Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Khám nghiệm hiện trường theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ KIM HỒNG

KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƢỜNG
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƢỜNG
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
Học viên
: Lê Thị Kim Hồng
Lớp
: Cao học Luật, Phú n Khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Khám nghiệm hiện trường theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh. Những thông tin,
tài liệu trong Luận văn được thu thập một cách khách quan, trung thực, số liệu minh
chứng có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Tác giả

Lê Thị Kim Hoàng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

KNHT

Khám nghiệm hiện trường

VKS

Viện kiểm sát


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CHỦ THỂ KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƢỜNG THEO LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ..................................................................................7
1.1. Vấn đề nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể khám nghiệm
hiện trƣờng .............................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chủ thể khám nghiệm hiện trường ............................7
1.1.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chủ thể khám nghiệm
hiện trường ..........................................................................................................11
1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về các chủ thể trong hoạt động khám
nghiệm hiện trƣờng ..............................................................................................18
1.2.1. Tình hình áp dụng pháp luật về chủ thể tiến hành khám nghiệm hiện
trường ..................................................................................................................18
1.2.2. Những hạn chế trong áp dụng pháp luật về chủ thể tiến hành khám
nghiệm hiện trường và nguyên nhân...................................................................21
1.3. Các biện pháp đối với chủ thể khám nghiệm hiện trƣờng ........................28
1.3.1. Biện pháp hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với chủ thể
khám nghiệm hiện trường ...................................................................................28
1.3.2. Các biện pháp khác liên quan đến các chủ thể khám nghiệm hiện trường
.............................................................................................................................31
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................33
CHƢƠNG 2. CÁC HOẠT ĐỘNG CỤ THỂ CỦA KHÁM NGHIỆM HIỆN
TRƢỜNG THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................34
2.1. Vấn đề nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về các hoạt động cụ thể

của khám nghiệm hiện trƣờng ............................................................................34
2.1.1. Vấn đề nhận thức về các hoạt động cụ thể của khám nghiệm hiện trường
.............................................................................................................................34
2.1.2. Pháp luật tố tụng hình sự về các hoạt động cụ thể của khám nghiệm hiện
trường ..................................................................................................................36
2.2. Thực tiễn thực hiện các hoạt động cụ thể của khám nghiệm hiện trƣờng
vụ án hình sự.........................................................................................................41
2.2.1. Tình hình tiến hành các hoạt động cụ thể của khám nghiệm hiện trường
vụ án hình sự .......................................................................................................41


2.2.2. Những hạn chế trong thực tiễn tiến hành các hoạt động cụ thể của khám
nghiệm hiện trường và nguyên nhân...................................................................43
2.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả tiến hành các hoạt động cụ thể của
khám nghiệm hiện trƣờng ...................................................................................52
2.3.1. Biện pháp hoàn thiện pháp luật về các hoạt động cụ thể của khám nghiệm
hiện trường ..........................................................................................................52
2.3.2. Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động cụ thể
của khám nghiệm hiện trường ...........................................................................53
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................55
KẾT LUẬN ..............................................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khám nghiệm hiện trường (KNHT) là một hoạt động điều tra trong TTHS
nhằm xem xét, phát hiện, ghi nhận dấu vết của tội phạm để lại hiện trường vụ án.

KNHT được coi là một trong những biện pháp điều tra ban đầu và có thể được tiến
hành từ rất sớm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Với vai trị là một trong số
ít các biện pháp điều tra có thể thực hiện trước khi có quyết định khởi tố vụ án,
KNHT giúp cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm, thu thập những chứng cứ ban đầu của
vụ án, phục vụ cho việc điều tra, làm rõ vụ việc sau đó. Thơng qua hiện trường, cơ
quan tiến hành tố tụng có thể đưa ra những nhận định, đánh giá ban đầu về tính
chất, phương pháp, cách thức, thời điểm thực hiện tội phạm, những công cụ,
phương tiện được sử dụng cũng như nhiều thông tin cần thiết khác cho việc giải
quyết vụ án. Dựa trên kết quả KNHT ban đầu, CQĐT xem xét, nghiên cứu và ra
quyết định khởi tố hay khơng khởi tố vụ án hình sự cũng như lập ra kế hoạch điều
tra phù hợp trong giai đoạn tiếp theo của vụ án. Có thể nói, hiệu quả của hoạt động
điều tra bị chi phối ở mức độ đáng kể bởi kết quả KNHT, thậm chí trong nhiều
trường hợp kết quả KNHT mang tính chất quyết định đối với hiệu quả của hoạt
động điều tra. Trong nhiều vụ án, nếu không khám nghiệm hoặc KNHT không đúng
yêu cầu hoặc sai sót sẽ làm cho q trình điều tra vụ án gặp khó khăn, thậm chí bế
tắc, hoặc cũng có thể để lọt tội phạm hoặc dẫn đến những nhận định sai lầm, làm
oan người vô tội, trong khi nếu việc KNHT được thực hiện một cách có hiệu quả sẽ
giúp cho việc xác định phương hướng điều tra chính xác.
Để hoạt động KNHT đạt hiệu quả cao, giúp thu thập các tài liệu, dấu vết, đồ
vật có liên quan đến tội phạm một cách chính xác, đầy đủ, khách quan, cần phải có
các quy định pháp luật hồn thiện về vấn đề này, từ đó tạo cơ sở pháp lí vững chắc
cho các chủ thể có thẩm quyền trong việc thực hiện khám nghiệm trên thực tế. So
với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có sự hồn thiện hơn trong quy
định về biện pháp KNHT. Các chủ thể tham gia vào quá trình KNHT đã được bổ
sung và quy định một cách rõ ràng hơn. Các hoạt động hay chức năng, nhiệm vụ
của các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình khám nghiệm cũng được quy định cụ
thể hơn và được hướng dẫn chi tiết hơn trong các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều
này đã tạo nên cơ sở pháp lí vững chắc để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện một
cách có hiệu quả hoạt động KNHT trên thực tế, từ đó góp phần vào kết quả của hoạt
động điều tra, giải quyết vụ án.



2
Thực tiễn cho thấy hoạt động KNHT của các cơ quan có thẩm quyền trong
thời gian qua đã phát huy hiệu quả, giúp thu thập các chứng cứ một cách chính xác
đầy đủ, góp phần quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản chất của vụ án. Kết quả
KNHT góp phần làm căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, làm cơ sở để nhận định tính
chất, diễn biến vụ việc, giúp các cơ quan có thẩm quyền nhận định phương thức, thủ
đoạn gây án của người phạm tội và xây dựng nhiều giả thuyết hình sự khác. Tuy
nhiên, bên cạnh những điểm đạt được, thực tiễn cũng cho thấy hoạt động triển khai
của các lực lượng làm nhiệm vụ cịn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và vẫn còn
những lỗ hổng, những điểm hạn chế cần khắc phục. Chẳng hạn, việc khám nghiệm
khơng theo đúng thủ tục, trình tự pháp luật quy định, biên bản khám nghiệm ghi
không đầy đủ, bỏ sót các dấu vết quan trọng, tang vật chứng không được bảo quản
chặt chẽ... dẫn đến xác định phương hướng điều tra và đường lối giải quyết vụ án
khơng đúng. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia KNHT còn
chưa chặt chẽ dẫn đến hiệu quả chưa cao… Nguyên nhân của thực trạng này đến từ
nhiều khía cạnh, có cả ngun nhân khách quan và chủ quan, từ quy định của pháp
luật đến thực tiễn áp dụng pháp luật, năng lực của người tiến hành tố tụng, hay các
phương tiện, công cụ kỹ thuật được trang bị…
Như vậy, để phát huy hiệu quả của hoạt động KNHT địi hỏi phải có một
cơ sở pháp lí vững chắc làm nền tảng, đi cùng với đó là cơ chế đảm bảo việc áp
dụng pháp luật, một lực lượng người có thẩm quyền có chun mơn, năng lực,
được đào tạo bài bản, hệ thống trang thiết bị đầy đủ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu
và nhiều yếu tố khác. Trong đó, pháp luật TTHS hiện hành đã quy định tương
đối rõ về các chủ thể tham gia KNHT cũng như trình tự, thủ tục, cách thức tiến
hành khám nghiệm. Có thể thấy mặc dù so với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS
năm 2015 đã có sự hồn thiện đáng kể nhưng vẫn tồn tại những điểm hạn chế
cần sửa đổi, bổ sung để có thể điều chỉnh một cách tốt hơn đối với hoạt động
KNHT. Chẳng hạn một số quy định của pháp luật còn quá chung chung, thiếu cụ

thể dẫn đến sự lúng túng, không hiệu quả trong áp dụng; một số chủ thể có vai
trị quan trọng trong hoạt động KNHT trên thực tế nhưng lại khơng được điều
chỉnh bởi pháp luật…
Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật
và thực tiễn về KNHT để thấy được những thành tựu cũng như tồn tại thiếu sót, trên
cơ sở đó đưa ra những đề xuất giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động KNHT trên thực tế là cần thiết. Do đó, tác giả chọn thực hiện đề tài


3
“Khám nghiệm hiện trƣờng theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm Luận
văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua khảo sát cho thấy, đến thời điểm hiện nay, vấn đề liên quan đến KNHT
đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều học giả, người nghiên cứu khoa
học. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến KNHT và giải quyết được
những vấn đề lí luận có liên quan. Đây là nội dung mà Luận văn này sẽ kế thừa làm
nền tảng để tìm hiểu những vấn đề cụ thể liên quan đến KNHT.
Tuy nhiên, phần lớn những nghiên cứu này dừng lại ở mức độ bài báo đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành nên do sự giới hạn về mặt dung lượng, các các tác
giả thường chọn lọc một hoặc một số vấn đề đơn lẻ để trình bày. Có thể thấy, các
nghiên cứu thường đề cập đến KNHT ở một số khía cạnh cụ thể, chẳng hạn sự tham
gia của người có chun mơn trong hoạt động KNHT, KNHT trong những vụ án tai
nạn giao thông, KNHT trong vụ án cháy nổ…. Bên cạnh đó, cũng có một số đề tài
nghiên cứu trực tiếp hoạt động KNHT trong TTHS ở quy mô lớn hơn như các luận
văn thạc sĩ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu này vẫn chưa toàn diện và vẫn còn nhiều
nội dung liên quan chưa được giải quyết một cách thỏa đáng. Vì vậy, việc tiếp tục
đào sâu nghiên cứu nội dung liên quan đến KNHT trong TTHS vẫn cịn cần thiết.
Danh mục các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Hoàng Văn Trường (2021), Trao đổi về vị trí pháp lí của cán bộ kỹ thuật

hình sự trong hoạt động KNHT, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 1/2021. Trong bài
viết này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu vai trị, vị trí, tầm quan trọng của
cán bộ kỹ thuật hình sự trong quá trình KNHT. Bài viết cung cấp nhiều thơng tin và
góc nhìn thực tế về vấn đề có liên quan, từ đó đánh giá quy định của pháp luật liên
quan đến tư cách, vị trí pháp lí của cán bộ kỹ thuật hình sự trong KNHT. Do giới
hạn về dung lượng của bài viết nên tác giả chưa thể nghiên cứu một cách tổng quan
về hoạt động KNHT nói chung.
- Nguyễn Minh Tuấn (2017), Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành KNHT các
vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra vào ban đêm, Tạp chí Kiểm sát, số 16/2017.
Bài viết đi sâu vào phân tích hoạt động KNHT đối với một dạng vụ án cụ thể trong
trường hợp cụ thể, đó là các vụ tai nạn giao thơng xảy ra vào ban đêm. Tác giả nhìn
từ thực tiễn KNHT tai nạn giao thông vào ban đêm, chỉ ra những đặc điểm và
những điểm cần lưu ý đối với các chủ thể có thẩm quyền khám nghiệm khi gặp
trường hợp tương tự. Bài viết thiên về phân tích thực tiễn và chỉ đề cập đến một


4
khía cạnh của KNHT, chưa tìm hiểu một cách có hệ thống về hoạt động KNHT theo
quy định của pháp luật TTHS nói chung.
- Qch Đình Lực (2016), Đổi mới phương thức giảng dạy kỹ năng của
kiểm sát viên trong hoạt động KNHT và khám nghiệm tử thi, Tạp chí Nghề Luật,
số 05/2016. Bài viết đề cập đến KNHT ở một khía cạnh khác, đó là việc giảng dạy
kỹ năng của kiểm sát viên trong quá trình KNHT tử thi. Bài viết khơng nhìn từ
góc độ pháp luật TTHS, cũng không đề cập trực tiếp đến hoạt động KNHT vụ án
nhưng cung cấp cho người đọc một khía cạnh khác có liên quan và ảnh hưởng đến
hiệu quả của hoạt động KNHT trên thực tế.
- Nguyễn Thị Huân (2016), Nâng cao chất lượng kiểm sát KNHT các vụ án
"vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" tại VKS Quân
sự khu vực 32, Tạp chí Kiểm sát, số 12/2016. Bài viết khai thác một khía cạnh của
KNHT, đó là chất lượng của hoạt động kiểm sát khám nghiệm trong một dạng vụ

án cụ thể của một cơ quan VKS cụ thể. Tác giả chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong
quá trình thực hiện kiểm sát KNHT tại các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ tại VKS Quân sự khu vực 32, từ đó đưa ra một
số kiến nghị nhằm nâng cao hơn hiệu quả của hoạt động này trên thực tế. Bài viết
chủ yếu nhìn từ góc độ thực tế và được xuất bản vào thời điểm mà BLTTHS năm
2015 chưa có hiệu lực pháp luật.
- Nguyễn Thanh Tùng (2018), “KNHT theo luật Tố tụng hình sự Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cơng
trình này, tác giả đã tìm hiểu hoạt động KNHT theo luật TTHS Việt Nam dưới
hai khía cạnh chính là chủ thể khám nghiệm và bảo vệ hiện trường. Luận văn này
cũng tiến hành tìm hiểu thực tế KNHT chủ yếu tại ba địa phương là Tiền Giang,
Long An, Bến Tre. Đây là một nguồn tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả khi
tiến hành thực hiện đề tài của mình. Tuy có sự tiếp thu và tham khảo một số nội
dung của luận văn của tác giả Nguyễn Thanh Tùng nhưng tác giả nhận thấy luận
văn này vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Luận văn mới chỉ đề cập đến một số quy
định của pháp luật có liên quan đến KNHT nhưng chưa có sự tìm hiểu một cách
có hệ thống cũng chưa có sự phân tích cụ thể về vai trị, nhiệm vụ, chức năng của
mỗi chủ thể tham gia vào quá trình khám nghiệm. Trong đề tài này tác giả tiến
hành tìm hiểu hoạt động KNHT ở một khía cạnh khác cũng như tìm hiểu thực tế
KNHT ở phạm vi khác.


5
Và một số cơng trình nghiên cứu khác có liên quan.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu pháp luật TTHS về chủ thể KNHT và các
hoạt động cụ thể của KNHT, từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt
động KNHT trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tìm hiểu một số vấn đề nhận thức về chủ thể KNHT và các hoạt động cụ
thể KNHT.
- Phân tích các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về chủ thể KNHT và
các hoạt động cụ thể của KNHT.
- Đánh giá thực tiễn về chủ thể KNHT và các hoạt động cụ thể của KNHT
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả KNHT từ góc độ nghiên cứu về
chủ thể KNHT và các hoạt động cụ thể của KNHT.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là bản chất pháp lý và thực tiễn về chủ
thể KNHT và các hoạt động cụ thể của KNHT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ thể KNHT và
các hoạt động cụ thể của KNHT theo pháp luật TTHS Việt Nam.
Về không gian: Luận văn đánh giá thực tiễn vấn đề nghiên cứu trong phạm vi
cả nước, nhưng tập trung hơn ở địa bàn tỉnh Phú Yên.
Về thời gian: Tác giả nghiên cứu thực tiễn KNHT trong thời gian từ năm
2016 đến năm 2021.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được nghiên cứu theo quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, quan điểm của Đảng và nhà nước về cải cách tư pháp và vấn đề bảo đảm quyền
con người trong TTHS.
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả sẽ sử dụng các các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, phương pháp
chun gia, phân tích tình huống pháp lí điển hình. Cụ thể:


6
- Phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng một cách kết

hợp nhằm tìm hiểu một số vấn đề lí luận về chủ thể KNHT và các hoạt động cụ thể
của KNHT.
- Phương pháp thống kê, phương pháp chun gia và tình huống pháp lí điển
hình được áp dụng nhằm tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về chủ thể KNHT và
các hoạt động cụ thể của KNHT.
6. Kết quả nghiên cứu
Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần hồn thiện các
quy định của pháp luật về hoạt động KNHT theo Luật TTHS Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu của luận văn được hi vọng là có ý nghĩa và góp phần giải quyết một số
vấn đề về thực tiễn còn thiếu sót, bất cập trong hoạt động KNHT.
Tác giả hi vọng luận văn là một trong những tài liệu hữu ích cho việc học tập,
nghiên cứu pháp luật về vấn đề có liên quan. Đối với các cơ quan nhà nước, kết quả
nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng để tham khảo, ứng dụng trong hoạt động
KNHT của các cơ quan chức năng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chƣơng 1. Chủ thể KNHT theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chƣơng 2. Các hoạt động cụ thể của KNHT theo luật tố tụng hình sự Việt Nam


7
CHƢƠNG 1
CHỦ THỂ KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƢỜNG
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Vấn đề nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể khám
nghiệm hiện trƣờng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chủ thể khám nghiệm hiện trường
Khái niệm chủ thể khám nghiệm hiện trường
Lí luận Mac – Lênin đã chỉ ra rằng mọi vật chất đều có thuộc tính phản ánh.

Theo đó, khi một hành vi (bao gồm cả hành vi phạm tội) xảy ra sẽ gây ra những phản
ánh nhất định trong thế giới khách quan, bao gồm phản ánh vật chất và cả phản ánh
tinh thần. Trong đó, phản ánh vật chất được tồn tại dưới dạng vật thể, dấu vết hoặc
chất cụ thể mà con người có thể quan sát, nghiên cứu được. Loại phản ánh này mang
tính khách quan, có ý nghĩa rất lớn trong quá trình chứng minh vụ án. Dựa trên cơ sở
đó, khi một hành vi phạm tội xảy ra thì chắc chắn nó sẽ được phản ánh lại trong thế
giới khách quan và để lại dấu vết trong một khoảng không gian nhất định, cho dù
người phạm tội có dùng thủ đoạn tinh vi nhằm che dấu tội phạm của mình. Và bằng
khả năng nhận thức kết hợp với sự hỗ trợ của kỹ thuật hiện đại, con người hồn tồn
có khả năng tìm ra sự thật vụ án thông qua những dấu vết để lại.
Hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự cần
CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tổ chức
khám nghiệm để thu thập dấu vết, vật chứng và làm sáng tỏ những tình tiết có ý
nghĩa phục vụ q trình điều tra làm rõ bản chất vụ việc1. Thơng thường, hiện
trường vụ án là nơi tập trung các dấu vết, thông tin phản ánh về diễn biến của tội
phạm, người phạm tội, người bị hại, phương thức, thủ đoạn phạm tội... Do đó, việc
tìm hiểu những dấu vết để lại trên hiện trường vụ án có ý nghĩa vơ cùng quan trọng
đối với việc xác định sự thật vụ án.
KNHT có thể được hiểu là một biện pháp điều tra vụ án hình sự, được tiến
hành tại hiện trường nhằm phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, nghiên cứu,
đánh giá dấu vết, vật chứng của các vụ phạm tội hoặc vụ việc có tính hình sự đã
xảy ra2. Hoặc một cách khái quát hơn thì KNHT được coi là hoạt động điều tra
nhằm thu thập thông tin liên quan đến vụ việc tại chính nơi vụ việc đó xảy ra hoặc
Khoản 1 Điều 3 Thông tư 81/2021/TT-BCA Quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong
hoạt động KNHT của lực lượng Công an nhân dân.
2
Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, Nxb Cơng an nhân dân, tr71.
1



8
tại nơi phát hiện tội phạm. Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, thì KNHT là một
hoạt động điều tra đặc biệt quan trọng và có tính đặc thù. KNHT là quá trình sử
dụng các kiến thức khoa học, kỹ thuật, có sự hỗ trợ của các phương tiện nghiệp vụ,
nhằm phát hiện thu thập thông tin, dấu vết, vật chứng của tội phạm hoặc nghi có
liên quan đến tội phạm để xác định có hay khơng có tội phạm xảy ra và làm sáng tỏ
các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.
Để KNHT đạt hiệu quả, từ đó thu thập đầy đủ những dấu vết để lại của tội
phạm, phục vụ cho hoạt động điều tra giải quyết vụ án, vai trò của chủ thể tham gia
khám nghiệm là rất quan trọng. KNHT là một hoạt động điều tra trong TTHS, do đó
để các tài liệu, đồ vật, dấu vết thu thập được thông qua hoạt động khám nghiệm
đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ và có thể được sử dụng để chứng minh trong
vụ án, các chủ thể khám nghiệm phải được đảm bảo về thành phần theo quy định
của pháp luật cũng như phải có chun mơn, kĩ năng nhất định, phải có sự am hiểu
về pháp luật TTHS. Hiểu một cách khái quát nhất thì chủ thể KNHT là các cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành hoạt động KNHT theo quy định của pháp luật.
KNHT là một hoạt động điều tra trong TTHS, do đó q trình khám nghiệm
cần phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật về nhiều khía cạnh, bao gồm
thành phần tham gia khám nghiệm, trình tự, thủ tục khám nghiệm… BLTTHS năm
2015 đã quy định rõ những chủ thể trong hoạt động KNHT, trong đó bao gồm
những người có thẩm quyền khám nghiệm và những người tham gia tố tụng có
quyền tham gia vào hoạt động khám nghiệm. Theo đó, người có thẩm quyền khám
nghiệm là những người thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc là
người có chun mơn được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu và có
trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền trong việc khám nghiệm.
Những chủ thể này có quyền tiến hành các hoạt động khám nghiệm cụ thể trên hiện
trường nhằm thu thập dấu vết, chứng cứ liên quan đến tội phạm, từ đó thực hiện
nhiệm vụ giải quyết vụ án hình sự, Ngồi ra, bên cạnh những người có thẩm quyền
khám nghiệm, trong hoạt động KNHT cịn có sự tham gia của một số chủ thể khác
là những người tham gia tố tụng như người bào chữa, bị hại, người chứng kiến,

người làm chứng. Những chủ thể này tham gia KNHT với những tư cách, vai trị,
mục đích khác nhau nhưng khơng có thẩm quyền trực tiếp tiến hành các hoạt động
khám nghiệm mà chủ yếu là hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động khám
nghiệm, nhằm bảo đảm cho hoạt động khám nghiệm được tiến hành đúng quy định
của pháp luật hoặc được diễn ra một cách thuận lợi và đạt hiệu quả cao trong việc


9
thu thập dấu vết để lại, hoặc nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chính những
người tham gia tố tụng trong vụ án. Sự tham gia của những đối tượng này có thể là
bắt buộc nhằm bảo cho hoạt động KNHT về mặt thủ tục theo quy định của pháp
luật chẳng hạn như sự tham gia của người chứng kiến, và cũng có thể là khơng bắt
buộc như sự tham gia của người bào chữa, người làm chứng, bị hại.
Đặc điểm của chủ thể khám nghiệm hiện trường
- Thứ nhất, các chủ thể KNHT phải được quy định theo pháp luật TTHS.
KNHT là một hoạt động điều tra trong TTHS, do đó giống như tất cả các hoạt
động TTHS khác, chủ thể tiến hành KNHT phải được quy định cụ thể trong
BLTTHS. Theo đó, mỗi chủ thể sẽ có vai trò, nhiệm vụ cũng như tiến hành các
hoạt động khám nghiệm cụ thể khác nhau theo luật. Bên cạnh đó, KNHT là một
hoạt động điều tra tương đối phức tạp, địi hỏi các chủ thể tiến hành phải có kiến
thức, kĩ năng, trình độ nhất định cũng như địi hỏi sự phối hợp của nhiều chủ thể
khác nhau trong q trình khám nghiệm. KNHT khơng phải là một hoạt động đơn
lẻ mà bao gồm nhiều hoạt động nhằm phát hiện, thu thập, bảo quản các dấu vết
của tội phạm để lại trên hiện trường vụ án. Do đó trong quá trình khám nghiệm,
mặc dù các chủ thể tiến hành có những vai trị, nhiệm vụ riêng nhưng cần thiết
phải có sự phối hợp đồng bộ, ngay từ những bước đầu khám nghiệm như lên kế
hoạch, đề xuất phương án khám nghiệm. Theo pháp luật TTHS Việt Nam, CQĐT
hay Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là cơ quan
có vai trị chủ trì việc khám nghiệm, VKS là cơ quan thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động KNHT, Lực lượng kỹ thuật hình sự hay một số lực lượng khác

có liên quan tham gia khám nghiệm theo yêu cầu của CQĐT hay Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm phối hợp, hỗ
trợ, thực hiện theo yêu cầu của cơ quan chủ trì khám nghiệm. Trong q trình
KNHT, các cơ quan nói trên phải thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ được giao
và phải tích cực phối hợp, trao đổi với nhau nhằm bảo đảm hiệu quả, chất lượng
của hoạt động khám nghiệm.
- Thứ hai, chủ thể KNHT không chỉ là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng mà cịn có thể là những người có chun mơn được cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong những trường hợp cần thiết. Như đã trình bày,
KNHT khơng chỉ là một hoạt động điều tra thông thường mà cịn là một biện pháp
mang tính chất nghiệp vụ rất cao. Bản chất của công tác KNHT không phải chỉ đơn
thuần là viết biên bản, chụp ảnh, vẽ sơ đồ hiện trường mà vấn đề cốt lõi của nó là


10
phải khai thác được tối đa các thông tin, dấu vết ở hiện trường để xác định tính chất
của vụ việc, phục vụ đắc lực cho hoạt động điều tra. Nó là q trình tư duy lơgíc khoa
học dựa trên kiến thức chuyên môn khoa học, lý luận nghiệp vụ có sự hỗ trợ của các
phương tiện kỹ thuật chuyên dùng hiện đại3. Do đó trong thành phần chủ thể khám
nghiệm khơng chỉ bao gồm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà cịn có thể
bao gồm những chủ thể khác là những người có chun mơn, có sự am hiểu và kiến
thức sâu rộng về lĩnh vực cụ thể liên quan đến tội phạm đang được tìm hiểu. Theo
quy định của pháp luật TTHS, những người có chun mơn khơng phải là những
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhưng có thể tham gia KNHT trong những
trường hợp cần thiết. Khác với các chủ thể có thẩm quyền khác, sự tham gia của
người có chun mơn không phải là bắt buộc trong mọi trường hợp mà do tính chất,
sự yêu cầu của từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan chủ trì khám nghiệm xác định
có hay khơng cần thiết phải mời sự tham dự của người có chun mơn.
- Thứ ba, thành phần tiến hành KNHT có thể khác nhau tùy thuộc vào loại
hiện trường vụ án. Các hành vi tội phạm trên thực tế là rất đa dạng, xảy ra trên

nhiều lĩnh vực với các phương thức, thủ đoạn khác nhau. Do đó, việc thu thập
chứng cứ nói chung và việc KNHT nói riêng cũng sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng vụ
án cụ thể sao cho việc điều tra đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài những chủ thể bắt
buộc theo quy định của pháp luật như đại diện CQĐT (Cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra), VKS thì cũng có những chủ thể tiến hành
khám nghiệm khơng bắt buộc mà có thể thay đổi tùy trường hợp. Chẳng hạn, trong
những vụ án có người chết trên hiện trường thì sự tham gia của lực lượng giám định
pháp y là cần thiết nhằm xác định, phân tích, tìm hiểu về ngun nhân tử vong,
nhưng đối với các vụ án khác thì sự tham gia của lực lượng này là khơng cần thiết.
Hoặc tùy theo tính chất, mức độ của vụ tai nạn giao thơng thì thành phần tham gia
KNHT cũng có thể bao gồm Cán bộ kỹ thuật hình sự; Cảnh sát phịng cháy, chữa
cháy và cứu nạn, cứu hộ; Công an xã, phường, thị trấn, Đồn, Trạm nơi xảy ra vụ tai
nạn giao thông; đại diện đơn vị đăng kiểm phương tiện giao thông đường bộ hoặc
cá nhân, tổ chức có chun mơn (liên quan đến việc khám phương tiện cơ giới
đường bộ); đại diện đơn vị quản lý đường bộ, đại diện đơn vị quản lý cơng trình, đại
diện đơn vị chun mơn kỹ thuật về cơng trình liên quan đến vụ tai nạn (đối với vụ
tai nạn giao thông liên quan đến công trình cầu, đường, hầm); đại diện chính quyền
cấp xã nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông; đại diện cơ sở, doanh nghiệp (người có kiến
3

Trần Văn Luyện (2005), “Về sự tham dự của nhà chuyên môn trong hoạt động KNHT”, Tạp chí Kiểm sát, số 5.


11
thức chuyên môn về lĩnh vực giá, lĩnh vực định giá tài sản) để xác định giá trị thiệt
hại ban đầu về tài sản.4
1.1.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chủ thể khám nghiệm
hiện trường
BLTTHS năm 2015, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 gồm có 510 điều, chia thành 36

chương, 09 phần. Trong đó, các quy định có liên quan trực tiếp đến hoạt động
KNHT được quy định tại 06 điều luật gồm: Điều 37 - Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Điều tra viên; Điều 39 - Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp
trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan thuộc Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao tiến hành một số
hoạt động điều tra; Điều 40 - Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp trưởng,
cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều 42 - Nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên; Điều 147 - Thời hạn, thủ tục giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Điều 201- KNHT”.
Nội dung của các điều luật này quy định về cụ thể về các chủ thể trong hoạt
động KNHT trong BLTTHS năm 2015, cụ thể như sau:
Điều tra viên
Theo Khoản 1 Điều 201 BLTTHS năm 2015, “Điều tra viên chủ trì tiến hành
khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm để phát hiện dấu vết của tội phạm,
thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử khác liên quan và làm sáng tỏ
những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án”. Như vậy, theo quy định tại
điều luật này, Điều tra viên là chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động KNHT. Như đã
trình bày, khám nghiệm là một trong những hoạt động điều tra của CQĐT trong quá
trình tìm kiếm chứng cứ nhằm chứng minh vụ án. Do đó, cũng giống những hoạt
động điều tra khác, KNHT được trực tiếp thực hiện bởi Điều tra viên. Điều 37 về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên cũng quy định: “1. Điều tra
viên được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự có những
nhiệm vụ, quyền hạn: […] g) Tiến hành KNHT, khai quật tử thi, khám nghiệm tử
thi, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra”.
So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ ràng hơn về
vai trị “chủ trì” của Điều tra viên trong hoạt động KNHT. Theo đó, Điều tra viên
Khoản 3 Điều 9 TT63/2020/TT-BCA quy định quy trình điều tra, giải quyết tai nạn giao thông đường bộ
của lực lượng cảnh sát giao thông
4



12
không chỉ là người trực tiếp tiến hành hoạt động khám nghiệm mà cịn là người
“chủ trì” hoạt động này. Chủ trì KNHT là việc tiến hành và chịu trách nhiệm chung
về cơng tác KNHT5, do đó Điều tra viên là chủ thể chịu trách nhiệm việc lên kế
hoạch khám nghiệm, thông báo với VKS, tiến hành đo đạc, quan sát, vẽ sơ đồ, thu
thập dấu vết, hoàn thành các biên bản… Bởi là người chủ trì nên kiến thức, kỹ
năng, chun mơn của Điều tra viên có ảnh hưởng rất lớn đến tính hiệu quả của
hoạt động KNHT. Trong quá trình khám nghiệm, Điều tra viên phải chịu sự kiểm
sát của Kiểm sát viên và phải hoàn thành những yêu cầu liên quan đến hoạt động
khám nghiệm của Kiểm sát viên.
Việc quy định điều tra viên là người chủ trì trực tiếp tiến hành hoạt động
khám nghiệm là hồn toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
CQĐT. Theo đó, CQĐT có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra nhằm thu
thập chứng cứ, phục vụ hoạt động điều tra vụ án. Đồng thời đây cũng là cơ quan có
thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết các tố giác, báo tin về tội phạm hay kiến nghị
khởi tố. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật,
CQĐT tùy theo tình hình, tính chất của vụ việc mà có những hoạt động kịp thời.
Theo Khoản 1 Điều 5 TT81/2021/TT-BCA Quy định về phân công trách nhiệm và
quan hệ phối hợp trong công tác KNHT của lực lượng Cơng an nhân dân, “CQĐT
có trách nhiệm chủ trì và tiến hành cơng tác KNHT theo thẩm quyền:
a) CQĐT phải khẩn trương tiến hành những biện pháp điều tra nhằm truy bắt
đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, người vi phạm pháp luật theo dấu vết nóng,
tổ chức KNHT; xác định tung tích nạn nhân; thu thập thông tin do người làm chứng,
người bị hại, cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cung cấp;
b) Phân cơng Điều tra viên chủ trì;
c) Thơng báo cho Lực lượng kỹ thuật hình sự và các đơn vị nghiệp vụ có liên
quan để yêu cầu tham gia KNHT;
d) Lập Hội đồng KNHT (nếu cần thiết);

đ) Thông báo cho VKS cùng cấp và mời các thành phần khác tham dự, chứng
kiến, tham gia theo quy định của pháp luật;
e) Chủ trì, phân cơng và phối hợp với các lực lượng liên quan bảo vệ hiện
trường đảm bảo an ninh, trật tự, và các yêu cầu cần thiết khác để việc khám nghiệm
được thuận lợi;
Khoản 4 Điều 3 TT81/2021/TT-BCA Quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công
tác KNHT của lực lượng Công an nhân dân
5


13
g) Thường xuyên phối hợp với các bộ kỹ thuật hình sự và các lực lượng khác
trong quá trình khám nghiệm, cung cấp những thông tin liên quan, nghiên cứu, đánh
giá dấu vết, vật chứng để truy tìm ngay người phạm tội hoặc người vi phạm pháp
luật và làm rõ sự việc;
h) Quản lý, bảo quản dấu vết, vật chứng và hồ sơ KNHT;
i) Ký biên bản KNHT với tư cách là người chủ trì;
k) Căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT
hoặc Điều tra viên chủ trì phân cơng cán bộ trong tổ (hội đồng) khám nghiệm tiến
hành lập hồ sơ KNHT và chịu trách nhiệm về các nội dung trong hồ sơ KNHT”.
Như vậy, có thể thấy Điều tra viên theo sự phân cơng của CQĐT sẽ là chủ thể
chủ trì hoạt động KNHT, là người chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức, tiến hành
các hoạt động khám nghiệm cũng như lập hồ sơ về việc khám nghiệm, quản lý, bảo
quản dấu vết, vật chứng và chịu trách nhiệm về tồn bộ hoạt động KNHT nói chung.
Cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan của Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư, các cơ quan khác
của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra
Theo quy định tại các Điều 32, 34, 35, 36 Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm
2015, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ

đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư khi thực hiện nhiệm
vụ trong lĩnh vực quản lí của mình mà phát hiện tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án
và tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu, trong thời hạn 7 ngày trong trường
hợp tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm
ít nghiêm trọng nhưng phức tạp hoặc tiến hành khởi tố và điều tra toàn bộ đối với
vụ án đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng
cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng. Như vậy, một số cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
Cảnh sát biển, Kiểm ngư thì có quyền thực hiện hoạt động KNHT cho dù tội phạm
được phát hiện là tội ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, bởi KNHT được
coi là một trong những biện pháp điều tra ban đầu, có thể thực hiện trước khi khởi
tố vụ án hình sự. Cụ thể, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các cơ
quan này có thẩm quyền KNHT bao gồm Cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của
các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển,
Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.


14
Tuy nhiên tại khoản 2 và khoản 3 Điều 39 BLTTHS quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
thì những người được giao nhiệm vụ tiến hành mộ số hoạt động điều tra trong Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư, Cảnh sát biển chỉ có thẩm quyền
KNHT trong trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng và phạm tội quả tang, chứng cứ
và lí lịch của người phạm tội rõ ràng. Có thể thấy, quy định tại Điều 39 BLTTHS
năm 2015 không chỉ không thống nhất với Luật Tổ chức CQĐT hình sự 2015 mà
cịn không thống nhất với Điều 164 BLTTHS năm 2015 về Nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm Ngư. Theo
Khoản 1 Điều 164 BLTTHS năm 2015, “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội
phạm trong lĩnh vực và địa bàn quản lí của mình thì các cơ quan của Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang,
chứng cứ và lí lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho VKS có thẩm quyền
trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì quyết định
khởi tố vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án
cho CQĐT có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự”.
Trong số các biện pháp điều tra ban đầu trước khi khởi tố vụ án, bao gồm cả
biện pháp KNHT6. Như vậy, đã có sự khơng thống nhất về thẩm quyền KNHT của
chủ thể trong một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra giữa một số quy định của BLTTHS năm 2015 và giữa BLTTHS năm 2015 với
Luật Tổ chức CQĐT hình sự
Ngồi ra, Điều 40 BLTTHS năm 2015 cịn quy định thẩm quyền KNHT của
một số cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Thẩm quyền này cũng được nhắc lại ở Điều
38 Luật Tổ chức CQĐT hình sự 2015: “Trong khi thi hành nhiệm vụ mà phát hiện
sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền Điều tra của Cơ quan Cảnh sát
Điều tra thì Cục trưởng, iám đốc, Trưởng phịng, Giám thị của các cơ quan Cảnh
6

Khoản 3 Điều 147 BLTTHS năm 2015.


15
sát quy định tại Khoản 6 Điều 9 của Luật này quyết định khởi tố vụ án h nh
sự,...,KNHT, ..., chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra có thẩm quyền
trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án...”. Vậy khi phát

hiện sự việc thì các cơ quan Cảnh sát quy định tại Khoản 6 Điều 9 của Luật này
cũng có thẩm quyền KNHT và thực hiện các thủ tục tố tụng khác trong thời hạn 07
ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án thì phải chuyển cho cơ quan Cảnh sát
điều tra tiếp tục xử lí.
Bên cạnh sự chưa thống nhất trong các quy định của BLTTHS năm 2015
cũng như giữa BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức CQĐT hình sự về các trường
hợp mà Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được
quyền KNHT thì Điều 201 BLTTHS năm 2015 cũng chỉ đề cập đến hoạt động
KNHT của CQĐT mà không điều chỉnh hoạt động KNHT của cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo đó, Điều 201 quy định thủ tục
KNHT và trách nhiệm, vai trò của Điều tra viên với tư cách là người chủ trì khám
nghiệm. Tuy nhiên, chức danh Điều tra viên là chức danh thuộc CQĐT, trong cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khơng có chức danh
này. Những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định cụ thể tại Khoản 2
Điều 35 BLTTHS năm 2015.
Trách nhiệm của Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra trong KNHT được hướng dẫn tại Điều 6 TT81/2021/TT-BCA, cụ thể như sau:
“1. Tổ chức và chủ trì cơng tác KNHT theo thẩm quyền:
a) Thực hiện các quy định tại điểm a, d, đ, e, f, g, h, i khoản 1 Điều 35 Thơng
tư này;
b) Phân cơng cán bộ chủ trì;
c) Thơng báo cho Lực lượng kỹ thuật hình sự và các đơn vị nghiệp vụ có liên
quan để yêu cầu tham gia KNHT nếu cần thiết;
d) Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, cấp trưởng, cấp phó cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc cán bộ điều tra chủ trì phân
cơng cán bọ trong tổ (hội đồng) khám nghiệm tiến hành lập hồ sơ KNHT và chịu
trách nhiệm về các nội dung trong hồ sơ KNHT.
2. Phân công cán bộ tham gia đối với vụ việc chuyển cho CQĐT chủ trì KNHT”.
Như vậy, thơng qua quy định trên có thể thấy Cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra có thể tham gia KNHT với một trong hai vai


16
trị: vai trị chủ trì hoạt động khám nghiệm hoặc tham gia bên cạnh CQĐT trong
những trường hợp chuyển vụ án cho CQĐT chủ trì khám nghiệm.
Kiểm sát viên
Theo Khoản 2 Điều 201, “Trước khi tiến hành KNHT, Điều tra viên phải
thông báo cho VKS cùng cấp biết về thời gian, địa điểm tiến hành khám nghiệm để
cử Kiểm sát viên kiểm sát khám nghiệm hiện trường. Kiểm sát viên phải có mặt để
kiểm sát việc KNHT”. Với chức năng, nhiệm vụ của VKS, thì Kiểm sát viên có mặt
tại nơi khám nghiệm là nhằm kiểm sát việc khám nghiệm của điều tra viên. Trên cơ
sở của pháp luật TTHS, Kiểm sát viên phải kiểm sát tính hợp pháp của hoạt động
khám nghiệm, kiểm sát việc chấp hành các thủ tục, trình tự khám nghiệm, kiểm sát
các hoạt động khám nghiệm, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, đúng quy
định của BLTTHS và đạt hiệu quả, mục đích của hoạt động khám nghiệm.7 Tuy
BLTTHS năm 2015 quy định Điều tra viên là người chủ trì hoạt động KNHT nhưng
sự có mặt của Kiểm sát viên trong hoạt động này là bắt buộc. Do đó, để đảm bảo
thủ tục, BLTTHS năm 2015 quy định Điều tra viên phải thông báo cho VKS cùng
cấp biết về việc tiến hành hoạt động KNHT với thời gian, địa điểm chính xác.
Nhiệm vụ, quyền hạn cũng như những hoạt động cụ thể của Kiểm sát viên
trước, trong và sau khi KNHT được quy định cụ thể trong Quy chế hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố, ban hành kèm theo
Quyết định số 111 /QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao.
Theo đó, để hoạt động kiểm sát việc KNHT được hiệu quả, sau khi đã nhận được
thông báo của CQĐT và trước khi KNHT, Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình
hình, yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra thông báo nội dung, diễn biến ban đầu
của sự việc xảy ra, hoạt động bảo vệ hiện trường. Đồng thời, Kiểm sát viên cũng có
thể tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm, phương pháp khám nghiệm,
chủ động yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra tiến hành KNHT, kiểm tra đầy đủ

thành phần trước khi tiến hành khám nghiệm bảo đảm đúng quy định tại Điều 201
BLTTHS năm 2015.
Trong q trình KNHT, Kiểm sát viên phải có mặt và chứng kiến hoạt động
khám nghiệm từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Việc tham gia của đại diện VKS vào
hoạt động KNHT không chỉ xuất phát từ chức năng kiểm sát mà còn xuất phát từ
chức năng thực hành quyền cơng tố. Do đó, sự có mặt của Kiểm sát viên không chỉ
Nguyễn Thị Huân (2016), “Nâng cao chất lượng kiểm sát KNHT các vụ án "vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ" tại Viện kiểm sát Quân sự khu vực 32”, Tạp chí Kiểm sát, số 12, tr15
7


17
dừng lại ở việc theo dõi, giám sát mà còn phải phối hợp với Điều tra viên, Cán bộ
điều tra, người có chun mơn để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự, phương
pháp KNHT, hoặc Kiểm sát viên chủ động đề ra những yêu cầu khám nghiệm trong
trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật.
Kết thúc cuộc khám nghiệm, Kiểm sát viên phải có trách nhiệm phối hợp
cùng Điều tra viên, Cán bộ điều tra phân tích, đánh giá đúng kết quả KNHT; xem
xét quyết định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể
khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng, đồ
vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu
để phục vụ cho hoạt động điều tra, giải quyết vụ án.
Người có chun mơn
Người có chun mơn là những người có kiến thức sâu về một lĩnh vực riêng,
một ngành khoa học, kỹ thuật nhất định. Khoản 2 Điều 201 quy định khi cần thiết,
người có chun mơn có thể được mời tham gia việc khám nghiệm. Quy định cho
phép người có chun mơn tham gia KNHT là cần thiết bởi KNHT không chỉ là
một hoạt động TTHS mà còn là một biện pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ của
ngành Công an trong việc thu thập chứng cứ. Đối tượng của KNHT cũng có những
đặc thù nhất định, đó là những dấu vết, vật chứng, đồ vật, dữ liệu điện tử có liên

quan đến vụ việc phạm tội. Những đối tượng này cần phải áp dụng những phương
pháp, phương tiện đặc thù mới có thể phát hiện, thu lượm, bảo quản, đánh giá đảm
bảo khai thác các thơng tin có giá trị tốt nhất cho điều tra, xử lí vụ phạm tội xảy ra8.
Trong khi đó Điều tra viên lại khơng phải là người có kiến thức chun sâu trên mọi
khía cạnh. Do đó, cần có sự hỗ trợ từ những người có chuyên môn, thông thường là
các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khoa học kỹ thuật cần thiết có liên quan đến việc
KNHT như bác sĩ pháp y, chuyên gia về dấu vết, súng đạn...
Trong những “người có chun mơn” tham gia vào việc KNHT, cần lưu ý
đến chủ thể là các cán bộ kỹ thuật hình sự. Lực lượng kỹ thuật hình sự khơng được
đề cập trực tiếp trong Điều 201 BLTTHS năm 2015 nhưng đây được coi là lực
lượng không thể thiếu trong hoạt động KNHT. Theo Thông tư 81/2021/TT-BCA
ngày 26/7/2021 của Bộ Công an quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ
phối hợp trong hoạt động KNHT của lực lượng Cơng an nhân dân thì khi tiến hành
KNHT, CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Hoàng Văn Trường (2021), “Trao đổi về vị trí pháp lý của cán bộ kỹ thuật hình sự trong hoạt động KNHT”,
Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số 01, tr43.
8


18
đều phải thơng báo cho lực lượng kỹ thuật hình sự và các đơn vị nghiệp vụ có liên
quan để yêu cầu tham gia KNHT9. Cũng theo Thông tư này, lực lượng kỹ thuật hình
sự có trách nhiệm: Khẩn trương chuẩn bị đầy đủ phương tiện kỹ thuật chuyên dùng
cho việc khám nghiệm và tổ chức lực lượng đến hiện trường khi có u cầu; Chủ
động nghiên cứu tình hình hiện trường để đưa ra phương pháp, chiến thuật và sử
dụng phương tiện khám nghiệm phù hợp; Trực tiếp thực hiện các hoạt động KNHT
theo yêu cầu của CQĐT và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra; Phối hợp với cán bộ chủ trì KNHT thiết lập hồ sơ KNHT; Bảo vệ bí
mật những thông tin về kết quả của hoạt động KNHT theo chế độ quản lí tài liệu
nghiệp vụ của ngành cơng an.10

Đánh giá quy định của pháp luật, có thể thấy tuy đề cập đến sự tham gia của
người có chuyên mơn trong hoạt động KNHT nhưng pháp luật TTHS nói chung,
BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành nói riêng đều khơng có quy
định cụ thể về khái niệm người có chun mơn cũng như vai trị, vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của chủ thể này trong KNHT. Các quy định về vấn đề này còn quá chung
chung, từ đó đặt ra nhiều câu hỏi. Thứ nhất, về việc xác định thế nào là người có
chun mơn, liệu có cần bằng cấp, chứng chỉ để chứng minh năng lực của những
người này hay không. Thứ hai, sự tham gia của người có chun mơn vào hoạt động
KNHT ở mức độ nào. Khi tham gia khám nghiệm, người có chun mơn sẽ chứng
kiến hoạt động của người tiến hành tố tụng (như người chứng kiến) hay đưa ra
những nhận xét, tư vấn mang tính hỗ trợ hay có thể trực tiếp tiến hành các biện pháp
hỗ trợ nhằm phát hiện, thu thập, bảo quản các dấu vết. Thứ ba, trên thực tế, lực
lượng kỹ thuật hình sự tham dự khá sâu vào hoạt động KNHT, thậm chí trực tiếp
tiến hành các hoạt động khám nghiệm cụ thể theo ý kiến chỉ đạo của Điều tra viên
chủ trì. Tuy vậy, luật khơng có quy định những vấn đề liên quan đến vị trí pháp lí,
quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ chuyên trách về kỹ thuật hình sự.
1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về các chủ thể trong hoạt động khám
nghiệm hiện trƣờng
1.2.1. Tình hình áp dụng pháp luật về chủ thể tiến hành khám nghiệm hiện trường
Trong thời gian qua hoạt động KNHT được các cơ quan chức năng tiến hành,
chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Từ đó hoạt động KNHT được tiến hành thuận lợi,
khẩn trương, đúng quy định pháp luật, tạo cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng
9

Điều 5, Điều 6 TT 81/2021/TT-BCA
Điều 7, TT 81/2021/TT-BCA

10



19
giải quyết vụ án được khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhờ làm
tốt hoạt động này nên giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử đạt hiệu quả, chất lượng
cao. Lực lượng tham gia KNHT đã cho thấy sự tỉ mỉ, thận trọng, thu thập đầy đủ
dấu vết có tại hiện trường. Cơng tác quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong hoạt
động KNHT được phối hợp chặt chẽ, kịp thời trong thu thập dấu vết, chứng cứ
nhằm phục vụ tốt nhất cho việc chứng minh tội phạm. Đặc biệt là quan hệ phối hợp
giữa VKS và CQĐT trong thời gian qua Lãnh đạo hai ngành Công an và VKS chỉ
đạo sâu sát đối với các khâu công tác này. Nhờ phối hợp nhịp nhàng nên trong thời
gian qua hoạt động KNHT được lực lượng chức năng thực hiện khá thuận lợi, đạt
hiệu quả cao góp phần giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn
Thực tế cho thấy, nhìn chung, hoạt động KNHT của về cơ bản đã được đảm
bảo. Điều tra viên đã thể hiện tinh thần, trách nhiệm cao trong chủ trì KNHT, tôn
trọng và tiếp thu ý kiến của các lực lượng khác cùng tham gia, luôn chủ động trao
đổi thông tin giữa các lực lượng, thể hiện vai trò, trách nhiệm cao từ khi bố trí lực
lượng, phương tiện đến hiện trường và khi kết thúc công các khám nghiệm, đánh
giá, kết luận dựa trên các căn cứ rõ ràng, trên cơ sở khoa học, khách quan và tính
liên quan. Từ đó, kết quả khám nghiệm rất có giá trị và là cơ sở cho công tác điều
tra khám phá vụ án.
Từ năm 2016 đến năm 2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú
Yên đã thụ lý 3103 vụ án các loại, trong đó có 4221 bị can, cụ thể11:
Năm
2016
2017
2018
2019
2020
Tổng

Tổng

Tổng
Chuyển
Đình chỉ
thụ lý
giải quyết
VKS
Bị
Bị
Bị
Bị
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Can
Can
Can
Can
843 1148 630 946 497 907 30 30
609 830 608 834 447 777 45 46
556 641 543 623 338 515 58 84
541 813 541 794 350 700 47 50
554 789 518 725 354 658 47 49
3103 4221 2840 3922 1986 3557 227 259

Tạm
đình chỉ
Bị
Vụ
Can

103 9
116 11
134 8
126 31
117 18
596 77

KNHT
Vụ
975
1.216
1914
1792
1800
7697

Không chỉ thể hiện thông qua số lượng, chất lượng của hoạt động KNHT cũng
được bảo đảm khi thơng qua hoạt động này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
đã kịp thời thu lượm được nhiều dấu vết quan trọng, có giá trị chứng minh tội phạm
hoặc xác định bản chất sự việc, góp phần định hướng cho các hoạt động điều tra tiếp
11

Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Phú Yên, Báo cáo tổng kết công tác điều tra, xử lý tội phạm các năm


×