3. Một số khía cạnh cần bổ sung, phát triển của lý luận về hình thái
kinh tế - xã hội
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội mặc dù có nhiều giá trị bền vững cho
đến ngày nay nhưng khơng phải khơng có những điểm cần được bổ sung, phát
triển. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của
Mác như là một cái gì đã xong xi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng
ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho mơn khoa học mà những người xã
hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở
thành lạc hậu đối với cuộc sống”.
Từ sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại trong giai đoạn hiện nay,
việc bổ sung, phát triển học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là trở nên cấp thiết,
phù hợp với sự vận động chung của thế giới:
Thứ nhất, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm
cho công cụ lao động ngày càng được cải tiến; sức lao động của con người được
giải phóng; trình độ, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không
ngừng được nâng cao. Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng
ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng đang làm thay đổi dần tỷ trọng
của lao động phổ thông và lao động có trình độ cao. Việc bổ sung thêm nội hàm
của khái niệm người lao động là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay vì “Điều
này hết sức quan trọng đối với chúng ta khi đất nước đang từng bước tiến tới
nền kinh tế tri thức, khi nhiệm vụ trí thức hóa cơng nhân trở thành địi hịi bắt
buộc, nếu chúng ta muốn đưa đất nước tiến kịp thế giới, tránh tụt hậu xa hơn
trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới”.
Thứ hai, trước đây, C. Mác nhấn mạnh nhiều đến khả năng của con người

trong việc chinh phục giới tự nhiên: “Lực lượng sản xuất chẳng qua là năng
lực thực tiễn của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên”. Thực tế cho
17


thấy, trong quá trình sản xuất vật chất, con người khơng chỉ chinh phục tự nhiên
mà cịn phải thích nghi với giới tự nhiên nên khi đề cập đến phạm trù lực lượng
sản xuất mà chỉ nhấn mạnh đến hoạt động chinh phục, xem nhẹ hoạt động thích
nghi là chưa đầy đủ. Do mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng
xung khắc, biểu hiện qua việc thiên tai xuất hiện ngày càng nhiều, mức độ
nghiêm trọng ngày càng gia tăng, nên con người cần từng bước điều chỉnh lại
hoạt động sản xuất vật chất, chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất
một cách có chọn lọc, tránh làm tổn hại đến tự nhiên. Cần phải phát triển lực
lượng sản xuất chọn lọc vì “lực lượng sản xuất là khái niệm thể hiện không chỉ
hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa con người và giới
tự nhiên”.
Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, internet vạn vật,
khoa học nói riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu như
tức thời với nhiều sự kiện khoa học trên tồn thế giới. Dịng tri thức, dịng cơng
nghệ cùng với dịng vốn được lưu thơng với tốc độ chưa từng có trên tồn thế
giới, mang tính tồn cầu. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một yếu
tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh q trình tồn cầu hóa. Đây là đặc
điểm mới chỉ riêng có ở lực lượng sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các
giai đoạn trước kia chưa có hoặc mới ở trong một phạm vi hẹp. Do vậy, để có
thể tiếp tục vận dụng những quan điểm của C.Mác về lực lượng sản xuất, cần
mở rộng nội hàm của khái niệm này không chỉ ở một nền sản xuất vật chất của
một quốc gia nhất định mà trên phạm vi tồn thế giới. Điều đó góp phần làm
cho học thuyết Mác nói riêng và quan điểm về lực lượng sản xuất nói chung
được bồi đắp “thêm da thêm thịt” bằng thực tiễn sinh động của thời đại ngày
nay.


18


KẾT LUẬN


Như vậy, để bảo vệ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, một mặt chúng ta
cần phải tỉnh táo nhận diện những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch;
mặt khác chúng ta cần phải mạnh dạn đề xuất bổ sung, phát triển những quan
điểm của học thuyết này cho phù hợp với thực tiễn. Việc bổ sung, phát triển đó
khơng phải là “xét lại” chủ nghĩa Mác; cũng không phải là làm lu mờ chân giá
trị của chủ nghĩa Mác mà là làm cho những nội dung, quan điểm của học thuyết
Mác được có thêm sức sống mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai
đoạn hiện nay. Đó là một việc làm hết sức khó khăn địi hỏi phải kiên trì, có bản
lĩnh và có trách nhiệm với hệ thống lý luận cách mạng và khoa học được coi là
nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay.
Hiện nay, thế giới vẫn đang trong bước quá độ vĩ đại để đến với CNXH
và chủ nghĩa cộng sản. Những yếu tố quan trọng đầu tiên của một hình thái kinh
tế - xã hội mới đã bắt đầu xuất hiện, đó là nền kinh tế tri thức và xu hướng tồn
cầu hóa. Đây là những bảo đảm quan trọng cho một xã hội mới ra đời với
những kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn, trong đó tư liệu sản xuất chính là
khoa học, tri thức, tin học - tài sản thuộc sở hữu của đại đa số người lao động
trong tất cả những ngành sản xuất quan trọng, như công nghiệp, dịch vụ, thương
nghiệp, nông nghiệp... Xã hội mới sẽ đạt năng suất lao động cao hơn, thỏa mãn
ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi người lao động
trên cơ sở sự tham gia ngày càng tích cực, tự giác của họ vào q trình lao động
xã hội với đặc trưng xã hội hóa lao động ngày càng cao. Vì vậy, trong bối cảnh
tình hình thế giới có nhiều biến động, khó lường hiện nay, chủ nghĩa Mác nói
chung và học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội nói riêng vẫn giữ nguyên

giá trị cốt lõi. Phương pháp tiếp cận thời đại theo học thuyết hình thái kinh tế xã hội của C. Mác vẫn luôn là cơ sở phương pháp luận khoa học và mang tính
cách mạng sâu sắc, phản ánh khách quan quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát
triển xã hội loài người./.
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình Triết học dùng cho cao học khơng chun ngành, Viện Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002;
3. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2012.
4. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác – Lê-nin trong thời đại hiện nay, Nxb
CTQG, H. 1996;
5. Bài viết Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội và những quan điểm sai
trái cần bác bỏ, TS Lê Thị Chiên, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh;
6. Các tài liệu tham khảo khác.

20



×