Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.48 KB, 92 trang )





LUẬN VĂN:

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng
từ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương
Việt Nam







Lời nói đầu
Trước tác động của toàn cầu hoá, xu thế nhất thể hoá thị trường tài chính tiền tệ
đang diễn ra nhanh chóng. Việt Nam đang từng bước mở cửa tiến tới hội nhập khu vực
và Quốc tế. Trong xu thế đó, Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp định song phương và
đa phương liên quan tới hoạt động tài chính ngân hàng. Đặc biệt Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ cũng như cam kết chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới ( WTO) đã
buộc chúng ta phải đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng. Để giành thế chủ động
trong tiến trình hội nhập, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống ngân hàng đa dạng về
hình thức, có uy tín với khách hàng, hoạt động có hiệu quả, an toàn, nâng cao năng lực
cạnh tranh và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước.
Trong công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện, thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế,
hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng có một
vai trò to lớn thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thời gian vừa qua, cùng với sự phát triển
kinh tế đất nước thì hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như hoạt động thanh toán quốc tế


ngày càng sôi động và có nhiều chuyển biến mạnh mẽ.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian gần đây đã không ngừng hoàn
thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế để đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế
đồng thời thu lợi nhuận và tăng lợi thế của ngân hàng mình. Tuy vậy, bên cạnh những kết
quả đạt được thì dịch vụ ngân hàng đối ngoại, trong đó có dịch vụ thanh toán quốc tế
cũng là một vấn đề bức xúc hiện nay cần được tháo gỡ. Đặc biệt với phương thức tín
dụng chứng từ, một hình thức thanh toán rất phức tạp, đòi hỏi trình độ chuyên môn cao
trong công tác thanh toán.
Là một chi nhánh lớn nhất của Ngân hàng công thương Việt Nam, Sở giao dịch I
trong những năm qua đã sớm thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ, bước đầu đã góp phần vào công tác kinh doanh có hiệu quả của ngân
hàng và hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn. Bên cạnh đó, Sở giao dịch I – Ngân hàng
công thương Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện Dự án hiện đại hoá ngân hàng và
hệ thống thông tin (INCAS) dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới (WB) nhằm xây dựng
Sở giao dịch I thành một ngân hàng hiện đại trong khu vực mà hoạt động thanh toán quốc

tế là một trong những lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của một ngân hàng quốc tế. Vì
vậy, an toàn và hiệu quả là một trong những tiêu chí để đánh giá khả năng hội nhập quốc
tế của ngân hàng. Tuy nhiên, trong quá tình hoạt động vừa qua, có nhiều vấn đề nảy sinh
liên quan đến hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế, từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh
của ngân hàng. Do đó, tìm ra giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc
tế tại Sở giao dịch I-Ngân hàng công thương Việt Nam nhằm thu hút nhiều khách hàng,
tạo uy tín và vị thế của ngân hàng trên thương trường là vấn đề hết sức cần thiết hiện
nay.
Nhận thức được vấn đề này, em đã chọn đề tài :
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam.
Nội dung gồm ba chương :
Chương I: Hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ.

Chương II: Thực trạng hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam.
Chương III : Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt
Nam.










Chương I
hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
1.1 Tổng quan về thanh toán quốc tế
1.1.1 Khái niệm
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi chúng ta phải thường xuyên mua bán, trao đổi
hàng hoá và dịch vụ với những cá nhân khác nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như
tinh thần của mình. Và trong các hoạt động đó chúng ta thường phải trả cho người cung
cấp hàng hoá, dịch vụ cho mình một khoản tiền. Hành vi trả tiền đó là một cách hiểu đơn
giản về "thanh toán”. Như vậy, thanh toán được hiểu theo nghĩa chung nhất là việc chi trả
của một cá nhân này cho một cá nhân khác để đổi cho việc được sử dụng, sở hữu một
hàng hoá, dịch vụ hay một quyền cụ thể nào đó.
Thanh toán nảy sinh do việc chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá,
dịch vụ, đông thời thanh toán cũng tác động trở lại đến hiệu quả và tốc độ của việc mua
bán. Thanh toán tốt sẽ giúp tạo lập mối quan hệ uy tín và tin cậy, thúc đẩy các quan hệ
kinh tế, tăng tốc độ lưu thông hàng hoá, cải thiện cuộc sống, giúp các nhà kinh doanh tận

dụng được những cơ hội trên thương trường. Vì vậy, thanh toán là hệ quả của việc mua
bán hàng hoá, dịch vụ nhưng đồng thời cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ
đó.
Tương tự như vậy, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia đều phải thường xuyên
tiến hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã
hội, ngoại giao, văn hoá, khoa học kỹ thuật, hợp tác đầu tư… trong đó, quan hệ kinh tế
chiếm vị trí quan trọng và là cơ sở cho các mối quan hệ khác. Và quá trình tiến hành các
hoạt động nêu trên, tất yếu nảy sinh những nhu cầu chi trả, thanh toán tiền tệ giữa các chủ
thể ở các quốc gia khác nhau. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực hiện các hoạt động thanh toán
quốc tế.
Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc thực hiện các nghiệp vụ chi trả tiền tệ
phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân,
Chính phủ nước này với đối tác của mình trên thế giới thông qua quan hệ giữa các
ngân hàng của các bên liên quan.

Tóm lại, TTQT phát sinh trên cơ sở của hoạt động thương mại quốc tế, nó có tác
dụng đòn bẩy làm cho thương mại quốc tế ngày càng phát triển, là yếu tố quan trọng để
đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, là mắt xích không thể thiếu trong dây
chuyền hoạt động kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, khác với hoạt động thanh toán nội địa, trong quan hệ thanh toán quốc tế,
không chỉ đòi hỏi các chủ thể tuân thủ những quy định pháp lý quốc gia, mà còn phải
tuân thủ cả những quy định pháp lý, các hiệp ước, hiệp định quốc tế, cũng như tập quán
và thông lệ ở mỗi nước có quan hệ đối tác. Một số văn bản pháp lý mang tính quốc tế sử
dụng trong thanh toán quốc tế hiện nay:
* Luật thống nhất về Séc quốc tế - ULC1931.
* Luật thống nhất về hối phiếu (Uniform Law for Bill of exchange)-ULB 1930.
* Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform Customs and
Practice for Documentary Credit) – UCP 500.
* e-UCP version 1.0
* Incoterms

* URR 525
* ISP 98
* URG 458
*ISBP

1.1.2 Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế
1.1.2.1 Đối với nền kinh tế
Hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay với xu thế mở cửa nền kinh tế để hội nhập và phát triển. Thông
qua hoạt động thanh toán quốc tế các nước có thể tận dụng được vốn và công nghệ nước
ngoài để thực hiện CNH-HĐH đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế
đất nước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
Hoạt động thanh toán quốc tế góp phần mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối
ngoại của đất nước, thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, chúng ta có thể thiết lập

quan hệ với các quốc gia khác để từ đó có thể mở rộng quan hệ mua bán, trao đổi hàng
hoá, thúc đẩy sự giao lưu trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá…Chính
những tác động của hoạt động thanh toán quốc tế đến kinh tế đối ngoại lại có tác động trở
lại làm cho hoạt động thanh toán quốc tế phát triển bởi khi kinh tế đối ngoại phát triển thì
kéo theo nó là nhu cầu tất yếu của việc thanh toán trong ngoại thương.
Hoạt động thanh toán quốc tế còn góp phần tăng cường vị thế của các quốc gia trên
trường quốc tế, khi hoạt động thanh toán quốc tế phát triển thì có nghĩa là hoạt động kinh
tế đối ngoại cũng phát triển, qua đó tạo điều kiện để các nước trên thế giới biết đến đất
nước mình. Một đất nước có hoạt động ngoại thương phát triển thì chứng tỏ đất nước đó
tiềm lực về kinh tế trên thương trường quốc tế, tạo ra một vị thế nhất định cho nước đó
trong con mắt của bạn bè thế giới.
Hoạt động thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi
hàng hoá dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau.
Tóm lại, đối với nền kinh tế, TTQT góp phần mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế
đối ngoại, tăng cường vị thế kinh tế của mỗi quốc gia trên thương trường quốc tế, là cầu

nối giữa các quốc gia trong quan hệ thanh toán tiền hàng có hiệu quả.
1.1.2.2 Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Trước hết phải khẳng định rằng hoạt động TTQT phát sinh từ nhu cầu thanh toán
xuất nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nó có vai trò rất qua trọng,
nó không chỉ đáp ứng nhu cầu thanh toán cho các doanh nghiệp này mà còn giúp cho các
doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Trong
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, do vị trí địa lý của các bạn hàng thường cách xa
nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng của người mua, của bên nợ,
đồng thời trong điều kiện thị trường thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của
bên nợ là không chắc chắn, hơn nữa trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trình độ lừa
đảo ngày càng tinh vi, vì vậy rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu ngày
càng nhiều. Nếu hoạt động TTQT có hiệu quả sẽ giúp các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình kinh doanh quốc tế, qua đó thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu phát triển.
1.1.2.3 Đối với ngân hàng thương mại

Hoạt động TTQT được tiến hành qua các ngân hàng: ngân hàng ở nước người mua,
ngân hàng ở nước người bán. Do vậy, để thực hiện việc thanh toán, các ngân hàng phải
có quan hệ làm ăn với nhau. Chính TTQT làm cho hệ thống ngân hàng trên thế giới trở
nên tương đồng với nhau, tạo điều kiện hoàn thiện hoạt động của hệ thống ngân hàng trên
phạm vi quốc tế. Qua đó các ngân hàng có thể tận dụng được những thành tựu hiện đại
trong công nghệ ngân hàng, giúp cho ngân hàng của mình có thể phát triển để hội nhập
quốc tế.
TTQT là một dịch vụ của ngân hàng, chính vì vậy, vai trò quan trọng nhất của nó là
đem lại lợi nhuận đáng kể từ thu phí TTQT :
+ Những khoản lợi nhuận thu được từ kinh doanh ngoại hối, vì mua bán hàng hoá
với nước ngoài đòi hỏi phải có ngoại tệ thanh toán và ngân hàng chính là người đảm nhận
vai trò cung cấp ngoại tệ cho các bên tham gia mua bán, qua đó thu lợi nhuận cho mình.
+ Lãi thu được từ tài trợ thương mại, bởi vì không phải doanh nghiệp hay cá nhân
nào tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ đều có đủ ngoại tệ để thanh toán, do đó

họ phải tìm ngân hàng là người tài trợ cho mình.
+ Những khoản lợi nhuận thu được từ thu phí dịch vụ TTQT như phí mở L/C, phí
sửa đổi L/C, phí nhờ thu, phí thông báo L/C …
Mặt khác, TTQT còn là một nghiệp vụ không thể thiếu được trong hoạt động kinh
doanh của một ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác của ngân hàng.
Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng có nhu cầu giao dịch kinh
doanh quốc tế, trên cơ sở đó ngân hàng phát triển được các dịch vụ như : huy động vốn
ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ khác, nhờ đó tăng
được quy mô của ngân hàng.
Như vậy, đối với mỗi ngân hàng thương mại thì TTQT là một hoạt động tạo doanh
thu dịch vụ cho ngân hàng, là một mắt xích không thể thiếu và rất quan trọng thúc đẩy
các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng phát triển.
1.1.3 Các điều kiện trong hoạt động thanh toán quốc tế
Thông thường trong quan hệ thanh toán quốc tế, những vấn đề liên quan tới quyền
lợi và nghĩa vụ của mỗi bên đều được quy định thành những điều kiện được gọi là điều
kiện thanh toán quốc tế. Các điều kiện thanh toán quốc tế bao gồm :

Điều kiện về tiền tệ và đảm bảo hối đoái
Điều kiện về địa điểm thanh toán
Điều kiện về thời gian thanh toán
Điều kiện về phương thức thanh toán
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán
quốc tế. Những điều kiện này được thể hiện ra trong các điều khoản thanh toán của các
hiệp định thương mại, các hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước, của các hợp đồng
mua bán ngoại thương ký kết giữa người mua và người bán.
1.1.3.1 Điều kiện về tiền tệ và đảm bảo hối đoái
* Điều kiện về tiền tệ
Trong thanh toán quốc tế, các bên phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của một
nước nào đó, vì vậy trong các hiệp định và hợp đồng đều có điều kiện về tiền tệ. Điều
kiện về tiền tệ có nghĩa là việc quy định thống nhất việc sử dụng đơn vị tiền tệ nào để

tính toán và thanh toán trong hợp đồng xuất nhập khẩu, đồng thời quy định phương thức
xử lý khi có sự biến động về giá trị của đồng tiền đó xảy ra.
Để đạt được thoả thuận phải có sự phân loại cụ thể các loại tiền trong thanh toán.
Các bên tham gia thanh toán đều muốn lựa chọn đồng tiền nước mình bởi vì như vậy sẽ
tạo điều kiện chủ động trong thanh toán, tránh được những rủi ro do biến động tỷ giá,
đồng thời nâng cao được vị thế của đồng tiền nước đó trên trường quốc tế. Do đó, phải
có thoả thuận tiêu chí lựa chọn đồng tiền dùng trong thanh toán, cụ thể có một số tiêu
chí như sau :
 Đồng tiền phải có vị trí xứng đáng trên thị trường tiền tệ quốc tế.
 Việc lựa chọn đồng tiền nào sẽ phụ thuộc vào tương quan so sánh lực lượng
trong quan hệ thương mại.
 Phụ thuộc vào tập quán sử dụng đồng tiền trong khu vực đó.
 Phụ thuộc vào tập quán thanh toán trong các ngân hàng.
Ngoài ra, việc lựa chọn đồng tiền thanh toán còn phụ thuộc vào tập quán thanh toán
quốc tế với từng ngành hàng, ví dụ trong mua bán trao đổi các kim loại màu thường sử
dụng đồng GBP, hàng nông sản thì thường sử dụng đồng USD.


* Điều kiện đảm bảo hối đoái
Trong nền kinh tế thị trường, giá trị của các đồng tiền dù là đồng tiền mạnh đều có
thể xảy ra sự biến động tăng hoặc giảm, điều đó sẽ gây tổn thất cho người mua hoặc
người bán hàng hoá. Để tránh rủi ro có thể xảy ra khi có biến động tỷ giá, các bên tham
gia thường đàm phán điều kiện đảm bảo hối đoái cho giá trị hợp đồng khi thanh toán
đúng như giá trị hàng hoá đã nhận hoặc đã trao. Có nhiều cách đảm bảo cho giá trị tiền tệ
của hợp đồng :
# Điều kiện đảm bảo bằng vàng :
- Với đồng tiền thanh toán đã được tuyên bố hàm lượng vàng : giá cả hàng hoá và
tổng giá trị hợp đồng dùng một đồng tiền để thanh toán và tính toán, đồng thời quy định
hàm lượng vàng của đồng tiền đó, nếu khi thanh toán mà hàm lường vàng cúa đồng tiền
đó thay đổi, thì theo mức thay đổi mà điều chỉnh giá cả hàng hoá cũng như giá trị của

hợp đồng. Tất nhiên chỉ áp dụng đối với các đồng tiền đã được xác định hàm lượng
vàng, và sự thay đổi hàm lượng vàng là do có thông báo của Chính phủ nước đó tuyên
bố đánh sụt hoặc nâng cao giá trị đồng tiền lên. Cách này hiện nay ít dùng do tính chủ
quan trong việc định giá của đồng tiền.
- Dùng một đồng tiền tính toán giá cả và giá trị hợp đồng, đồng thời quy định giá
vàng thời điểm đó tại một thị trường nhất định làm cơ sở đảm bảo. Khi thanh toán, nếu
giá vàng thay đổi so với lúc ký hợp đồng đến một giới hạn nhất định hoặc có thay đổi thì
sẽ điều chỉnh giá cả hàng hoá và giá trị hợp đồng một cách tương ứng.
Hiện nay đảm bảo bằng vàng hầu như không được sử dụng vì nó không còn phù
hợp nữa. Giá cả của vàng bây giờ chủ yếu bị ảnh hưởng bởi yếu tố cung cầu, nó không
phản ánh đúng biến động giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái.
# Điều kiện đảm bảo bằng ngoại hối
Là việc lựa chọn một đồng tiền tương đối ổn định, xác định mối quan hệ tỷ giá
với đồng tiền thanh toán để đảm bảo giá trị của hợp đồng. Có thể thực hiện bằng hai
cách như sau :
- Thoả thuận một đồng tiền dùng trong thanh toán và tính toán, đồng thời xác
định tỷ giá giữa đồng tiền đó với một đồng tiền mạnh nào đó (như USD , EUR,

SDR…). Khi đến thời hạn thanh toán, nếu tỷ giá có sự thay đổi, thì giá cả hàng hoá và
tổng giá trị hợp đồng thương mại cũng phải được điều chỉnh tương ứng.
- Trong hợp đồng quy định dùng đồng tiền tính toán và thanh toán là hai đồng
tiền khác nhau. Khi thanh toán căn cứ vào tỷ giá giữa đồng tiền tính toán và đồng tiền
thanh toán để xác định số tiền phải trả. Đây là cách thường dùng trong mua bán ngoại tệ
hiện nay.
Kết hợp hai hình thức đảm bảo trên chúng ta sẽ có được những hình thức đảm
bảo hỗn hợp, bao gồm một số hình thức sau :
# Bảo đảm theo “rổ tiền tệ” : Để tăng thêm độ chính xác của điều kiện đảm bảo
hối đoái, người ta không chỉ dựa vào một đơn vị tiền tệ mà dựa vào một số đơn vị tiền
tệ quốc gia. Khi áp dụng phương pháp này, các bên phải thoả thuận số lượng và số loại
đơn vị tiền tệ được đưa vào “ rổ tiền tệ” và phương pháp xác định tỷ giá của các ngoại

tệ đó so với đồng tiền được đảm bảo vào lúc ký kết hợp đồng và lúc thanh toán. Mục
đích của hình thức này là san bằng sự biến động khác nhau của các đồng tiền khác nhau,
nhắm tạo ra một sự ổn định tương đối. Hình thức này thường được tiến hành theo hai
cách là :
- Tổng giá trị hợp đồng thương mại được điều chỉnh căn cứ vào mức bình quân tỷ
lệ biến động của tỷ giá hối đoái cả “ rổ tiền tệ”.
- Tổng giá trị hợp đồng thương mại được điều chỉnh căn cứ vào tỷ lệ biến động
của bình quân tỷ giá hối đoái của cả “ rổ tiền tệ” tại thời điểm thanh toán so với lúc ký
kết hợp đồng.
# Đảm bảo bằng tiền tệ quốc tế : Tiền tệ quốc tế là các đồng tiền hiệp định thuộc
các khối kinh tế và tài chính quốc tế như SDR, EURO. Tổng giá trị của hợp đồng được
tính toán và thanh toán bằng một ngoại tệ nào đó, đồng thời chọn một đồng tiền quốc tế
làm tiền tệ đảm bảo cho đồng tiền của hợp đồng. Tổng giá trị hợp đồng sẽ được điều
chỉnh căn cứ vào mức chênh lệch giữa tỷ giá của đồng tiền quốc tế và đồng tiền hợp
đồng vào ngày thanh toán so với ngày ký hợp đồng.
# Đảm bảo theo sự biến động của chỉ số giá cả quốc tế đối với hàng hoá đó:
Đây là hình thức mà người ta dựa vào sự thay đổi của chỉ số giá cả mà thay đổi
giá trị của hợp đồng một cách tương ứng. Thực tế, đây không phải là một cách làm

chính xác, vì chỉ số giá không chỉ phản ánh sự biến động của tiền tệ mà nó còn phản
ánh sự biến động của nhiều nhân tố khác, đặc biệt là các nhân tố về cung cầu hàng hoá
và dịch vụ, khả năng sản xuất.
1.1.3.2 Điều kiện về địa điểm thanh toán
Điều kiện về địa điểm thanh toán có nghĩa là việc quy định nghĩa vụ thanh toán
tiền trong hợp đồng thương mại sẽ được thực hiện ở đâu. Thông thường bên nào cũng
muốn trả tiền tại nước mình do các lợi thế sau :
- Có thể đến ngày trả tiền mới phải chi tiền ra, đỡ đọng vốn nếu là người nhập
khẩu hoặc có thể thu tiền về nhanh chóng nếu là người xuất khẩu.
- Ngân hàng nước mình thu được phí dịch vụ
- Có thể tạo điều kiện nâng cao vị thế của thị trường tiền tệ nước mình trên trường

quốc tế.
Trong thanh toán ngoại thương thì địa điểm thanh toán có thể ở nước người nhập
khẩu, nước người xuất khẩu hoặc ở một nước thứ ba nào đó. Nhưng trong thực tế, việc
xác định địa điểm thanh toán là do sự so sánh lực lượng giữa hai bên quyết định, đồng
thời cũng còn thấy rằng dùng đồng tiền thanh toán của nước nào thì địa điểm thanh toán
là nước ấy.
1.1.3.3 Điều kiện thời gian thanh toán
Điều kiện về thời gian thanh toán chỉ rõ thời hạn người nhập khẩu phải trả tiền cho
người xuất khẩu theo quy định trong hợp đồng thương mại. Đây là điều kiện mang tính
chất bắt buộc đối với các giao dịch thanh toán quốc tế.
Việc xác định thời gian thanh toán là mối quan tâm lớn của các bên tham gia trong
giao dịch quốc tế, vì thời gian thanh toán luôn gắn với các biến động của thị trường tài
chính kể từ ngày ký hợp đồng đến ngày thanh toán. Thời hạn thanh toán chứa đựng các
rủi ro từ sự biến động của thị trường mà bên tham gia phải gánh chịu. Do đó, cần phải
có đàm phán lựa chọn. Điều kiện thời gian thanh toán thường được thoả thuận theo một
trong ba cách sau đây :
* Trả tiền trước : Nghĩa là toàn bộ hay một phần tiền của hợp đồng thanh toán
được trả ngay trước khi thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Thực chất đây là hình thức cung

cấp tín dụng của bên nhập khẩu cho bên bán hoặc bên bán yêu cầu bên mua phải có một
phần tiền ứng trước mang tính chất tiền đặt cọc.
* Trả tiền ngay : Có nghĩa là người phải trả thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho
người nhận ngay khi nhận được điện báo chuyển hàng, trả ngay khi nhận được bộ
chứng từ hoặc ngay khi nhận được lô hàng đầu tiên.
* Trả tiền sau : Là thoả thuận theo đó bên mua đã nhận được hàng thậm chí sử
dụng một thời gian nhất định mới phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Đây thực chất là
hình thức cấp tín dụng của người bán cho người mua. Hình thức này rất hay gặp trong
kinh doanh, vừa giúp người mua nhận được hàng trước khi có tiền vừa giúp người bán
tiêu thụ hàng hoá nhanh hơn, tạo lập quan hệ thân tín trong kinh doanh.
Tuy nhiên trong thực tế, ngoài một trong ba hình thức thanh toán trên thì cũng có

những trường hợp người ta vận dụng tổng hợp các hình thức để có thể đem lại hiệu quả
cao nhất trong thanh toán.
1.1.3.4 Điều kiện phương thức thanh toán
Quan hệ thanh toán quốc tế được tiến hành thông qua các phương thức thanh toán.
Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất trong thanh toán quốc tế.
Phương thức thanh toán quốc tế hiểu một cách đơn giản là một cách thức nhất
định, thông qua đó người mua trả tiền, nhận hàng và người bán nhận tiền, trao hàng. Để
phù hợp với tính đa dạng và phong phú của mối quan hệ thương mại và thanh toán quốc
tế, người ta đã thiết lập những phương thức thanh toán khác nhau.
Tùy theo những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, các bên đối tác trong quan hệ
thương mại quốc tế sẽ lựa chọn và thoả thuận với nhau, cùng sử dụng một phương thức
thanh toán thích hợp. Việc chọn phương thức nào suy cho cùng cũng xuất phát từ yêu
cầu của cả hai phía : về phía người bán, sao cho nhận được tiền nhanh chóng và đầy đủ,
còn về phía người mua, sao cho nhận được hàng đủ số lượng, đúng chất lượng và đúng
thời hạn.
1.1.3.4.1 Phương thức chuyển tiền ( Remittance )
* Khái niệm
Là phương thức thanh toán, trong đó một khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ
mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi ở nước ngoài, ngân hàng

chuyển tiền thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài hưởng lợi để thực hiện
nghiệp vụ chuyển tiền.
Phương tiện mà khách hàng có thể lựa chọn sử dụng là chuyển tiền bằng thư (mail
transfer) hoặc điện (telegraphic transfer), chuyển tiền bằng điện nhanh hơn chuyển tiền
bằng thư và trong thực tế chủ yếu dùng hình thức chuyển tiền bằng điện.
Phương thức này chỉ áp dụng khi người bán rất tín nhiệm nguời mua, hoặc dùng
trong quan hệ đại lý, thanh toán phụ phí liên quan đến xuất nhập khẩu, hoặc chuyển
kiều hối. Trong xuất khẩu không nên sử dụng phương thức này vì rất dễ bị chiếm dụng
vốn và có nhiều rủi ro trong thanh toán, ngân hàng chỉ đóng vai trò thực hiện yêu cầu
của khách hàng, không đóng vai trò một trung gian thanh toán theo ý chí của người trả

tiền.
* Quy trình
Đây là phương thức thanh toán quốc tế có quy trình đơn giản nhất, phụ thuộc hoàn
toàn vào thiện ý của người trả tiền.
Sơ đồ quá trình thanh toán bằng chuyển tiền:






1. Người hưởng lợi ( nhà xuất khẩu ) chuyển hàng và bộ chứng từ hàng hoá cho
người mua.
2. Người chuyển tiền ( nhà nhập khẩu ) sau khi kiểm tra hàng hoá, chứng từ thấy
phù hợp với thoả thuận của hai bên, lập thủ tục chuyển tiền gửi ngân hàng phục vụ mình.
3. Ngân hàng chuyển tiền lập thủ tục chuyển qua ngân hàng đại lý ở nước ngoài
của mình.
4. Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho người hưởng.
2 4
1
3
NH chuyển
ti
ền

Người chuyển
ti
ền

NH đại lý

Người hưởng

Hình thức thanh toán này có thời gian thực hiện và độ an toàn khác nhau nên chi phí
cũng khác nhau.
1.1.3.4.2 Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment)
* Khái niệm
Là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng
một dịch vụ nào đó cho nhà nhập khẩu thì tiến hành uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền
hàng trên cơ sở hối phiếu hoặc chứng từ kèm hối phiếu do người xuất khẩu lập.
* Nhờ thu trơn ( clean collection )
+ Khái niệm : Nhờ thu trơn là phương pháp mà người bán nhờ ngân hàng thu hộ
tiền hối phiếu của người mua, nhưng không kèm theo điều kiện gì cả.
Phương pháp này chỉ áp dụng khi người bán và người mua tin cậy lẫn nhau và có
quan hệ chi nhánh hoặc liên doanh với nhau, hoặc chỉ dùng thanh toán phụ phí liên quan
đến xuất nhập khẩu mà không cần đến chứng từ kèm theo như : phí vận tải, tiền phạt…
Phương thức này không tạo ra đảm bảo cho người bán vì người mua có thể nhận hàng mà
trì hoãn trả tiền, hoặc phải trả tiền mà không chắc chắn có nhận được hàng hay không
trong trường hợp chứng từ đòi tiền đến trước hàng hoá.
* Nhờ thu kèm chứng từ ( Documentary collection )
+ Khái niệm : Là phương thức mà người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng
lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu (chứng từ gửi hàng và hối phiếu) và nhờ ngân hàng
thu hộ với điều kiện là người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền thì ngân hàng mới trao
toàn bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để họ nhận hàng.
Đây là phương thức mang lại lợi thế cho người mua. Nó an toàn hơn cho người bán,
khống chế được việc nhận hàng mà không trả tiền nhưng lại không ngăn được việc họ từ
chối hàng hoá và từ chối trả tiền. Lúc đó các chi phí vận chuyển, lưu kho phát sinh sẽ là
rủi ro cho người bán. Mặt khác nảy sinh từ việc trì hoãn nhận hàng và trả tiền của người
mua gây thiếu vốn lưu động cho nhà sản xuất.
+ Quy trình :



4
2

4

4

3

1

3
NH bên bán

Ngư
ời bán

Ngân hàng bên
mua

Ngư
ời
mua





1. Người bán giao hàng cho người mua.

2. Người bán chuyển chứng từ hàng hoá cho ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu
thông báo cho ngân hàng đối phương. Trong bộ chứng từ phải có hối phiếu đòi tiền.
3. Ngân hàng bên bán thông báo cho ngân hàng bên mua, ngân hàng mua thông
báo cho người mua về hối phiếu đòi tiền.
4. Người mua chuyển tiền và nhận chứng từ để đi lấy hàng, hoặc ký chấp nhận
thanh toán để được giao chứng từ, ngân hàng bên mua chuyển tiền cho ngân hàng bên
bán, ngân hàng sẽ trả tiền cho người hưởng theo hối phiếu quy định.
1.1.3.4.4 Phương thức ghi sổ ( Open Account )
* Khái niệm :
Là phương thức mà người bán mở tài khoản để ghi nợ người mua sau khi người
bán đã hoàn thành việc giao hàng hây cung ứng xong dịch vụ đến từng thời kỳ theo thoả
thuận ( tháng, quý, năm ) người mua trả tiền cho người bán.
Việc thanh toán thực hiện bằng cách : khi đến kỳ thanh toán, người bán báo nợ cho
người mua và người mua sẽ yêu cầu ngân hàng chuyển tiền trả cho người bán. Phương
thức này tạo sự chủ động và sắp xếp kế hoạch tiền mặt cả hai bên, nhưng không có sự
bảo đảm nào từ phía ngân hàng. Ngân hàng chỉ là một người làm dịch vụ chuyển tiền.
Đây là phương thức chỉ áp dụng cho quan hệ mua bán truyền thống và tín nhiệm,
người bán có vốn đủ lớn, người mua có uy tín trong thanh toán hoặc dùng chi trả các giao
dịch hàng đổi hàng một cách thường xuyên, hoặc để chi trả các loại chi phí mậu dịch và
phi mậu dịch nhỏ.
Muốn thực hiện phương thức này thành công cần có sự thống nhất về đồng tiền
dùng theo dõi việc ghi nợ tài khoản, căn cứ xác định ngày thanh toán, căn cứ xác nhận
hàng hoá đã bán, đã nhận, nếu không xảy ra tranh chấp khó xử lý.
1.1.3.4.5 Phương thức thanh toán bù trừ ( Clearing )

Hình thức thanh toán này thường được áp dụng đối với các tổ chức kinh doanh có
quy mô giao dịch quốc tế lớn, thường xuyên hoặc trong từng nhóm các tổ chức có cùng
lĩnh vực hoạt động tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Thanh toán bù trừ được thực hiện trên cơ sở của sự thoả thuận giữa các thành viên
trong tổ chức. Thanh toán bù trừ diễn ra đối với các tổ chức luôn có các khoản công nợ

lẫn nhau. Để giảm bớt số lượng giao dịch qua lại làm phát sinh chi phí giao dịch không
cần thiết, các tổ chức này cùng thoả thuận thực hiện tại các thời điểm theo lịch lựa chọn
việc hạch toán song phương các khoản nợ trước đó. Hình thức thanh toán này giảm bớt
được lượng giao dịch, tiết kiệm chi phí.
1.1.3.4.6 Phương thức thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài (Escrow Account)
Là phương thức thanh toán mà hai nhà xuất - nhập khẩu thoả thuận treo tài khoản
ở nước người nhập khẩu để ghi có số tiền của xuất khẩu, đồng thời số tiền này được dùng
để mua lại hàng hoá ở nước người nhập khẩu. Phương thức này thích hợp với việc mua
bán, đền bù.
1.1.3.4.7 Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary of Credit)
Phương thức này bảo vệ tối đa quyền lợi của người bán, miễn là người bán thực
hiện đúng và đầy đủ các phần trách nhiệm của mình trong việc giao hàng và lập chứng
từ, đồng thời thoả mãn nhu cầu của người mua là khi thực hiện theo đúng yêu cầu của
ngân hàng chắc chắn sẽ nhận được hàng hoá theo các điều kiện đã quy định.
Nhờ có ngân hàng đứng trung gian thanh toán, người bán không sợ bị người mua
nhận hàng mà không trả tiền, người mua không sợ trả tiền mà không nhận được hàng. Vì
vậy, mà phương thức này được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, với nhược điểm là chi phí lớn, thời gian thanh toán dài, quy trình phức
tạp, sẽ đòi hỏi phải được cải thiện trong thời gian tới. Nhưng đối với các nước đang phát
triển, thì thường phía nhà xuất khẩu yêu cầu thanh toán bằng tín dụng chứng từ vì họ
chưa tin tưởng vào khả năng của các doanh nghiệp, nên đòi hỏi có sự bảo lãnh của ngân
hàng thanh toán. Tín dụng chứng từ chính là một cách bảo lãnh của ngân hàng đối với
khách hàng.
* Quy trình chung :

NH xác nhận










1. Sau khi ký hợp đồng thương mại, người bán sẽ yêu cầu người mua mở một thư
tín dụng ( Letter of Credit - L/C ) với số tiền không mhỏ hơn giá trị hợp đồng. Người
mua sẽ mở một L/C tại ngân hàng phục vụ mình, gọi là ngân hàng phát hành.
2. Ngân hàng phát hành sẽ thông báo về việc L/C đã được mở theo một phương tiện
phù hợp, ngân hàng bên bán ( Ngân hàng thông báo ) sẽ theo đó thông báo cho người
bán.
3. Nếu không yêu cầu tu chỉnh gì về L/C, người bán tiến hành giao hàng theo hợp
đồng mua bán đã quy định.
4. Người bán chuẩn bị chứng từ để đòi tiền và nộp vào ngân hàng phục vụ mình.
Ngân hàng thông báo chuyển chứng từ sang ngân hàng phát hành. Ngân hàng phát hành
có trách nhiệm kiểm tra chứng từ, ra quyết định thanh toán hay từ chối thanh toán trên cơ
sở kiểm tra sự phù hợp chứng từ.
5. Ngân hàng thanh toán cho ngân hàng thông báo bằng một phương tiện phù hợp.
Sau đó, ngân hàng sẽ thu lại tiền từ người mua. Người mua chuyển trả tiền vào ngân hàng
bằng tiền mặt, tiền trên tài khoản hoặc nhận nợ vay của chính ngân hàng để được ngân
hàng nhận kí vận đơn, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho mình để có thể đi lấy hàng.
Trong trường hợp mở L/C xác nhận, thì ngân hàng mở L/C phải tìm kiếm một
ngân hàng đầy đủ uy tín đứng ra xác nhận nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của L/C
đó.
1.2 Nội dung của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1.2.1 Khái niệm

Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận mà trong đó
một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người xin
mở thư tín dụng) cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người thứ ba, khi người thứ

ba này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy
định đề ra trong thư tín dụng.
* Theo UCP 500
Tại điều 2 của bản “ Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ”
(Uniform customs and practice for documentary credit- UCP No.500-1993), trình bày về
định nghĩa tín dụng chứng từ như sau :
“ Nhằm phục vụ mục đích các điều khoản này, những thuật ngữ “ tín dụng chứng
từ” và “tín dụng dự phòng” có nghĩa là bất cứ một sự thoả thuận nào, dù cho được gọi
hoặc mô tả như thế nào, mà theo đó một ngân hàng ( ngân hàng phát hành ) hành động
theo yêu cầu và theo chỉ thị của một khách hàng ( người yêu cầu phát hành tín dụng )
hoặc nhân danh chính mình :
Phải tiến hành việc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba (người hưởng lợi)
hoặc chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát, hoặc:
Uỷ quyền cho một ngân hàng khác tiến hành thanh toán như thế hoặc chấp nhận
và trả tiền các hối phiếu đó, hoặc :
Cho phép ngân hàng khác chiết khấu bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng với
điều kiện chứng từ phù hợp với tất cả các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng.
Để thực hiện các mục đích của những điều khoản này, các chi nhánh của một ngân
hàng ở các nước khác nhau đựơc gọi là một ngân hàng khác”.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy rõ bản chất của nó chính là một sự cam kết thanh
toán có điều kiện bằng văn bản của ngân hàng.
* Trên phương diện tài chính - ngân hàng
Thuật ngữ DC được hiểu :
- Sự cấp vốn của ngân hàng cho khách hàng : là sự thương lượng giữa khách hàng
(người mở L/C) với ngân hàng (người phát hành) để đi đến việc phát hành L/C. Khách
hàng có thể ký quỹ 100%, cũng có thể là 0% hoặc chỉ một phần nào đó trên tổng số tiền
phải trả. Ngân hàng có thể trả tiền cho người bán rồi sau đó mới đòi tiền người mua.

- Sự tín nhiệm : ngân hàng chưa trả tiền, người mua hàng cũng chưa phải nộp 100%
số tiền vào tài khoản mở L/C để chi trả nhưng người bán có thể tin tưởng vào uy tín của

ngân hàng để giao hàng, sau đó xuất trình chứng từ đồi thanh toán. Nếu người mua không
có khả năng thanh toán rõ ràng ngân hàng gặp rủi ro. Ngân hàng trong trường hợp này đã
cho khách hàng vay uy tín của mình chứ không chỉ là cấp vốn bằng tiền.
Như vậy, DC trên phương diện tài chính - ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng
phát hành sẽ thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác
thực hiện nghĩa vụ này, cho phép ngân hàng khác chiết khấu bộ chứng từ xuất trình hợp
lệ theo các điều kiện của L/C.
1.2.2 Các bên tham gia quá trình thanh toán
Các bên tham gia vào quá trình thanh toán bằn phương thức tín dụng chứng từ
gồm có :
Người yêu cầu mở thư tín dụng ( applicant ) : là người mua, người nhập khẩu.
Ngân hàng phát hành ( Issuing Bank ) : cò gọi là ngân hàng mở thư tín dụng , là
ngân hàng phục vụ người mua.
Người hưởng lợi ( Beneficary ) : là người xuất khẩu, người bán.
Ngân hàng thông báo ( Advising Bank ) : là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
Ngoài các thành phần tối thiểu trên, trong thực tế vận dụng phương thức tín dụng
chứng từ, tuỳ theo điều kiện cụ thể, còn có thể xuất hiện một số ngân hàng khác tham gia
quá trình thanh toán như :
Ngân hàng xác nhận ( Confirming Bank ) : là ngân hàng được chỉ định trong tín
dụng chứng từ, thực hiện việc xác nhận tín dụng chứng từ theo yêu cầu của ngân hàng
phát hành.
Ngân hàng chỉ định ( Nominated Bank ) : là ngân hàng được chỉ định trong thư tín
dụng , cho phép ngân hàng đó thực hiện việc thanh toán, chiết khấu, hoặc chấp nhận bộ
chứng từ của người thụ hưởng phù hợp với quy định của thư tín dụng. Có ba loại ngân
hàng chỉ định : ngân hàng chỉ định thanh toán (Nominated Paying Bank), ngân hàng chỉ
định chiết khấu (Nominated Negotiating Bank), ngân hàng chỉ định chấp nhận
(Nominated Accepting Bank).

Ngân hàng bồi hoàn ( Reimbursing Bank ) : là ngân hàng được ngân hàng phát
hành ủy nhiệm thực hiện thanh toán giá trị thư tín dụng cho ngân hàng được chỉ định

thanh toán hoặc chiết khấu. Thông thường, ngân hàng này chỉ tham gia giao dịch trong
trường hợp giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng được chỉ định không có quan hệ tài
khoản trực tiếp với nhau.
1.2.3. Thư tín dụng (L/C)
* Khái niệm
Thư tín dụng là một bức thư, do một ngân hàng lập ra trên cơ sở yêu cầu của
người nhập khẩu (người yêu cầu mở thư tín dụng) cam kết trả cho người xuất khẩu (
người hưởng lợi) một số tiền nhất định, trong một thời gian nhất định với điều kiện
người này thực hiện đúng và đầy đủ những điều khoản quy định trong lá thư đó.
L/C được coi là phương tiện quan trọng nhất của phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ. Bởi vì, nếu không mở được L/C thì phương thức thanh toán này cũng không
thể được xác lập và người xuất khẩu sẽ không giao hàng cho người nhập khẩu.
L/C chính là văn bản điều chỉnh hành động của ngân hàng mở L/C đối với người
hưởng lợi, bởi vậy, mỗi L/C là một văn bản cam kết của ngân hàng, và đó phải là một
cam kết thực sự, cam kết có điều kiện và có tính dự phòng. * Nội dung của L/C :
Mỗi một L/C được xác định bởi các yếu tố sau đây :
 Số hiệu của L/C : mỗi L/C đều có một số hiệu riêng nhằm tạo thuận lợi
trong việc trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong qua trình giao dịch thanh
toán.
 Địa điểm và ngày mở L/C :
- Địa điểm mở L/C là nơi ngân hàng mở L/C để cam kết trả tiền cho người
hưởng lợi. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng vì nó liên quan đến việc tham chiếu luật lệ
áp dụng, để giải quyết những bất đồng xảy ra (nếu có).
- Ngày mở L/C là ngày bắt đầu phát sinh và có hiệu lực về sự cam kết của
ngân hàng mở L/C đối với người hưởng lợi và cũng là căn cứ để nhà xuất khẩu kiểm tra
xem nhà nhập khẩu có thực hiện việc mở L/C theo đúng yêu cầu trong Hợp đồng thương
mại hay không.

 Loại L/C : Mỗi loại L/C đều có tính chất nội dung, quyền lợi và nghĩa vụ
các bên liên quan cũng rất khác nhau. Do đó, khi mở L/C, người yêu cầu phải xác định cụ

thể loại L/C cần mở.
Tên, địa chỉ của những người liên quan
Người yêu cầu mở L/C ( nhà nhập khẩu )
Người hưởng lợi ( Nhà xuất khẩu )
Ngân hàng mở L/C
Ngân hàng thông báo L/C
Ngân hàng trả tiền (nếu có)
Ngân hàng xác nhận ( nếu có )
 Số tiền của L/C : Số tiền phải được ghi vừa bằng số vừa bằng chữ và phải
thống nhất với nhau. Tên đơn vị tiền phải ghi cụ thể chính xác.
 Thời hạn hiệu lực của L/C : là thời hạn ngân hàng mở cam kết trả tiền cho
người hưởng lợi, nếu người này xuất trình được bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù
hợp với quy định trong L/C.
 Thời hạn trả tiền của L/C : Liên quan đến việc trả tiền ngay hay trả tiền về
sau. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào quy định của Hợp đồng thương mại đã ký kết.
 Thời hạn giao hàng : Được ghi trong L/C và cũng do Hợp đồng thương mại
quy định. Đây là thời hạn quy định bên bán phải giao hàng cho bên mua kể từ khi L/C có
hiệu lực.
 Những nội dung liên quan tới hàng hoá : Tên hàng, số lượng, trọng lượng,
giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, mã hiệu… cũng được ghi cụ thể trong L/C.
 Những nội dung về vận chuyển giao nhận hàng hoá : Điều kiện cơ sở về
giao hàng ( FOB,CIF…), nơi giữ hàng, giao hàng, cách vận chuyển, cách giao
hàng…cũng được thể hiện đầy đủ trong L/C.
Các chứng từ mà người hưởng lợi phải xuất trình : Đây cũng là một nội dung rất
quan trọng, nó được căn cứ theo thoả thuận trong hợp đồng thương mại. Thông thường
bao gồm :
Hối phiếu thương mại

Vận đơn hàng hải
Chứng nhận bảo hiểm

Chứng nhận xuất xứ
Chứng nhận trọng lượng
Danh sách đóng gói
Chứng nhận kiểm nghiệm
Các loại chứng từ khác theo mô tả của L/C
* Các loại L/C chủ yếu
 L/C có thể huỷ ngang ( Revocable L/C)
Là loại L/C mà người yêu cầu mở có toàn quyền đề nghị ngân hàng mở L/C sửa
đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nó mà không cần báo trước cho người hưởng lợi biết.
Như vậy, loại L/C này thuộc cam kết không bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý.
Đứng trên giác độ quyền lợi của bên bán, loại L/C này không đảm bảo quyền lợi cho họ,
do đó ngày nay ít được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
 L/C không thể huỷ ngang ( Irrevocable L/C )
Là loại L/C mà sau khi nó đã được mở ra thì mọi việc liên quan đến sửa đổi, bổ
sung hoặc huỷ bỏ nó, ngân hàng mở chỉ có thể tiến hành trên cơ sở thoả thuận của các
bên có liên quan.
Như vậy, nếu không có sự nhất trí của người hưởng lợi về những nội dung cần tu
chỉnh trong L/C thì ngân hàng mở không được phép thực hiện yêu cầu đơn phương của
người yêu cầu mở. Do đó, quyền lợi của bên bán được đảm bảo. L/C không thể huỷ
ngang là loại được áp dụng phổ biến nhất trong thanh toán quốc tế hiện nay.
 L/C không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C)
Là loại L/C không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác đảm bảo trả tiền cho
người thụ hưởng, theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C đó.
Do có hai ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người hưởng lợi, cho nên loại L/C
này được coi là rất đảm bảo quyền lợi cho bên bán.

Tuy nhiên, để có được sự xác nhận như vậy, đương nhiên phải mất một khoản phí
xác nhận nhất định đối với ngân hàng xác nhận. Trên thực tế, nhu cầu xác nhận phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, song chủ yếu tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm của ngân hàng mở L/C.
 L/C không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C)

Là loại L/C không thể huỷ ngang, mà sau khi người thụ hưởng đã được trả tiền thì
ngân hàng mở không có quyền đòi lại tiền trong bất kỳ tình huống nào
Khi sử dụng loại L/C này, người xuất khẩu phải ghi trên hối phiếu : “Miễn truy hồi
người ký phát” ( Without recourse to drawers ). Đồng thời cũng ghi trong L/C như vậy.
 L/C chuyển nhượng ( Irrevocable Transferable L/C )
Là loại L/C không thể huỷ ngang, mà ngân hàng trả tiền được phép trả toàn bộ hay
trả một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu
tiên.
Một L/C muốn chuyển nhượng được phải có lệnh đặc biệt của ngân hàng mở và
trên L/C phải ghi “có thể chuyển nhượng được”. Lưu ý rằng việc chuyển nhượng chỉ
được thực hiện một lần cho L/C đó.
 L/C tuần hoàn (Revolving)
Là loại L/C mà sau khi đã sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực, lại tự động
có giá trị như cũ và được tiếp tục sử dụng sau một thời gian nhất định.
L/C tuần hoàn cần được chỉ rõ ngày hết hạn hiệu lực cuối cùng, số lần tuần hoàn và
giá trị mỗi lần đó. Đồng thời cũng phải quy định rõ số dư của hạn ngạch L/C dùng chưa
hết lần trước, được hay không cộng dồn vào hạn ngạch L/C sử dụng lần kế tiếp.
 L/C giáp lưng ( Back to Back L/C )
Là loại L/C được mở ra dựa trên cơ sở số tiền củ một L/C khác, đã được mở trước
đó. Loại L/C này thường được sử dụng nhiều trong phương thức giao dịch mua bán trung
gian, chuyển khẩu. Việc vận hành quá trình thanh toán theo hình thức L/C này nói chung
là khá phức tạp, đặc biệt là những điều kiện về thời hạn, về bộ chứng từ …
 L/C đối ứng ( Reciprocal L/C )
Là loại L/C chỉ có giá trị hiệu lực khi la của Bên đối tác cũng đã được mở ra. Trong
hai L/C liên quan, sẽ có một L/C được mở trước, nó thường được ghi như sau : “Tín

dụng này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã mở ra một thư tín dụng đối ứng cho người
mở tín dụng này”. đồng thời, bên mở tín dụng đối ứng cũng sẽ ghi : “ Tín dụng này đối
ứng với thư tín dụng số… mở ngày….tại ngân hàng … ” và thông báo kịp thời cho bên
đối tác biết.

 L/C thanh toán chậm ( Deferred L/C )
Là loại L/C mà ngân hàng mở sẽ thanh toán dần trị giá L/C cho người hưởng lợi,
theo tiến trình hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao hàng hoá của họ đối với bên mua. Loại
L/C này thích hợp với các hợp đồng giao hàng nhiều lần.
 L/C có điều khoản đỏ ( Red clause L/C )
Là loại L/C có một điều khoản đặc biệt, thể hiện ở chỗ : người yêu cầu mở L/C cho
phép người thụ hưởng được nhận một số tiền nhất định, trong tổng số tiền của L/C đã
mở, ngat cả khi người này còn chưa thực hiện nghĩa vụ xuất chuyển hàng hoá cho người
mua.
 L/C dự phòng ( Standby L/C )
Là loại L/C do ngân hàng của người xuất khẩu phát hành, trong đó cam kết với
người nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra.
Đây là loại L/C được phát hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu, đề
phòng trường hợp người xuất khẩu nhận được L/C rồi nhưng không có khả năng giao
hàng.
Đặc tính của L/C
* Tính độc lập tương đối của L/C
L/C là một văn bản phát sinh sau một hợp đồng mua bán ngoại thương và nhằm
thực hiện khâu cuối cùng rất quan trọng, là khâu thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh,
nhưng theo quan điểm của các nhà ngân hàng thì L/C có tính độc lập tương đối với hợp
đồng mua bán đó. Tính độc lập này được giải thích :
+ Hợp đồng : điều chỉnh quan hệ giữa người mua và người bán về hàng
hoá, giá cả, phương thức thanh toán, điều kiện địa điểm, thời gian thanh toán và loại
tiền thanh toán…

+ L/C là một phương tiện của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, được hai
bên thoả thuận lựa chọn. Nó là cam kết của ngân hàng mở L/C với người bán hàng chứ
không phải là cam kết của người mua với người bán, đây chỉ là một cụ thể hoá của một
điều kiện trong số các điều kiện của hợp đồng mua bán, và ngân hàng tham gia với tư

cách là người đảm bảo trả tiền khi các yêu cầu trong L/C được thoả mãn. Các yêu cầu thể
hiện trong L/C chính là những điều khoản được dẫn chứng từ hoạt động mua bán.
Như vậy, cũng thấy rằng L/C có độc lập với hợp đồng, nhưng là độc lập tương đối
mà thôi vì không loại trừ khả năng nó bị rằng buộc vào hợp đồng nếu trong L/C có dẫn
chiếu chính xác đến tên của hợp đồng đi kèm.
* Tính tuân thủ nghiêm ngặt
Ngân hàng chỉ thanh toán nếu các chứng từ giao hàng hoàn toàn phù hợp với L/C,
đúng với các chỉ dẫn của người mua. Theo đặc tính này ngân hàng sẽ kiểm tra bộ chứng
từ hết sức kỹ lưỡng, đến mức máy móc từng chữ một. Nếu ngân hàng không phát hiện ra
những sai sót, thanh toán nhầm thì ngân hàng phải chiụ trách nhiệm.


1.2.4 Ưu điểm và nhược điểm của phương thức tín dụng chứng từ
1.2.4.1 Ưu điểm
So với các phương thức thanh toán quốc tế khác thì phương thức TDCT có những
ưu điểm hơn hẳn, nó đem lại lợi ích thiết thực cho các bên liên quan:
 Đối với người nhập khẩu : Thư tín dụng là một công cụ giúp họ bắt người xuất
khẩu phải thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng (thể hiện ở điều kiện hàng hoá, thời hạn giao
hàng, chứng từ yêu cầu xuất trình). Người nhập khẩu sẽ dễ dàng tìm kiếm được đối tác
dựa vào sự tín nhiệm mà họ “vay” được của ngân hàng, chưa kể họ có thể vay được một
khoản tiền của ngân hàng trong trường hợp ký quỹ dưới 100% giá trị thư tín dụng.
 Đối với người xuất khẩu : Yên tâm khi giao hàng vì họ chắc sẽ hu được tiền hàng
với một bộ chứng từ hoàn hảo, tức là khi họ đã hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình. Hơn
nữa, nếu người xuất khẩu không được thanh toán ngay khi xuất trình bộ chứng từ hoàn
hảo thì tín dụng chứng từ có thể được thực hiện thông qua chiết khấu, lấy tiền ngay. Do
đó, người xuất khẩu có thể nhanh chóng thu hồi vốn để tiếp tục đầu tư tái sản xuất. Mặt

×