Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tài liệu CHUYÊN ĐỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.72 KB, 24 trang )

CHUYÊN ĐỀ
TOÀN CẦU HÓA VÀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Câu 1.Tác động tích cực, tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế.
a. Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế.
Thuật ngữ toàn cầu hoá (Globalization) đã xuất hiện lần
đầu tiên vào năm 1961. Trước đó khái niệm hội nhập toàn cầu
(Global Integration) đã được sử dụng với ý nghĩa tương tự toàn
cầu hoá. Do vậy có thể xem toàn cầu hoá và hội nhập toàn cầu là
những khái niệm tương đồng nhau. Và có thể hiểu toàn cầu hóa
là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng
tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ
văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu.
Tuỳ theo cách hiểu nội dung toàn cầu hoá mà xác định thời
điểm toàn cầu hoá bắt đầu và cái đích mà nó đi tới cùng với
những hình thức thực hiện đa dạng. Nếu hiểu toàn cầu hoá là
những mối quan hệ kinh tế vượt ra ngoài biên giới quốc gia thì
toàn cầu hoá đã bắt đầu từ rất sớm. Nếu hiểu đó là những quan
hệ kinh tế quốc tế phát triển tới quy mô toàn cầu, thì toàn cầu
hoá lại chỉ bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, khi chủ nghĩa tư bản chuyển
từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa độc quyền.
Nhưng nếu hiểu toàn cầu hoá là quá trình quốc tế hoá kinh tế
trên quy mô toàn cầu, bao gồm hai quá trình song song - tự do
hoá kinh tế và hội nhập quốc tế, phải tuân theo những cam kết
toàn cầu, thì quá trình này mới thực sự bắt đầu từ thập kỷ 90.
Nhưng dù hiểu khác nhau, nhưng cái đích cuối cùng mà quá
trình toàn cầu hoá hướng tới là một nền kinh tế toàn cầu thống
nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế.
Ngày nay, toàn cầu hóa mà trước hết và thực chất là toàn
cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế, đặc trưng chủ yếu của
sự phát triển thế giới.


Các thuật ngữ “toàn cầu hóa kinh tế”, “toàn cầu hóa về
kinh tế”, “nền kinh tế toàn cầu hóa”… về cơ bản chứa đựng ý
nghĩa giống nhau.
Hiện đã có nhiều định nghĩa về toàn cầu hoá kinh tế:
Uỷ ban Châu Âu năm 1997 đã có định nghĩa "Toàn cầu hoá
có thể được định nghĩa như là một quá trình mà thông qua đó thị
trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở nên ngày
càng phụ thuộc lẫn nhau"
1
. Định nghĩa này đã nhấn mạnh đến sự
phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia, nhưng đã
không nói rõ sự phụ thuộc lẫn nhau tới mức độ nào mới xuất
hiện toàn cầu hoá.
Một định nghĩa khác cho rằng toàn cầu hoá "phản ánh một
mức độ phụ thuộc lẫn nhau toàn diện hơn so với trong quá khứ,
cho thấy một sự khác biệt với thuật ngữ "quốc tế hoá". Nó ngụ ý
tầm quan trọng ngày càng giảm của các đường biên giới quốc
gia và sự tăng cường những đặc tính lan toả ra ngoài biên giới
bắt nguồn từ một nước, hoặc một khu vực nhất định"
2
. Định
nghĩa này đã tiến thêm một bước, nhấn mạnh tới sự phụ thuộc
lẫn nhau phải đến mức toàn diện và vai trò của các đường biên
giới quốc gia giảm dần, phù hợp với tình hình hiện nay của toàn
cầu hoá. Điều này cũng có nghĩa là tác giả đã xem các quan hệ
kinh tế quốc tế diễn ra đơn lẻ trước đây chưa phải là toàn cầu
hoá.
Một quan điểm khác cho rằng trong nền kinh tế toàn cầu
hoá, các nền kinh tế quốc gia bị hoà nhập vào và được cấu trúc
1

Grahane Thonpdion: Introsuctron, Sitmating Globalization, International Social Siences Journal, Unesco,
1999, N.160, P.139-152.
2
Chủ tịch quỹ Ford Berresford, 1997
lại trên quy mô quốc tế thông qua một loạt quy trình, giao lưu,
trao đổi
3
. Quan điểm này đã tiến xa hơn hai quan điểm trên,
theo đó, toàn cầu hoá không chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau, dù là
phụ thuộc toàn diện giữa các nền kinh tế mà là sự hoà nhập các
nền kinh tế này để hình thành nên một nền kinh tế toàn cầu
thống nhất.
Ba định nghĩa trên đây về toàn cầu hoá tuy khác nhau,
nhưng thực chất vẫn là một quá trình tiến triển của các quan hệ
kinh tế của các quốc gia từ mức phụ thuộc vào nhau, đến mức
phụ thuộc toàn diện, rồi hoà tan vào nhau thành một nền kinh tế
toàn cầu, không còn biên giới.
Trên cơ sở phân tích các khái niệm liên quan, có thể hiểu:
Toàn cầu hóa, mà trước hết và chủ yếu là toàn cầu hóa kinh
tế, là bước phát triển cao của quá trình quốc tế hóa
(Internationnalisation) nền kinh tế thế giới, là giai đoạn chuyển
biến về chất của quá trình quốc tế hóa.
Toàn cầu hóa tác động và ảnh hưởng tới phát triển xã hội
trên tất cả các cấp độ: quốc gia – dân tộc, khu vực và thế giới,
3
Flie Cohen, Toàn cầu hóa, sự hấp dẫn và cơ chế điều tiết, Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia
Pháp, Hội thảo khoa học "Những thách thức về phương diện pháp lý của quá trình toàn cầu hóa",
file://E:\NDVF\SITES/Viét\Sites\logo.htm.
tất cả trên lĩnh vực kinh tế - chính trị, xã hội và văn hóa trong
đời sống xã hội và cả trong môi trường sinh thái tự nhiên. Tác

động và ảnh hưởng này diễn ra trong thực tại và cả trong tương
lai, cả mặt thuận chiều và ngược chiều
Nội hàm của toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh
tế bao gồm:
Các dòng hàng hóa, dịch vụ, kỹ thuật, vốn….ngày càng
vượt biên giới các quốc gia, lưu thông trên phạm vi toàn cầu
ngày càng tự do hơn.
Sự liên kết chặt chẽ kinh tế của các nước trên thế giới thành
các kênh phân phối lưu thông các nguồn lực kinh tế toàn cầu,
cầu nối ngày càng ảnh hưởng và kết hợp chặt chẽ với nhau.
Toàn cầu hóa là sự gia tăng liên kết toàn cầu làm rút ngắn
khoảng cách giữa các quốc gia, tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau
ngày càng chặt chẽ, trước hết về sản xuất và thị trường nhờ tính
nặng động của thương mại, của sự lưu thông vốn và công nghệ
Nền kinh tế các nước trên thế giới ngày càng mở cửa và
hòa nhập với nhau. Sự phát triển kinh tế các nước trên thế giới
và sự vận động của toàn bộ nền kinh tế thế giới ngày càng ảnh
hưởng và chế ước lẫn nhau.
Toàn cầu hóa, thực chất là toàn cầu hóa kinh tế, theo đó, nó
có vai trò chủ đạo, các phương diện khác của toàn cầu hóa là do
sự tác động của toàn cầu hóa kinh tế, hoặc là phát sinh của toàn
cầu hóa kinh tế.
Tóm lại, có thể thấy rằng:
Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các
hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia khu vực, tạo
ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động
phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia
tăng các xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy
mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao
động trên phạm vi toàn cầu.

b. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế
 Tác động tích cực
Toàn cầu hóa kinh tế có tác động to lớn đối với sự phát triển
kinh tế của các nước trên thế giới, thể hiện trên một số mặt:
Thứ nhất, TCHKT thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và
xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao (vào nửa đầu thế kỷ XX, GDP của thế giới tăng 2,7 lần, đến
nửa cuối thế kỷ tăng 5,2 lần). Toàn cầu hóa kinh tế góp phần
làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh
tỷ trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%), và các dịch vụ (62,4%)
trong cơ cấu kinh tế thế giới.
Thứ hai, TCHKT làm tăng sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau
giữa các nền kinh tế các nước. TCHKT làm cho kinh tế mỗi
nước có thể trở thành bộ phận của cái tổng thể, hình thành cục
diện kinh tế thế giới mới. Việc giao lưu trao đổi các hoạt động
kinh tế để tìm kiếm các lợi ích giữa các nước, các nền kinh tế
ngày càng tăng lên đã tạo cơ sở cho xu thế đối thoại, hiệp tác,
biết mình, biết ta diễn ra ngày càng mạnh. TCHKT cũng làm
giảm thiểu các chướng ngại trong việc lưu chuyển vốn, hàng
hóa, dịch vụ giữa các nền kinh tế, các nước, làm tăng vai trò
kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối với sự phát
triển kinh tế mỗi nước, làm cho việc phân bổ các nguồn lực trên
thế giới hợp lý và có hiệu quả hơn.
Thứ ba, TCHKT truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày
càng lớn, tuy chưa được như mong muốn, những thành quả mới
mẻ về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý sản xuất
kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến các dân tộc, tại
nhiều nước dọn đường cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ năm TCHKT gây sức ép mãnh liệt và gay gắt về cạnh tranh
đối với mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp. Bởi vậy, nó làm thay

đổi cách nghĩ, cách làm của mỗi nước, mỗi nhà sản xuất. Để sản
xuất, giao lưu kinh tế toàn cầu, phát huy lợi thế cạnh tranh của
mình, chiếm giữ chỗ đứng trên thị trường, mỗi nhà quản lý cũng
như mỗi nhà kinh doanh không chỉ sản xuất cái mình có thể, mà
phải sản xuất cái mà thị trường cần, phải tính đến hiệu quả của
việc sử dụng các nguồn lực sản xuất để ;không ngừng nâng cao
chất lượng hàng hóa, cải tiến mẫu mã, đa dạng mặt hàng, hạ giá
thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của
người tiêu dùng, phải nắm vững các tiêu chuẩn quốc tế, phải
hiểu biết luật pháp và thông lệ quốc tế, hiểu biết thị trường thế
giới. TCHKT mở ra địa bàn và cách thức hoạt động mới, những
thị trường mới, đối tác mới cho từng nước.
 Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế
Quá trình TCHKT trong mấy thập kỷ qua đã bộc lộ rõ dần
những tác động tiêu cực đói với kinh tế, chính tri, xã hội ở mỗi
nước. TCHKT không chỉ làm lan tỏa và phổ cập cái hay,cái tốt
mà còn cả cái xấu, cái dở. Sự tác đọng tiêu cực của TCHKT thể
hiện trên một số vấn đề sau:
Một là, TCHKT tạo ra sự phân phối lại của cải theo hướng nước
chảy chỗ trũng, làm cho khoảng cách giầu nghèo trên thế giới và
trong từng quốc gia ngày càng mở rộng
Theo đánh giá của UNDP, trong “ báo cáo về sự phát triển nhân
loại 1999”, xét trên nhiều khía cạnh thì dân số ở 85 quốc gia
trên thế giới đã có mức sống thấp hơn cách đây 10 năm, khoảng
cách giữa nước giầu và nghèo ở mức báo động. Các nước công
nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế
giới, hiện đang chiếm 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất
khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp nước ngoài, 74% số máy điện thoại
của toàn thế giới, trong khi đó 1/5 dân số thuộc các nước nghèo
nhất chỉ chiếm 1% GDP của toàn thế giới mà thôi.

Hai là, nền kinh tế toàn cầu là nền kinh tế rất bị chấn thương, sự
trục trặc ở một khâu có thể lan ra phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á vào những năm cuối thể
kỷ XX, hay vấn đề nợ công ở các nước châu Âu thời gian
qua đã chứng minh rõ điều đó.
Ba là, TCHKT cũng làm xói mòn quyền lực nhà nước, dân tộc,
trong khi lại làm cho quyền lực của các công ty xuyên quốc gia
tăng lên. Khi các hoạt động giao lưu kinh tế, thương mại quốc tế
ngày càng mạnh mẽ thì trên thế giới vai trò của quốc gia dân tộc
ngày càng mất đi những ý nghĩa nhiều mặt của nó. Các truyền
thống văn hóa, truyền thống dân tộc, sắc thái dân tộc, nếu không
có sự bảo vệ, giữ gìn thì cũng bị băng hoại. Như vậy thế giới sẽ
mất đi tính phong phú và đa dạng của nó, còn các quốc gia dân
tộc nói chung, đặc biệt là các quốc gia dân tộc nhỏ yếu sẽ rất bị
xâm thực, chủ quyền kinh tế gắn với lợi ích đất nước dễ bị xâm
hại.
Bốn là, về văn hóa, xã hội, toàn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ mất
bản sắc dân tộc, đánh mất độc lập tựu chủ của quốc gia. TCHKT
cũng làm cho một số vấn đề tiêu cực trở nên quốc tế hóa như:
buôn bán và sử dụng ma túy, mại dâm, du nhập lối sống đồi
trụy, lan tràn chủ nghĩa khủng bố
Ngay trong những mặt tích cực nêu trên cũng ẩn chứa không ít
mặt tiêu cực. Về trao đổi hàng hóa, việc tự do hóa thương mại
thường đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát
triển vì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu
mã đẹp, do đó, có sức cạnh tranh cao, chiếm lĩnh thị trường. Tuy
nói là tự do hóa thương mại song các nước công nghiệp phát
triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (như áp
dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động). Tuy
có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển

thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất.
 Những tác đông của toàn cầu hóa tới quan hệ quốc tế và
quá trình hội nhập kinh tế trên thế giới
Xu thế TCH tác động sâu sắc tới mối quan hệ quốc tế và quá
trình hội nhập về kinh tế của các nước trong đó có nước ta.
Trước nhu cầu phát triển, nắm bắt khả năng tận dụng nhứng mặt
tích cực của TCH, các nước trên thế giới đều có thiên hướng từ
bỏ chính sách đóng cửa, chuyển sang mở cửa với bên ngoài để
đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý để phát triển.
Bên cạnh quan hệ song phương, quan hệ đa phương ngay càng
đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, xuất hiện nhiều
cơ cấu hợp tác với nhiều tầng nấc: tiểu vùng, khu vực, đại khu
vực và toàn cầu. ở tiểu vùng là các tam giác, tứ giác, các chương
trình hợp tác phát triển. ở khu vực là các khu mậu dịch – đầu tư
tự do. ở các châu lục như châu Mỹ, châu Á – Thái Bình Dương,
châu Phi xuất hiện các khu vực mậu dịch tự do hoặc diễn đàn
khu vực toàn châu lục. Trên phạm vi toàn cầu là các tổ chức như
WTO, IMF, OECD, G8.
Các hình thức liên kết diễn ra ở các cấp đội như: ưu đãi thương
mại, liên minh thuế quan, thị trường chung
Những nhân tố nói trên đã tạo nên một mạng quan hệ quốc tế
đan xen nhau làm gia tăng thêm tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế. Tuy nhiên các chủ thể tham gia quá trình toàn cầu
hóa đều có lợi ích riêng, độc lập với nhau, thậm chí đối nghịch
nhau, từ đó trong quan hệ kinh tế quốc tế luôn tồn tại hai chiều
hướng: hợp tác và đấu tranh.
Thời đại chúng ta đang sống là thời địa quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Các lực
lượng tham gia quá trình TCH và hội nhập quốc tế bao gồm

hàng trăm các dân tộc và các nhà nước khác nhau: các nước tư
bản phát triển, các nước đang phát triển, các nước đi theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Các nước tư bản phát triển không chỉ theo đuổi mục tiêu trực
tiếp là lợi nhuận mà còn tìm cách chi phối, khống chế thị trường
thế giới, cải biến kinh tế các nước khác theo quỹ đạo của mình.
Ỷ thế có sức mạnh về kinh tế và khoa học công nghệ, các nước
tư bản phát triển đang thao túng các tổ chức kinh tế tài chính
toàn cầu như IMF, WB, WTO, áp đặt những quy chế và
phương thức hoạt động không bình đẳng gây thiệt hại càng
nghiêm trọng chủ quyền quốc gia của các nước đang và chậm
phát triển. Các nước dân tộc chủ nghĩa hội nhập để có điều kiện
phát triển thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Các nước đi theo định
hướng xã hội chủ nghĩa chủ động hội nhập để tranh thủ những
mặt có lợi trên thị trường thế giới phục vụ mục tiêu phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước phát
triển.
Trong bối cảnh đó để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia các
nước đang phát triển thông qua các tổ chức như UNTCAD,
nhóm G7, trung tâm Phương Nam và nhiều diễn đàn khác tăng
cường đoàn kết không ngừng đấu tranh ra sức chống lại sức ép
và sự thao túng của các nước tư bản phát triển.
Câu 2. Quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế và tính tất yếu
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo trong những năm qua đánh dấu bước phát triển mới
trong sự đổi mới tư duy lý luận cũng như phương thức lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước ta trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội kể cả trong lĩnh vực mở rộng quan hệ đối ngoại và

chủ động hội nhập quốc tế.
1. Quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan thì hội nhập kinh
tế quốc tế cũng là một tất yếu khách quan. Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế đã từng bước hình thành trong quá trình thực
hiện công cuộc đổi mới nói chung, trong quá trình triển khai
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa đa dạng hóa
nói riêng của các đại hội đảng toàn quốc từ lần thứ VI đến lần
thứ IX. Tại Đại hội IX của Đảng ta đã khẳng định: “chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường ”
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể được hiểu là:
Quá trình đi liền với toàn cầu hóa kinh tế, mà trọng tâm là
“mở cửa” nền kinh tế, là tiến hành tự do cạnh tranh, đưa các
doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cuộc cạnh tranh
quốc tế.
Sự tham gia vào phân công lao động quốc tế, tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng không gian và môi
trường để chiếm lĩnh những vị trí phù hợp nhất có thể được
trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Một cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế
và củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc văn hóa
dân tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập quan hệ tùy thuộc
lẫn nhau, đan xen nhau với nhiều tầng nấc ở các quốc gia khác
nhau.
Nói tới hội nhập kinh tế quốc tế là nói tới việc tham gia vào
các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực và thế giới, nhất là WTO;

là tự do hóa thương mại hàng hóa; là mở cửa thương mại dịch
vụ; là sự gia tăng các luồng giao lưu quốc tế về vốn, đầu tư, tài
chính, công nghệ thông qua đó mà thiết lập các mối quan hệ
thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ với các nước trên thế
giới dưới hình thức quan hệ song phương hay đa phương.
Xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với xu
thế toàn cầu hóa kinh tế, diễn ra với nhịp độ ngày càng tăng. Để
tránh nguy cơ tụt hậu và khỏi bị gạt ra ngoài quỹ đạo phát triển
chung đó, các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung,
ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của mình.
Nhìn chung, các nước đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế
thế giới và khu vực là nhằm tạo ra những điều kiện quốc tế
thuận lợi cho việc khai thác tối đa nội lực, khơi dậy các tiềm
năng kinh tế, đi đôi với việc tận dụng các ngoại lực nhằm thúc
đẩy hợp tác quốc tế có hiệu quả. Sự kết hợp hai loại yếu tố này
mở ra những cơ hội cho quá trình hội nhập quốc tế của các nước
đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
2. Tính tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
a.Về mặt khách quan:
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã và đang
tác động mạnh đến sự phát triển của thế giới.
Cách mạng khoa học và kỹ thuật trước đây và cách mạng
khoa học và công nghệ hiện nay (nhất là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động
hóa ) đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc, tạo ra
những phương tiện giao thông vận tải và thông tin liên lạc hiện
đại, mở rộng phân công lao động quốc tế trên phạm vi toàn cầu,
làm tăng sự phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền kinh tế
dân tộc.
Trước hết, phải kể đến công nghệ thông tin vì công nghệ

thông tin đang là cốt lõi của cuộc Cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại. Nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất,
trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản
phẩm. Trong cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
máy móc có thể thay thế một phần trí tuệ con người, làm cho tốc
độ tư duy và năng lực tư duy phức tạp mở rộng. Công nghệ
thông tin bao gồm cả phần cứng, như chế tạo các mạch vi điện
tử, máy vi tính, mạng máy tính… và các phần mềm hệ thống,
phần mềm ứng dụng. Ngoài ra, phải kể đến các loại thiết bị viễn
thông, điện tử công nghiệp, điện tử tiêu dùng, điện tử y tế, điện
tử quốc phòng… Đó đều là những bộ phận quan trọng của công
nghệ thông tin. Nền kinh tế mới sẽ được trang bị lại chủ yếu nhờ
áp dụng công nghệ thông tin, tạo ra các bộ não – thần kinh để
tích hợp ngày càng rộng trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, công
nghệ thông tin là yếu tố khoa học, là công nghệ cốt lõi tạo ra
điều kiện kỹ thuật của toàn cầu hoá nhờ hệ thống thông tin toàn
cầu, bao gồm hệ thống Internet.
Thứ hai, công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới
đầy bí hiểm của sự sống.
Khoa học hiện đại đã khám phá ra gen dưới dạng các phân
tử hình xoắn kép (ADN), hiểu rõ được mật mã của sự sống…,
đã tạo ra một tiềm năng vô tận cho việc sản xuất các vật phẩm
phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp để thoả mãn nhu
cầu ngày càng tăng của con người. Sự phát triển của công nghệ
sinh học, việc tạo ra những sinh vật và nhân giống chúng một
cách tối ưu đã mở ra những triển vọng vô cùng to lớn trong việc
tăng năng suất lao động, giải đáp những vấn đề nhu cầu cuộc
sống mà loài người trước đây chưa từng biết đến.
Thứ ba, nhiều công nghệ mới quan trọng khác như công

nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng
không vũ trụ… ra đời, mở ra những tiềm năng mới, triển vọng
mới. Ngày nay, việc sử dụng nguồn điện nguyên tử, thuỷ điện và
điện mặt trời ngày càng nhiều trong đời sống xã hội. Các vật liệu
mới như chất dẻo đặc biệt, vật liệu tổng hợp, sợi quang học…
thay thế ngày càng nhiều những nguyên liệu truyền thống.
Cuối cùng, đó là tự động hoá trong sản xuất. Tự động hoá
trong sản xuất giải phóng con người khỏi những công việc nặng
nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mở ra triển
vọng mới trong sự phát triển.
- Xu thế toàn cầu hóa đang gia tăng mạnh mẽ, buộc các
nền kinh tế quốc gia dân tộc phải mở cửa, hội nhập vào nền
kinh tế thế giới để phát triển nếu không bị lạc hậu.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ:
“Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan”. Tính khách quan ấy
bắt nguồn từ một số nhân tố sau:
Một là, toàn cầu hóa kinh tế - bước phát triển mới, cao của
quốc tế hóa kinh tế đã hình thành và phát triển qua một chặng
đường lịch sử khá dài, nó bắt nguồn từ sự phát triển lực lượng
sản xuất, từ tính chất xã hội hóa sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Trong các xã hội cổ xưa, các quốc gia dân tộc tồn tại tương
đối biệt lập, ít có quan hệ với nhau. Nhưng cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất thì các quan hệ cũng dần dần mở
rộng khỏi danh giới quốc gia, hình thành các mối quan hệ quốc
tế và quá trình quốc tế hóa được bắt đầu.
Hai là, sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học
– công nghệ.
Ở vào thế kỷ thứ XV, XVI nhờ có những phát kiến lớn về địa lý,
cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật hàng hải đã giúp các nước trên
châu lục thông thương, mở rộng giao lưu kinh tế, thương mại.

Đường sắt phát triển mạnh ở châu Âu và Bắc Mỹ từ giữa thế kỷ
XIX, tầu thủy xe hơi phát triển vào cuối thế kỷ XIX, đồng thời
với sự ra đòi của điện tín, điện thoại đã làm cho nền sản xuất
vật chất phát triển vượt biên giới quốc gia và khu vực.
Đặc biệt, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
mạnh vào những năm 70 của thế kỷ XX, đã tạo bước ngoặt trong
sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
làm cho phân công lao động ngày càng mở rộng trên phạm vi
quốc gia và quốc tế. Với cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, công nghệ thông tin và viễn thông xuất hiện, hệ thống
Internet bao trùm toàn cầu khiến quá trình toàn cầu hóa kinh tế
ngay càng sâu rộng.
Ba là, sự hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế và vai trò
ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) – lực
lượng chi phối toàn cầu.
Nhân tố này liên quan trực tiếp đến sự ra đời và ứng dụng
các công nghệ mới. Chúng ta thấy, sự phân công lao động quốc
tế dựa trên cơ sở chuyên môn hóa theo ngành trước đây, nay
chuyển sang chuyên môn hóa sản xuất trong nội bộ ngành, nghĩa
là chuyên môn hóa theo đối tượng, chi tiết sản phẩm, phân chia
giữa nhiều công ty độc lập, nằm ở nhiều nước khác nhau. Chẳng
hạn hãng Boing (Mỹ) đã sử dụng 600 công ty ở các nước khác
nhau để sản xuất các chi tiết, các linh kiện của máy bay Boing
747.
Sự ra đời và phát triển của các công ty xuyên quốc gia càng
làm cho sản xuất mang tính toàn cầu.
Ngày nay, số lượng TNCs trên thế giới có khoảng 60.000
công ty mẹ, chiếm 25% giá trị của sản xuất toàn cầu, 65% kim
ngạch mậu dịch thế giới,70% đầu tư nước ngoài, 90% công nghệ
cao với một hệ thống chi nhánh (công ty con) khoảng trên

500.000, như những vòi của con bạch tuộc khổng lồ bao trùm
khắp thế giới. Mặt khác, trao đổi giữa các chi nhánh trong nội bộ
TNCs ở các nước ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng giá trị thương mại của nhiều nước. Hầu hết các hoạt động
đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh TNCs. Với lợi thế
về quy mô vốn lớn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng
lưới thị trường rộng lớn TNCs tích cực đầu tư ra ngoài nhằm tối
đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. TNCs ngày càng đóng
vai trò quan trọng thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào các nước đang phát triển. Tóm lại, cách mạng khoa học -
công nghệ cùng với sự bành trướng của TNCs đã thúc đẩy phân
công lao động quốc tế, nhất là phân công trong nội bộ ngành
ngày càng sâu rộng, thúc đẩy mậu dịch và đầu tư quốc tế tăng
nhanh, làm tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân
tộc, phát triển mạnh mẽ hơn xu thế toàn cầu hóa kinh tế và các
lĩnh vực khác của xã hội.
Bốn là, các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế
đóng vai trò thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa.
Trong quá trình toàn cầu hoá nổi lên xu hướng liên kết kinh
tế, dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính
quốc tế, trước hết phải kể đến đó là Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB)…
Thông qua các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế
này, quy mô lưu thông vốn quốc tế lớn chưa từng thấy, tốc độ
tăng trưởng mậu dịch thế giới vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh
tế; các lĩnh vực hợp tác trong toàn cầu hoá kinh tế không ngừng
phát triển.
Do vậy có thể thấy, Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế là
sự cần thiết – tất yếu khách quan.
b.Về mặt chủ quan:

Do yêu cầu phát triển kinh tế của mình, cho nên và cần
thiết phải tiếp cận với thế giới bên ngoài, thực thi nền kinh tế mở
để tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, kết hợp với các nguồn lực
trong nước để phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước trùng với thời điểm trên thế giới đang diễn ra những
thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế. Hoà bình, hợp tác, phát
triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và
quốc gia trên thế giới. Các nước đều ưu tiên phát triển kinh tế,
cần có môi trường hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở
cửa.
Không một quốc gia nào có thể phát triển trong một thế
giới ngày càng được toàn cầu hoá mà không lỗ lực hội nhập vào
xu thế chung, điều chỉnh chính sách, giảm dần hàng rào thuế
quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, làm cho việc trao đổi
hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên
phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt Nam cũng
không phải là ngoại lệ. Vấn đề là phải hội nhập như thế nào và
tiến trình hội nhập ra sao cho phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện phát triển của mình. Ngay từ đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (1986) của Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới mà
quan trọng là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế. Đại hội VII
(1992), đại hội (1990) tiếp tục đường lối đa dạng hoá, đa
phương hoá các mối quan hệ. Đại hội IX (2000) Đảng và Nhà
nước càng nhấn mạnh tinh thần: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Chủ trương này đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình hội
nhập quốc tế của ta, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao
vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng

quốc tế.
Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập kinh tế quốc tế là việc
một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia vào các
định chế tài chính, kinh tế, thương mại quốc tế, mở rộng hợp tác
kinh tế với bên ngoài, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá
thương mại, đầu tư. Tham gia hội nhập quốc tế thực chất là tham
gia cuộc đấu tranh phưc tạp để góp phần phát triển kinh tế và
củng cố an ninh, chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của
mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn
nhau, đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia
khác.
Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ,
văn minh.
Câu 3: tác động của HNKTQT đến nền kinh tế Việt Nam kể
từ sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)

×