Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận thành tựu, hạn chế của nền kinh tế việt nam đầu thế kỷ XXI và giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.77 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, chúng ta đang đứng trước thời cơ mới, nhân loại
đang từng bước đi vào sử dụng tri thức cho phát triển và đang hình thành nền kinh
tế dựa vào tri thức, sử dụng nhanh và gần như trực tiếp các thành tựu của khoa học
cơng nghệ vào phục vụ sản xuất đời sống. Đó là điều mà Các – Mác đã tiên đoán
cách đây 150 năm về khả năng đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Theo đánh giá của các nhà tương lai học, thế giới đang chuyển nhanh sang nền
kinh tế tri thức, trong đó khả năng hiểu biết của con người đặc biệt là công nghệ
thông tin và viễn thông đã được ứng dụng ngày càng nhiều mặt của đời sống xã
hội. Trước tình hình trên, bên cạnh những thành tựu đạt được về kinh tế, Việt Nam
có nguy cơ bị bỏ xa so với các nước phát triển do tốc độ phát triển còn chậm. Vậy
làm sao để Việt Nam tiến mạnh, tiến vững chắc lên nền kinh tế tri thức luôn là vấn
đề lớn để Đảng và nhà nước ta quan tâm. Vì bởi những lý do trên, tôi lựa chọn đề
tài “ Thành tựu, hạn chế của nền kinh tế Việt Nam đầu thế kỷ XXI và giải pháp
phát triển” làm đề tài tiểu luận của mình.


CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ
KỶ XXI
Nước ta bước đầu vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp,
đến nay vẫn là một nước nghèo và kém phát triển.
Sau khi hồn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, nhân dân
ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở
mang giáo dục, khoa học, văn hoá, y tế. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở tình trạng
nơng nghiệp lạc hậu, cịn nặng tính chất tự cấp, tự túc. Trang bị kỹ thuật và kết cấu
hạ tầng kinh tế -xã hội thấp kém. Cơ cấu kinh tế mất cân đối nặng. Cơ chế quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề. Nền kinh tế rất kém hiệu
quả, năng suất lao động thấp, tích luỹ trong nước chưa đáng kể, cịn lệ thuộc nhiều
vào bên ngồi.
Khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm nay: lạm phát nghiêm


trọng; sản xuất bấp bênh; thất nghiệp tăng; tiền lương không đủ sống; trật tự an
tồn xã hội khơng được bảo đảm; tham nhũng và nhiều tệ nạn xã hội khác lan rộng,
công bằng xã hội bị vi phạm; nếp sống văn hố, tinh thần và đạo đức bị xói mịn;
lịng tin vào Đảng và Nhà nước giảm sút.
Thực trạng nêu trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả nhiều
năm chiến tranh, song chủ yếu là do chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí,
vi phạm quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong tiến trình cơng
nghiệp hố và trong cơ chế quản lý kinh tế. Những sai lầm đó cùng với sự trì trệ
trong cơng tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu nhiều
động lực phát triển.


Những quan điểm và chính sách đổi mới về kinh tế - xã hội do Đại hội VI
của Đảng đề ra được cụ thể hoá và phát triển trong quá trình thực hiện, đặc biệt là
những giải pháp tích cực từ cuối năm 1988 đã đưa tới những thành tựu bước đầu
rất quan trọng: hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; xoá bỏ về cơ bản
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước; giảm tốc độ lạm phát; đáp ứng tốt hơn nhu cầu lương thực,
thực phẩm và hàng tiêu dùng; tăng nhanh xuất khẩu và có bước phát triển mới về
kinh tế đối ngoại.
Tuy nhiên, bước tiến đó chưa vững chắc. Lạm phát còn ở mức cao; sản xuất
chưa ổn định; tiêu cực xã hội vẫn trầm trọng. Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội.
Việc chuyển sang cơ chế thị trường còn thiếu nhất quán, chưa đồng bộ, đặc
biệt là trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ; quản lý vĩ mơ chưa thốt hẳn cơ chế cũ, lại
buông lỏng nhiều mặt; thể chế, bộ máy và đội ngũ cán bộ chưa theo kịp yêu cầu
mới. Hậu quả của những sai lầm cũ chưa khắc phục hết, lại thêm những khó khăn
mới do những khuyết điểm trong quá trình đổi mới và những biến động bất lợi
trong tình hình quốc tế.


 Tiểu kết chương I :
Như vậy có thể thấy, đất nước đang chuyển biến với những thành cơng bước
đầu về cải cách kinh tế, có thêm thuận lợi mới, đồng thời đang đứng trước những
thử thách rất gay gắt.


CHƯƠNG II: NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI
2.1. Những thành tựu cơ bản:
2.1.1 Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Những năm đầu 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và kế hoạch 5 năm
2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất
định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao
hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó,
nơng nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ
tăng 7%.. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn
lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005,
Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng
gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;… [7]
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mơ được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phịng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ

nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP


bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thối kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77%
so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD,
gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005.
Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra;
giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá
thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính tồn
cầu cịn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các
nước trong khu vực.
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp
hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó
khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; cơng nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chi
số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước
và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3% (10). Kim ngạch xuất
khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với
GDP năm 2011 đã đạt xấp xi 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến
tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn
ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nơng nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng



bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát
triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ
tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở
vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm
sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Sau 10 năm, nền kinh tế đã đạt được những thành tựu, kết quả ấn
tượng. GDPliên tục tăng trưởng kể từ năm 2010, năm 2018 và năm 2019 là 2 năm
vượt mức 7% - mức kỷ lục. Thu nhập bình quân đầu người trong 1 năm cũng tăng
đều đặn, phản ánh chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện đáng kể,
tiến gần hơn tới ngưỡng thu nhập trung bình cao theo tiêu chuẩn của Ngân hàng
Thế giớilà 3.996 USD. Năm 2019 cũng là năm tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống thấp
nhất, chi khoảng 4%. [8]
2.2.2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết
bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 2001 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ
trọng nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP theo giá cơ bản giai
đoạn 2016-2019 tăng qua từng năm (năm 2016 là 14,3%; năm 2017 là 15,3%;
năm 2018 là 16%), trong khi đó, tỷ trọng của nhóm ngành khai khống giảm dần
(năm 2016 là 8,1%; năm 2017 là 7,5%; năm 2018 là 7,4%).
Nơng nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng
suất thấp và thiếu hụt lớn, sang khơng những đủ dùng trong nước, cịn xuất khẩu
gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực


quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn
đứng thứ hạng cao trên thế giới. Nhiều mơ hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao

xuất hiện, đầu tư của DN vào nông nghiệp gia tăng.
Ngành dịch vụ tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng
dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ,
đặc biệt là sản phẩm có năng lực cạnh tranh. Ngành du lịch có nhiều chuyển biến
tích cực.
2.2.3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát
huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền
kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan
trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mơ hình cơng ty, phát huy quyền tự chủ
và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn
lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng
38% GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan
trọng với thế giới về chuyển giao cơng nghệ, giao thơng quốc tế, đóng góp vào
ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Trong giai đoạn 2011 - 2018, kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng cao hơn
nhiều so với các thành phần kinh tế khác; hệ quả là tỷ trọng của thành phần kinh
tế tư nhân trong nền kinh tế cũng tăng lên. Kinh tế tư nhân tăng trung bình hàng


năm cả giai đoạn hơn 9,1% (từ 2016 luôn tăng trưởng khoảng 12%/năm), do đó,
tỷ trọng kinh tế tư nhân/GDP tăng từ 7,34% năm 2011 lên 9,10% năm 2018 (tăng
1,76%). Tỷ trọng của kinh tế nhà nước giảm từ khoảng 29% năm 2011 xuống còn
27,67% năm 2018 (giảm 1,54%). Cùng với đó, tỷ trọng đầu tư từ khu vực kinh tế
ngoài nhà nước tăng lên mức 45,3% (năm 2018 là 43,3%). [9]

2.2.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình
thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương
đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều
thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam
đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết
về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã
có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan
trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát
triển mạnh.


Việc kiện tồn các tổng cơng ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà
nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3
lần, số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở
thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
2.2.

Những hạn chế:

Trong những năm qua, tuy nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng

như đánh giá trên đây, song vẫn cịn khơng ít yếu kém và khuyết điểm về tăng
trưởng kinh tế.
Một là, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mơ vẫn cịn
nhiều thách thức. Tăng năng suất lao động thời gian qua chủ yếu do tăng vốn đầu
tư và sử sụng lao động chi phí thấp, vẫn chủ yếu dựa vào hoạt động kinh tế thâm
dụng lao động, ở mức nhất định vẫn dựa vào xuất khẩu và dựa vào đầu tư nước
ngoài ngày càng tăng, đóng góp của TFP vào tăng trưởng năng suất lao động còn
thấp và chưa bền vững. Cơ cấu các nguồn lực, đặc biệt bao gồm lao động, vốn và
tài nguyên, chưa được dịch chuyển mạnh đến các ngành và khu vực kinh tế có
năng suất lao động và hiệu quả cao. Nền kinh tế tiếp tục có nguy cơ rơi vào “bẫy
thu nhập trung bình” và tụt hậu trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.
Hai là, q trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước cịn một số hạn chế, bao
gồm: (i) Tình hình thực hiện cổ phần hóa nhìn chung cịn chậm; (ii) Việc gắn cổ
phần hóa với niêm yết vẫn chưa được chú trọng; (iii) Mơ hình quản trị doanh
nghiệp chậm được đổi mới, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế,
chưa gắn được trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp; (iv) Việc tổ chức thực hiện pháp luật về công bố thơng tin cịn
mang tính hình thức....


Ba là, việc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng vẫn còn một số hạn chế. Việc
nâng cao năng lực tài chính thơng qua tăng vốn điều lệ của ngân hàng thương mại
nhà nước nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của các ngân hàng này trên thị trường tài
chính tiền tệ thời gian qua gặp nhiều khó khăn. Việc xử lý, thu hồi nợ và tài sản
đảm bảo (TSBĐ) của các ngân hàng mua bắt buộc khó khăn do phần lớn TSBĐ
cho các khoản nợ đều đang bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa
hoàn chinh.
Bốn là, cơ cấu lại đầu tư cơng cịn một số bất cập: Tiến độ giải ngân vốn đầu
tư cơng cịn chậm nhiều bộ, cơ quan trung ương và địa phương có tỷ lệ giải ngân
vốn dưới mức bình quân chung do cơ chế lập, giao, điều chinh kế hoạch đầu tư

cơng hằng năm cịn thiếu linh hoạt; Việc theo dõi, đánh giá các dự án sử dụng vốn
đầu tư công chưa đồng bộ và chưa được coi trọng; Các dự án đầu tư theo hình thức
Hợp tác công tư (PPP) chưa thu hút được nguồn vốn nước ngồi và cịn phụ thuộc
nhiều vào nguồn vốn tín dụng, chưa phù hợp với định hướng phát triển kết cấu hạ
tầng.
Năm là, cơ cấu lại ngân sách nhà nước vẫn còn một số hạn chế: (i) Hiệu quả
quản lý chi ngân sách còn nhiều bất cập; giải ngân chậm; hiệu quả đầu tư công
thấp, cơ cấu lại chi đầu tư công chậm, phân bổ dàn trải...; (ii) Chi thường xuyên
vẫn còn lớn, đổi mới tổ chức ở các đơn vị sự nghiệp công ở nhiều địa phương chưa
thực hiện quyết liệt; nhiều chế độ, chính sách cịn trùng lặp; cơ cấu lại khó khăn do
tinh giản biên chế và đổi mới khu vực sự nghiệp công chậm; (iii) Các dự án chi đầu
tư phát triển gặp nhiều khó khăn trong vấn đề triển khai thực hiện, hiệu quả tiến
hành các dự án này chưa cao, thường xuyên phải xin gia hạn, bổ sung kinh phí làm
giảm hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản, tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước...


Sáu là, cơ cấu nội bộ ngành kinh tế còn có một số bất cập: (i) Cơ cấu cơng
nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi
giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp, năng suất lao động thấp; (ii) Các chuyển biến
cơ cấu nội ngành nông nghiệp chưa rõ nét và bền vững; (iii) Tốc độ tăng trưởng
của khu vực dịch vụ chưa cao (chi tương đương tốc độ tăng trưởng chung của nền
kinh tế), chưa tương xứng tiềm năng.
Những tồn tại, hạn chế trong cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mơ hình tăng
trưởng tại Việt Nam do một số nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, cụ thể như
sau:
Một là, nhiều vấn đề quan trọng của cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình
tăng trưởng là những vấn đề dài hạn của nền kinh tế. Một số chính sách đã được
ban hành nhưng thời gian triển khai ngắn, chưa có kết quả rõ rệt. Việc tổ chức thực
hiện tái cơ cấu nền kinh tế còn phân tán, thiếu sáng tạo và đồng bộ, chưa có sự điều
phối và giám sát đủ mạnh từ trung ương đến địa phương.

Hai là, năng lực bộ máy hành chính quản lý nhà nước về kinh tế cịn hạn
chế. Năng lực, cách thức hoạch định chính sách của một bộ phận cán bộ quản lý
nhà nước còn yếu so với đòi hỏi cao của mức độ tự do hoá thị trường, với phân
cấp, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu tăng trưởng nhanh, bền vững.
Ba là, cơ cấu lại nền kinh tế chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế chưa tạo ra được những sức ép đủ lớn
để đẩy nhanh tái cơ cấu nền kinh tế trong nước, do vậy hạn chế khả năng của các
DN trong tận dụng các cơ hội từ hội nhập; đồng thời, chưa bảo đảm được cạnh
tranh công bằng giữa DN trong nước và các nhà sản xuất đầu tư nước ngoài trên thị
trường nội địa.


Bốn là, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực đến
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Gần đây, thế giới xuất hiện xu thế
chuyển sang các chính sách hướng nội, thậm chí tiến tới chủ nghĩa bảo hộ và chủ
trương đưa sản xuất về trong nước của một số nước phát triển. Các yếu tố này đã
tác động không nhỏ đến tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, phần nào
hạn chế cơ hội của Việt Nam nhằm phát huy các nguồn lực bên ngoài cho cải cách
kinh tế trong nước, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế, mơ hình tăng trưởng.
Năm là, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang nổi lên mạnh mẽ với nhiều thách
thức mới đối với phát triển và cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mơ hình tăng trưởng.
Đây là những vấn đề mới, cần tư duy quản lý và thể chế quản lý mới.
 Tiểu kết chương 2 :
Từ những thành tựu và hạn chế nêu trên, Đảng và Nhà nước ta cần phải có
một chính sách kinh tế hợp lý để nền kinh tế nước ta có khả năng phát triển cao
hơn và nhanh hơn. Muốn xác định được hướng đi cho nền kinh tế nước nhà chúng
ta cần phải nghiên cứu đầy đủ và định hướng đi cho nền kinh tế nước ta.


CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT

NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI
Việt Nam phấn đấu vào năm 2030 đạt quy mơ và trình độ kinh tế của một
nước công nghiệp phát triển. Để đạt được mục tiêu trên, các giải pháp cần triển
khai thực hiện gồm:
Ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường sức chống chịu của nền kinh tế, tạo tiền
đề vững chắc thúc đẩy đổi mới mơ hình tăng trưởng; Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh
tế, đặc biệt chú trọng vào các lĩnh vực trọng tâm nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ
nguồn lực gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng;
Phát triển kinh tế - xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến
lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hố, có kỷ cương,
xố bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc.
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người.
Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản
xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng
đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí
tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình
và cho đất nước. Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và của tồn xã hội gắn bó
hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu
và thu nhập hợp pháp. Nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và
hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả nền sản xuất xã hội. Phát triển


kinh tế tư nhân, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo bứt phá về đổi mới
sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ 4. Mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo
cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp

luật.
Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các cơng cụ khác. Khuyến khích tính năng
động, sáng tạo đi đôi với thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Phát
huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế nhập
khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.
Mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, các công
ty và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng
và cùng có lợi. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, khơng ỷ lại vào bên ngồi, khai
thác tối đa mọi lợi thế và nguồn lực của đất nước là điều kiện cơ bản để mở rộng
có hiệu quả kinh tế đối ngoại, bảo đảm cho nền kinh tế luôn luôn phát triển trong
thế chủ động.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển. Các
đơn vị kinh tế kinh doanh có hiệu quả, có lãi và thực hiện các trách nhiệm xã hội
theo luật pháp. Nhà nước có chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho các đơn vị kinh
tế bị thua thiệt khi phục vụ lợi ích chung.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, phát triển
văn hố, bảo vệ mơi trường. Lấy phân phối theo lao động làm hình thức chính,
khuyến khích làm giàu đi đơi với giảm số người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội


phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, thực hiện nam nữ bình đẳng, tạo cơ hội cho
mọi người đều được cống hiến và được hưởng thành quả của sự phát triển.


III. KẾT LUẬN
Ngày nay, thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Về phương
diện kinh tế, các quan hệ kinh tế quốc dân đan quyện vào nhau và chi phối nền
kinh tế của tất cả các nước. Bối cảnh quốc tế mới vừa tạo ra thời cơ mới tương

đối thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới đối với nền kinh tế
của các quốc gia. Thời cơ mới là một nhân tố hết sức quan trọng, như một luồng
gió mới sẽ có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự
diễn biến phức tạp của tình hình thế giới địi hỏi từng quốc gia phải có tư duy
mới, biết tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có, phát huy thế mạnh của mình để
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, việc hoà nhập vào nền kinh
tế thế giới và khu vực là việc làm hết sức cần thiết. Nếu không quan tâm đến
điều này, nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển như hiện nay. Trong thế kỷ
XXI, hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ trở thành nước
công nghiệp phát triển trong những năm tới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh tế 2003- 2004 Việt Nam và Thế giới, Thời báo kinh tế Việt Nam
2. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng, Lưu hành nội bộ, H, 42010, tr. 55;
3. Công bố số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2012, Cổng thông tin điện tử
Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
4. Phạm Xuân Nam: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và cơng bằng xã
hội trong mơ hình phát triển của Việt Nam ở thời kỳ đổi mới, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt nam, số 12-2010, tr. 10
5. Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi
mới(1986 - 2005), trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia,
H, 2006, tr. 141;
6. Nguyễn Duy Quý: Công cuộc đổi mới: những thành tựu và bài học kinh
nghiệm, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam;
7. Tổng cục thống kê
8. Báo Thanh niên: />9. Tạp chí tài chính: />



×