Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.68 MB, 195 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG NGUN KIM
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SĨC, NUÔI DƯỠNG
GIỮA CHA MẸ VÀ CON

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

BÌNH THUẬN – NĂM 2021

BÌNH THUẬN, NĂM 2021


aisdgasdgso

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SĨC, NI DƯỠNG
GIỮA CHA MẸ VÀ CON

Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số chuyên ngành: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN
Học viên: DƯƠNG NGUN KIM
Lớp: Cao học luật Khố 2 Bình Thuận



BÌNH THUẬN - NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên
cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Hải An.
Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một số thơng tin từ các Bộ luật, nguồn
sách, tạp chí, tài liệu, các trang thông tin điện tử, báo mạng... được liệt kê trong danh
mục tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả

Dương Nguyên Kim


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ được viết tắt

STT

Từ viết tắt

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2


BLHS

Bộ luật Hình sự

3

HN&GĐ

4

TAND

Tịa án nhân dân

5

HĐXX

Hội đồng xét xử

6

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

Hơn nhân và Gia đình



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SĨC, NI DƯỠNG CỦA CHA
MẸ ĐỐI VỚI CON ....................................................................................................... 9
1.1. Về đánh giá khả năng chăm sóc, ni dưỡng con để xác định người trực tiếp
chăm sóc, ni dưỡng của cha mẹ đối với con........................................................... 9
1.2. Về nghĩa vụ và quyền cấp dưỡng của cha mẹ đối với con ................................ 15
1.3. Về liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho con sau khi ly hôn...................... 22
1.4. Về nghĩa vụ và quyền trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng của cha mẹ đối với con .... 24
Kết luận Chương 1.................................................................................................. 288
CHƯƠNG 2. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SĨC, NI DƯỠNG CỦA CON
ĐỐI VỚI CHA MẸ ................................................................................................. 3029
2.1. Về xác định mức độ thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ của con
cái.......................................................................................................................... 3029
2.2. Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ ................................................................ 343
2.3. Về xác định nghĩa vụ và quyền của người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ
................................................................................................................................ 376
2.4. Mối liên hệ giữa nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ đối với quyền hưởng di
sản thừa kế và điều kiện của hợp đồng tặng cho tài sản ....................................... 3938
Kết luận chương 2 .................................................................................................. 443
KẾT LUẬN CHUNG................................................................................................ 454


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ tinh thần được quy định trong Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Cha mẹ có trách nhiệm ni dạy con cái thành những công dân tốt…Nhà nước
và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”. Gia đình là tập hợp

những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật
hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) nói riêng và Hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, cuộc sống hiện đại, sự đầy đủ hơn
về vật chất khiến cho đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng có nhiều
thuận lợi hơn. Tuy nhiên, cũng tồn tại khơng ít những mặt trái của nó. Một trong số
đó là sự gia tăng các vụ án hôn nhân và gia đình và những giá trị truyền thống của gia
đình đang ngày càng bị mai một, bào mịn. Trong gia đình, mọi quan hệ đều dựa trên
cơ sở tình cảm, nếu như quan hệ vợ chồng là quan hệ dựa trên cơ sở hơn nhân thì
quan hệ giữa cha mẹ và con lại dựa trên quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng mà ở
đó chứa đầy tình cảm u thương gắn bó, mang trong đó là ý thức và trách nhiệm.
Người ta có quyền ly hơn vợ hoặc chồng bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của
Tịa án nhưng khơng ai có quyền chối bỏ trách nhiệm đối với con của mình, hoặc
nghĩa vụ của con cái đối với cha, mẹ.
Hệ thống pháp luật Việt Nam, mà cụ thể là Luật HN&GĐ và văn bản liên quan
đã ngày càng hồn thiện hơn, có những quy định cụ thể và phù hợp với thực tiễn hơn,
việc giải quyết nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con được quy định khá đầy đủ.
Tuy nhiên trong điều kiện xã hội hiện nay, khi mà trong xã hội có nhiều sự thay đổi
do tác động của nhiều yếu tố; lối sống và nhân cách cá nhân chịu những áp lực, thách
thức bởi nhiều loại thang bậc giá trị; sự đề cao giá trị vật chất; sự thờ ơ, thiếu trách
nhiệm của các bậc cha mẹ đối với con, giữa con cái đối với cha mẹ diễn ra ngày càng
phổ biến… thì các nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ đối với con theo quy định của Luật
HN&GĐ Việt Nam có thực sự được thực thi một cách triệt để? Nội dung cụ thể của
những quy định này như thế nào? Cũng như những mối quan hệ gia đình khác, quan
hệ giữa cha mẹ và con chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các quy phạm đạo đức và quy


2


phạm pháp luật. Bên cạnh sự gắn kết về mặt tình cảm, cha mẹ có rất nhiều quyền và
nghĩa vụ “mang tính tài sản” đối với con.
Thơng thường, cha mẹ trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con. Tuy
nhiên, trên thực tế cũng có khơng ít các trường hợp cha mẹ khơng có điều kiện để
chung sống cùng con. Khơng ít những vụ án HN&GĐ Tịa án thụ lý, giải quyết, trong
đó đa số cả cha và mẹ đều mong muốn là người được trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng
con chung nhưng khơng ít những trường hợp cả cha và mẹ đều từ chối việc nuôi
dưỡng, không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hoặc chỉ nhận một phần trách nhiệm
nhỏ khơng đáp ứng được nhu cầu cần chăm sóc, nuôi dưỡng,...
Ngược lại, nghĩa vụ của con đối với cha mẹ trong thực tiễn vẫn gặp nhiều vấn
đề còn bất cập. Vấn đề này không chỉ chịu sự điều chỉnh của quy phạm đạo đức mà
còn bởi các quy định của pháp luật.
Đây là loại án tranh chấp mà việc giải quyết của cơ quan tiến hành tố
tụng thường gặp nhiều khó khăn, nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa
cha mẹ và con nếu không giải quyết dứt điểm thì sẽ khơng được bảo đảm. Việc
áp dụng các quy định của pháp luật về lĩnh vực này trong quá trình xét xử, vì những
lý do khách quan hoặc chủ quan, vẫn còn phát sinh nhiều tồn tại, hạn chế; trong đó
có những vướng mắc nhất định về mặt pháp luật hoặc việc thi hành phần quyết định,
bản án có liên quan.
Chính vì vậy, việc chọn đề tài: “Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa
cha mẹ và con” làm đề tài luận văn thạc sỹ là thực sự cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn
mà khơng ít những người tiến hành tố tụng đang gặp phải khó khăn, áp dụng pháp
luật chưa thực sự thống nhất.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng con là mảng
đề tài khá quan trọng trong Luật HN&GĐ. Vì vậy, ở các mức độ khác nhau, nhiều đề
tài tập trung nghiên cứu chuyên sâu về lý luận, một số đề tài lại chủ yếu nghiên cứu,
bình luận thực tiễn áp dụng pháp luật thơng qua bình luận, đánh giá các bản án, quyết
định của Tồ án, cũng có cơng trình lại chỉ nghiên cứu một phần nhỏ trong nghĩa vụ
và quyền về chăm sóc, ni dưỡng con của cha, mẹ. Có thể liệt kê ra các nhóm cơng

trình sau:


3

Nhóm giáo trình, sách chun khảo:
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật hơn nhân và
gia đình Việt Nam” (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam. Giáo trình đã có những phân tích, đưa các vấn đề pháp lý cơ bản tại
Chương VI “Nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ và con”. Có thể nói rằng, cơng trình
nghiên cứu này đã giải quyết khá thành cơng về mặt lý luận của chủ đề này, vì vậy
đây là nguồn tài liệu quan trọng đối với tác giả khi triển khai nghiên cứu những vấn
đề lý luận trong luận văn. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này là giáo trình, được
biên soạn nhằm phục vụ cho việc giảng dạy tại các cơ sở đào tạo Luật, vì vậy khơng
đi vào phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, do vậy nhóm tác giả khơng
hướng đến việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Nguyễn Hải An (2012), Pháp luật về tặng cho quyền sử dụng đất ở Việt Nam,
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung sách đề cập đến vấn đề tặng cho quyền
sử dụng đất của cha mẹ cho con cái có kèm theo điều kiện chăm sóc, ni dưỡng.
Qua đó, tác giả tham khảo quan điểm của nhà khoa học nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề quyền và nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ
của con cái, vận dụng và đưa ra các đánh giá, kiến nghị tập trung vào phần 2 của luận
văn.
Lê Vĩnh Châu (Chủ biên) (2018), Sách tình huống (Bình luận án) Luật hơn
nhân và gia đình, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. Đây là cơng trình
khơng đi sâu vào nghiên cứu về mặt lý luận, mà nhóm tác giả hướng đến việc phân
tích, bình luận, đánh giá, nêu quan điểm cá nhân thông qua các bản án, quyết định
của Tồ án. Có thể nói rằng, cơng trình nghiên cứu này sẽ giúp ích cho tác giả rất
nhiều trong việc tiếp cận, phân tích, bình luận một số vụ việc trong thực tế, cũng như
hướng đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni

dưỡng của cha mẹ với con.
Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam, Tập 1 – Gia đình, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong tài liệu này,
tác giả tập trung phân tích, bình luận, chỉ ra điểm tích cực cũng như hạn chế trong
các điều luật của Luật HN&GĐ năm 2000. Phần nghĩa vụ và quyền giữa cha, mẹ và
con được phân tích, bình luận khá chi tiết. Đây cũng là tài liệu giúp tác giả tham khảo
trong nghiên cứu của mình. Tuy nhiên cơng trình được nghiên cứu dựa vào Luật


4

HN&GĐ năm 2000, hiện nay hết hiệu lực, do vậy bên cạnh việc kế thừa một số nội
dung vẫn còn tương thích giữa Luật HN&GĐ năm 2000 với Luật HN&GĐ năm 2014,
tác giả cần mở rộng việc nghiên cứu của mình trên nền tảng pháp Luật HN&GĐ hiện
hành.
Nhóm luận văn, luận án:
Nguyễn Văn Vi (2004), Chế định cấp dưỡng trong pháp luật dân sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã
giới thiệu lý luận chung về vấn đề cấp dưỡng và chế định. Tuy nhiên, tác giả tập trung
nghiên cứu về quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, trong đó tại
Chương III tác giả nghiên cứu thực trạng thi hành pháp luật về cấp dưỡng, chỉ ra
những nguyên nhân và giải pháp cho việc hoàn thiện chế định cấp dưỡng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, đây là vấn đề đáng quan tâm cần nghiên cứu trong giai
đoạn thi hành án về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con;
Huỳnh Ngọc Yến Linh (2015), “Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con theo
pháp luật hơn nhân và gia đình”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả tiếp tục nghiên cứu về lý luận chung nghĩa vụ
cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con sau ly hôn của tác giả Lê Huyền Kim. Tuy nhiên, tại
thời điểm khóa luận thì Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực pháp luật nên khi nghiên
cứu có nhiều nét tương đồng với luận văn. Tác giả cũng đặt ra nhiều vấn đề lý luận

chung về cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con theo pháp luật HN&GĐ năm 2014 và tác
giả cũng nêu ra thực trạng, giải pháp đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và
con. Đây là phần luận cần nghiên cứu thêm để hoàn thiện trong hoạt động thi hành
án về cấp dưỡng.
Hoàng Thị Thu Huyền (2016), “Nghĩa vụ cấp dưỡng theo Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014”, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học luật Hà Nội. Đây là luận
văn nghiên cứu về nghĩa vụ cấp dưỡng từ Luật HN&GĐ năm 1959 đến năm 2000.
Tác giả đã giới thiệu khá chi tiết về lịch sử hình thành nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối
quan hệ gia đình, cha mẹ, ơng bà, con chung và so sánh nghĩa vụ cấp dưỡng một số
nước trên thế giới. Tuy nhiên, luận văn chưa chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và
nghiên cứu chi tiết về nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật HN&GĐ năm 2014 để từ đó đề
ra thực trạng và kiến nghị.


5

Về cơ bản, các cơng trình, bài viết nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con; có ý nghĩa về
mặt lý luận và thực tiễn và là nguồn tài liệu tham khảo phong phú, có giá trị lớn đối
với luận văn của tác giả. Tuy nhiên, hiện tại chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu
và thực hiện theo hướng ứng dụng về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa
cha mẹ và con trong vụ án HN&GĐ, từ thực tiễn xét xử của Tịa án.
Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá và tổng hợp một cách có hệ thống các hồ
sơ, bản án xét xử trong lĩnh vực này từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
HN&GĐ hiện hành về vấn đề nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ
và con trong vụ án HN&GĐ; chỉ ra những tồn tại, vướng mắc và hướng hoàn thiện
trong thời gian tới là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu và
thực hiện Luận văn của mình.
Với xu hướng các vụ án HN&GĐ hiện nay ngày càng tăng và việc Luật
HN&GĐ năm 2014 được ban hành đi vào trong thực tiễn xét xử tại Tịa án, thì việc

nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc giải quyết nghĩa vụ và quyền chăm
sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con là điều rất quan trọng, qua nghiên cứu sẽ thấy
được những tiến bộ của Luật HN&GĐ năm 2014 và những hạn chế, bất cập trong
quá trình áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp khi ly hơn.
Thực tiễn xét xử tại Tịa án nhân dân các cấp hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa cha
mẹ và con, chỉ ra những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật
trong lĩnh vực này, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, luận văn phải phát hiện và giải quyết các vấn đề mang tính hệ thống
và cơ bản các quy định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi
dưỡng giữa cha mẹ và con;


6

Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, chỉ ra bất cập, vướng mắc của
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng
giữa cha mẹ và con;
Thứ ba, đề xuất giải pháp pháp lý hoặc cơ chế thực hiện pháp luật HN&GĐ
trong lĩnh vực này, nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật, phù hợp với
thực trạng, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội hiện nay tại Việt Nam.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành trong lĩnh vực
HN&GĐ về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con, từ thực

tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Cụ thể là nghiên
cứu chuyên sâu các Điều 69, 71, 72, 81 Luật HN&GĐ năm 2014.
Tiến hành nghiên cứu, phân tích các hồ sơ, bản án của các Toà án nhân dân
các cấp trong lĩnh vực này, chỉ ra những quy định mang tính hiệu quả, cũng như
những quy định cịn bất cập, vướng mắc; những nội dung chưa được luật đề cập làm
phát sinh các khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết, để đề xuất giải pháp
hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, nhằm tiếp cận và làm sáng tỏ về thực tiễn
xét xử, đồng thời nghiên cứu những báo cáo tổng kết cơng tác xét xử của Tịa án, các
bản án của Tòa án đã giải quyết các tranh chấp về quyền nuôi con, việc bảo đảm
quyền lợi của con và ngược lại là nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ trong vụ án
HN&GĐ, một số vụ án liên quan đã và đang giải quyết.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để hồn thiện luận văn đúng với mục đích, phạm vi đã đặt ra, quá trình nghiên
cứu tác giả đã chọn các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích: Tác giả sử dụng ở mục 1.1, 1.2 để phân tích các nội
dung của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
ni dưỡng giữa cha mẹ và con. Mặt khác, tác giả còn sử dụng phương pháp này
trong việc phân tích những khó khăn, vướng mắc của việc áp dụng các quy định của
pháp luật hiện hành và thực tế xét xử tại Tòa án để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm
hồn thiện pháp luật.


7

Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng ở mục 1.1, 1.2, 2.1, 2.2 dùng để so
sánh, đánh giá được áp dụng một cách triệt để giúp phân tích những điểm tiến bộ, hạn
chế của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật vào từng vụ việc.
Phương pháp bình luận bản án: Tác giả sử dụng để phân tích các Bản án, Quyết
định của Tòa án trong xét xử, quan điểm nghiên cứu pháp luật của Tòa án, Viện kiểm

sát để từ đó rút ra những đánh giá về tính đúng đắn của các bản án quyết định về
nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con trong thực tiễn xét xử
tại Tòa án.
Phương pháp tổng hợp: Tác giả sử dụng để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con. Phương
pháp tổng hợp được dùng để tổng kết những kiến thức đã được triển khai trước đó,
giúp người nghiên cứu hiểu được vấn đề cần hướng đến. Phương pháp này áp dụng
trong từng vấn đề nội dung luận văn và phần kết luận mỗi chương.
Việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học giúp sáng tỏ đối tượng
cần nghiên cứu, nó có ý nghĩa rất lớn để giải quyết các bất cập, mâu thuẫn và những
quy định chưa rõ của pháp luật, đây là mong muốn lớn nhất của tác giả hướng đến để
hoàn thành luận văn.
5. Kết quả nghiên cứu
Đây là cơng trình luận văn được nghiên cứu và xây dựng theo định hướng ứng
dụng. Trên cơ sở kế thừa kết quả của các cơng trình nghiên cứu trước đây về thực
tiễn xét xử ở một số địa phương, luận văn sẽ mở rộng phạm vi nghiên cứu về thực
tiễn xét xử tại các cấp Tòa án trong cả nước về vấn đề nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
ni dưỡng giữa cha mẹ và con để đánh giá, làm rõ vấn đề bảo vệ quyền chăm sóc,
ni dưỡng giữa cha mẹ và con như thế nào.
Chỉ ra được những bất cập, vướng mắc của các quy định pháp luật hiện hành
trong việc nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con, từ đó đưa ra
các đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung phù hợp, kịp thời, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền
chăm sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con trong vụ án hôn nhân và gia đình.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn dự kiến được thể hiện ở những nội dung:
- Thứ nhất, vì là luận văn nghiên cứu theo định hướng ứng dụng, nên luận văn
sẽ có những phát hiện và giải quyết một cách triệt để từ mặt lý luận đến thực tiễn và


8


đưa ra giải pháp cho từng vấn đề cụ thể, như việc giải quyết nghĩa vụ và quyền chăm
sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con...đúng hoặc không đúng quy định của pháp luật,
dẫn đến án bị kháng cáo, kháng nghị, hủy, sửa...
- Thứ hai, luận văn chỉ ra những hạn chế về mặt nghiệp vụ do nhận thức của
người tiến hành tố tụng trong quá trình áp dụng pháp luật hoặc là do vướng mắc, bất
cập của pháp luật hoặc nhận thức, áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất và đề ra các
giải pháp, kiến nghị đảm bảo vừa hợp tình, vừa hợp lý, hợp với truyền thống đạo đức
của dân tộc; cũng như bảo vệ thực hiện nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng giữa
cha mẹ và con để từ đó có thể được sử dụng tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ
sung luật HN&GĐ.
- Thứ ba, từ việc chỉ ra những vướng mắc, bất cập và kiến nghị hướng hoàn
thiện các quy định của pháp luật, luận văn sẽ là cơ sở tham khảo cho các cơng trình
nghiên cứu sau này về vấn đề HN&GĐ nói chung và giải quyết nghĩa vụ và quyền
chăm sóc, ni dưỡng giữa cha mẹ và con trong vụ án HN&GĐ nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của luận văn được chia thành hai chương:
Chương 1. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng của cha mẹ đối với con
Chương 2. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng của con đối với cha mẹ


9

CHƯƠNG 1. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SĨC, NI DƯỠNG
CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nơi hình thành và giáo dục nhân cách của
mỗi người, trong gia đình ln tồn tại mối quan hệ quan tâm, chăm sóc lẫn nhau dựa
trên nền tảng hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng1. Trong đó, mối quan hệ giữa cha
mẹ và con được xem là cơ bản, thể hiện ý thức, trách nhiệm, tình yêu thương và không
chỉ chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức mà còn bởi các quy định của pháp

luật HN&GĐ 2. Giữa họ luôn tồn tại mối quan hệ chăm sóc, ni dưỡng, hình thành
nên quyền và nghĩa vụ. Đây là mối quan hệ hai chiều. Con sinh ra, khơng phụ thuộc
vào tình trạng hơn nhân của cha mẹ, đều có quyền được cha mẹ chăm sóc, ni dưỡng
và ngược lại đều có quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ của mình. Ở Chương 1 sẽ trình
bày chiều đầu tiên, quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con,
đây là nội dung chủ yếu, quan trọng và cơ bản nhất.
1.1. Về đánh giá khả năng chăm sóc, ni dưỡng con để xác định người
trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng của cha mẹ đối với con
Pháp luật quy định về quyền cũng như nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng con
cái của cha mẹ. Tuy nhiên, việc đánh giá như thế nào về việc hồn thành các nghĩa
vụ trên thì luật khơng điều chỉnh được hết. Đây cũng chính là căn cứ đơi khi được
vận dụng để xem xét về quyền được nuôi dưỡng con, thay đổi người trực tiếp chăm
sóc ni dưỡng con sau ly hôn. Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về việc
trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con sau khi ly hơn rất rõ ràng, có thể
thấy, việc xác định người trực tiếp chăm sóc ni dưỡng con sau ly hôn phụ thuộc
vào sự thoả thuận của vợ và chồng, trong đó, nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì cần
tơn trọng và xét đến mong muốn của con.
Vấn đề đặt ra là, nếu vợ chồng khơng đạt được thoả thuận thì vụ việc được
xử lý như thế nào. Toà án là cơ quan giải quyết nội dung này, song tiêu chí để Tồ
án xác định lại chưa được Luật HN&GĐ quy định một cách cụ thể và rõ ràng, Luật
chỉ đưa ra một cơ sở bao quát là “căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con”. Các

Nguyễn Văn Quyền (2014), Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con theo Luật Hơn nhân và Gia đình Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.01.
1

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam” (Tái bản có
sửa đổi, bổ sung), NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr.14.
2



10

mặt có thể bao gồm vật chất hoặc tinh thần, vậy nên ưu tiên cái nào hơn cái nào?
Điều này dẫn đến việc thực tiễn vẫn cịn một số khó khăn nhất định, đơi khi các Tồ
án “tự đặt ra” những cách nhận định và làm cho hướng áp dụng pháp luật chưa được
thống nhất.
Nhiều trường hợp người ta căn cứ vào điều kiện vật chất của cha hoặc mẹ,
đôi khi là sự quan tâm, chăm sóc và thời gian dành cho con của ai nhiều hơn. Xét
vụ việc thứ nhất thể hiện tại Bản án số 01/2020/HN&GĐ-PT ngày 06/01/2020 về
tranh chấp thay đổi người chăm sóc, ni dưỡng con chung của TAND thành phố
Hà Nội. Theo đó, anh NVT và chị NTH được TAND huyện Mê Linh giải quyết cho
ly hôn, chị NTH được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Gia Huy, cịn anh
NVT được ni cháu Nguyễn Thành Long. Sau đó, anh NVT cho rằng, khi ly hơn,
anh vẫn trực tiếp ni dưỡng cháu Huy từ đó đến nay, chị NTH khơng đến đón,
thăm nom chăm sóc hay có trách nhiệm gì với cháu Huy. Chị NTH có yêu cầu thi
hành án nhưng khi cháu Huy được giao cho chị NTH thì cháu Huy khơng theo. Hiện
nay chị NTH khơng có điều kiện để trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng cháu Huy. Để
đảm bảo cuộc sống của cháu Huy ổn định và phát triển sau này, anh NVT khởi kiện
yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, đề nghị Tòa án giao cho anh NVT trực
tiếp chăm sóc ni dưỡng cả 02 con chung là Nguyễn Thành Long và Nguyễn Gia
Huy đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác của Tịa án.
Song, chị NTH cho rằng, anh NVT khơng thường xuyên có mặt ở nhà để chăm sóc
con. Anh NVT khơng có việc làm và khơng có thu nhập ổn định nên không đảm
bảo cuộc sống cũng như trông nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục cháu Huy. Bản
án sơ thẩm khơng chấp nhận u cầu của anh NVT.
Tịa án cấp phúc thẩm cho rằng “cháu Nguyễn Gia Huy còn nhỏ, rất cần sự
chăm sóc của người mẹ. Việc anh NVT khởi kiện thay đổi người nuôi con không
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật HN&GĐ, nên Tịa án cấp sơ
thẩm đã khơng chấp nhận đơn khởi kiện của anh là phù hợp với quy định của pháp

luật”. Như vậy, Tịa cấp phúc thẩm khơng xét đến yếu tố về kinh tế mà dựa vào độ
tuổi của cháu Nguyễn Gia Huy, cháu còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ.
Tác giả cho rằng, chỉ dựa vào yếu tố này là không đủ để thuyết phục. Mặc dù pháp
luật không đưa ra một căn cứ nào về việc đánh giá khả năng chăm sóc, ni dưỡng
con của ai sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, cần dựa vào những tiêu chí nhất định, cơ bản để xem
xét chứ khơng chỉ định tính cho từng trường hợp với đa dạng các góc độ. Chẳng hạn,


11

người mẹ chăm sóc con nhỏ là hợp lý nhưng điều kiện kinh tế của mẹ không đảm bảo
hoặc môi trường sống của người mẹ có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển theo
chiều hướng tích cực của con như mơi trường sống phức tạp, khó khăn dẫn đến khó
tiếp cận điều kiện học tập hay mơi trường dễ bị lạm dụng, do đó việc đánh giá cần
phải được toàn diện để đảm bảo quyền lợi của con một cách tối ưu nhất. Tác giả cho
rằng, cần thiết có một bộ các tiêu chí để các Tồ án sử dụng nhằm đưa ra phán quyết
tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành niên.
Một vụ việc khác liên quan đến căn cứ xác định khả năng chăm sóc, ni
dưỡng con sau ly hơn. Xét bản án số 179/2019/HN&GĐ-ST ngày 12/7/2019 về thay
đổi người trực tiếp nuôi con của TAND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Chị L
và anh N được giải quyết cho ly hôn theo quyết định của Tịa án, trong đó, giao con
là cháu Chung Đình H cho anh N trực tiếp ni dưỡng, tuy nhiên, dựa vào tình hình
hiện tại, chị L u cầu được quyền ni con. Tịa án cấp sơ thẩm xét thấy, việc thay
đổi này là hợp lý, bởi, thứ nhất, nguyện vọng của cháu H cũng mong muốn được ở
chung với chị L. Thứ hai, cháu H đang sinh sống với chị L được ổn định, điều kiện
học tập và phát triển cũng tốt. Về kinh tế, chị L có nghề nghiệp thu nhập ổn định,
có nhà riêng. Cịn đối với anh N, hiện đã có gia đình mới riêng, có con riêng và
đang sống cùng với bố mẹ.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu chị L về việc thay đổi người trực
tiếp nuôi con, giao cháu H cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh N khơng trực tiếp

ni con có quyền thăm nom, chăm sóc con chung khơng ai được cản trở. Ở đây,
xem xét về khả năng ni dưỡng, chăm sóc con chung, Tịa án nhận định cả cha và
mẹ đều có đủ khả năng, nhưng xét để xem ai sẽ chăm sóc con chung tốt hơn thì yếu
tố then chốt chính là khả năng quan tâm con, việc anh N có gia đình riêng và có con
riêng có phần làm giảm “mức độ chăm sóc” một cách cơ bản so với chị L. Mặt khác,
cháu H cũng sống với chị L từ lâu, được học tập và phát triển ổn định, do đó, việc
thay đổi mơi trường của con là khơng hợp lý và cần được cân nhắc. Tác giả cho
rằng, cách đánh giá trên của Tòa án là hợp lý. Cả chị L và anh N đều có đủ điều
kiện về kinh tế và môi trường sống để cháu H có thể được phát triển ổn định bình
thường (dựa vào u cầu cơ bản). Do đó, khơng những đưa ra yếu tố kinh tế hay
môi trường để làm cơ sở mà cần vận dụng các điều kiện khác. Toà án xét đến “mức
độ chăm sóc” và cuộc sống ổn định của cháu H. Cháu H đang theo học tập và sinh
sống với chị L, hơn nữa anh N đã có gia đình riêng, khơng thể đảm bảo tuyệt đối


12

việc không bị chi phối bởi các yếu tố khác. Một cách tổng thể, việc khẳng định chị
L sẽ dành toàn bộ sự quan tâm dành cho con nhiều hơn so với anh N là có cơ sở.
Do đó, căn cứ xác định người trực tiếp nuôi con sau ly hơn khơng chỉ dựa vào một
nội dung, khía cạnh, đặc biệt là trường hợp cả hai người cha và mẹ đều có đủ các
điều kiện để ni dưỡng con độc lập.
Thực tế cho thấy, sự quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng của cha mẹ dành cho
con không chỉ xuất phát từ điều kiện kinh tế, nó chỉ là một phần cấu tạo nên tính
tồn diện của quá trình ni dưỡng. Ngồi sự đảm bảo về kinh tế, con trẻ cịn cần
nhận sự quan tâm, quản lý, giám sát một cách hợp lý của cha mẹ, bởi về mặt pháp
luật, con chưa có đầy đủ năng lực hành vi hay khả năng để tự ni sống bản thân
mình, nhu cầu cần sự hỗ trợ từ chủ thể khác được đặt ra, mà đáp án tối ưu vẫn là
cha mẹ của chúng, khơng ai có thể thay thế một cách hồn hảo được. Điều này được
hình thành từ mối quan hệ huyết thống hoặc quan hệ cha mẹ nuôi, con nuôi (phát

sinh từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi 3) hoặc quan hệ cha
dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc chồng.
Hiện nay, Dự thảo số 01 năm 2021 Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao
(Dự thảo Nghị quyết số 01) có đề xuất nội dung để xác định người trực tiếp nuôi
dưỡng con cái sau ly hôn tại Điều 5, theo đó, việc lựa chọn này dựa trên sự thỏa
thuận, nếu khơng thỏa thuận được thì Tịa án sẽ quyết định người trực tiếp nuôi
dưỡng dựa vào: (i) ý chí của con từ đủ 07 tuổi trở lên hoặc (ii) căn cứ vào quyền lợi
mọi mặt của con để giao con cho người kia có điều kiện ni con tốt hơn trực tiếp
nuôi dưỡng.
Tác giả cho rằng, quy định này chưa thực sự sát thực, sẽ có nhiều quan điểm
khác nhau để đánh giá “quyền lợi mọi mặt của con” và như thế sẽ dẫn đến việc áp
dụng pháp luật ở một số không thống nhất. Nội dung điều luật chỉ mới dừng lại ở
sự bao quát của vấn đề, trong khi đó, thực tiễn cho thấy, cần có sự hướng dẫn cụ thể
hơn về các tiêu chí để các vụ việc được giải quyết phải được thống nhất, dựa trên
nguyên tắc chung nhất định, dựa vào bộ tiêu chí cụ thể. Tác giả nhận thấy đúc kết
từ tổng hợp các vụ việc thực tiễn có thể là vấn đề được cân nhắc để Nghị quyết đưa
ra được hoàn thiện hơn. Do đó, để đánh giá đầy đủ các điều kiện về chăm sóc, ni
3

Điều 24 Luật Ni con nuôi năm 2010.


13

dưỡng con, tác giả kiến nghị Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần phải
xem xét nhiều yếu tố, bao gồm tổng hoà những nội dung như sau:
Thứ nhất, cần xét đến điều kiện kinh tế. Tiêu chí này được đánh giá dựa trên
khả năng chăm sóc con một cách cơ bản hay không, chứ không thể được so sánh
trên giá trị thu nhập hay tài sản của vợ hoặc chồng. Khi giải quyết vụ việc, Toà án

cần phải làm rõ loại thu nhập, khả năng kinh tế của mỗi bên, điều này khơng có
nghĩa là ai tạo ra thu nhập nhiều hơn thì người đó được quyền ni con mà phải
xem xét liệu rằng, mức thu nhập đó có đủ để ni dưỡng con và có dùng kinh tế đó
vào việc chăm sóc ni dưỡng con hay khơng? đây gọi là u cầu tối thiểu, người
cịn lại có thể có điều kiện kinh tế cao hơn, nhưng những yếu tố khác họ khơng đáp
ứng thì họ chỉ có thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ni con.
Do đó, đánh giá thu nhập phải xem xét trên yếu tố đảm bảo mức sống cơ bản
cho con, chứ không chỉ dựa vào giá trị thu nhập. Mặt khác, thu nhập này phải đảm
bảo được tính ổn định tối thiểu, sự ổn định phải được đánh giá dựa trên từng tháng
hoặc cả năm. Nếu như cha mẹ có thu nhập khơng ổn định, thì việc đảm bảo cho con
cái có một cuộc sống đầy đủ ở mức tối thiểu là không thể đáp ứng. Thế nên, khi
chứng minh điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con sau ly hôn, cha hoặc mẹ cần đưa
ra được cơ sở rằng mức thu nhập hay điều kiện sống của mình có thể cung cấp cho
con được các địi hỏi vật chất tối thiểu để con có thể sinh sống, học tập và phát triển
một cách toàn diện và đầy đủ nhất. Tức phải được tính trên cơ sở lương hàng tháng
và tính ổn định của cơng việc.
Thứ hai, về thời gian quan tâm, chăm sóc con cái. Yêu cầu này phải đáp ứng
hai điều kiện, có thời gian và dành thời gian đó để quan tâm, chăm sóc con. Cha mẹ
có thường xuyên quan tâm con, cùng con thực hiện các hoạt động để gắn kết tình
cảm giữa con và cha mẹ. Khi đánh giá, yếu tố này cần phải được làm rõ và thể hiện
bằng chứng cứ xác thực. Cha hoặc mẹ có thể làm công việc khá bận rộn nhưng họ
biết cách sắp xếp và dành nhiều thời gian cho con thì khả năng chăm sóc, giáo dục
con được tốt hơn người mà dù cơng việc có nhiều thời gian nhưng lại vơ tâm, lo
lắng những việc khác mà không hề quan tâm đến con.
Ở đây, phải làm rõ cha mẹ có thực sự quan tâm đến đời sống của con hay
không, mức độ quan tâm như thế nào, có thái q hay khơng và con phù hợp với sự
chăm sóc nào hơn. Biểu hiện có thể dựa trên nhiều mức độ, cha mẹ có dành thời


14


gian quan tâm việc học tập, sinh hoạt, tần suất của việc trông nom con hay ở cùng
con như thế nào. Cha mẹ phải có sự chứng minh được nội dung này khi yêu cầu
thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc tranh chấp quyền nuôi con.
Thứ ba, ý kiến và nguyện vọng của con. Luật HN&GĐ quy định, cần tôn
trọng ý kiến của con trên 7 tuổi4, tác giả cho rằng dù ở lứa tuổi nào thì cũng cần
xem xét ý kiến của trẻ. Trẻ trên 7 tuổi thì nhận thức được nhiều vấn đề hơn, tuy
nhiên, điều này không đồng nhất với việc trẻ dưới 7 tuổi không có ý muốn của riêng
mình. Dù con dưới 7 tuổi thì cũng cần có các phương thức lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng của con (Trẻ em hiện nay nhận thức sớm nên đã có hiểu biết nhất định). Điều
này thể hiện sự tôn trọng con cái, đôi khi mong muốn của con lại cho thấy sự phù
hợp mà người lớn khơng nhìn thấy được. Dù độ tuổi nào thì mong muốn của con
cũng cần được tôn trọng và là một trong những yếu tố để xem xét liệu rằng con ở
với ai sẽ là tốt nhất.
Chẳng hạn, phần nhận định của Tòa án tại bản án số 18/2017/HN&GĐ-PT
ngày 05/7/2017 về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con của TAND tỉnh Đồng Nai
có ghi nhận khi xem xét đánh giá căn cứ thay đổi người trực tiếp nuôi con “Cháu là
gái, cịn nhỏ lại có nguyện vọng được ở với mẹ, việc giao con cho chị N là phù hợp
với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ”. Đây là nội dung phù hợp, Tồ án
tơn trọng quyết định của con, ngồi ra cịn xét đến các đặc điểm của con để đánh
giá mức độ phù hợp khi con sống cùng cha hay mẹ.
Thứ năm, tình trạng hơn nhân, gia đình của cha hoặc mẹ sau ly hơn. Đây là
một trong những nội dung khá quan trọng. Bởi sau khi ly hôn, nhiều trường hợp cha
mẹ kết hôn với người khác, thậm chí là có con riêng. Tiêu chí này được áp dụng khi
một trong hai bên cha hoặc mẹ kết hơn với người mới. Theo đó, có thể xem xét để
làm cơ sở đánh giá mức độ quan tâm, chăm sóc con của cha, mẹ trực tiếp ni con.
Khơng thể phủ nhận hồn tồn rằng điều này khơng làm ảnh hưởng ít nhiều
đến sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ dành cho con và tâm lý của con.
Nghiên cứu cho thấy, khi kết hôn với người mới, cha mẹ thường có xu hướng khơng
muốn liên quan đến người chồng/vợ cũ của mình và hạn chế sự tiếp cận của họ với

con chung, đồng thời, giảm bớt đi sự chăm sóc ban đầu dành cho con của mình. Đơi

4

Khoản 3 Điều 84 Luật HN&GĐ.


15

khi, cha hoặc mẹ thường có sự xa lánh con cái, dành ít sự quan tâm với con. Trường
hợp này, con thường có cảm giác bị bỏ rơi, nhiều trường hợp cịn có những suy nghĩ
tiêu cực, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống bình thường của con, đến tâm
lý, tình cảm của con, đặc biệt là con chưa thành niên. Thế nên, đây là tiêu chí để xác
định sự phù hợp của việc lựa chọn cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Người chưa kết hơn nhìn chung được đánh giá là có thể quan tâm con cái tốt hơn
người đã kết hôn với người khác. Đương nhiên, tiêu chí này cũng phải được xem xét
cùng lúc với các tiêu chí khác. Tuy nhiên, nội dung này chỉ nên được cân nhắc đánh
giá khi một trong hai người cha hoặc mẹ kết hôn với người khác, nếu cả hai chưa kết
hôn hoặc đều đã kết hơn thì cần xem xét các khía cạnh khác nhau để đưa ra quyết
định.
1.2. Về nghĩa vụ và quyền cấp dưỡng của cha mẹ đối với con
Việc cha mẹ không sống chung với con khơng làm mất đi hồn tồn quyền và
nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trơng nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình.
Tuy nhiên, pháp luật vẫn cho phép các bên cha mẹ tự thỏa thuận với nhau về việc xác
định phạm vi, nội dung chăm sóc, ni dưỡng con của mỗi người sau ly hôn, nếu con
từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định rõ, theo đó, khi khơng sống
chung với con, cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con5. Mức cấp dưỡng do người

có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó
thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng
và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu khơng thỏa thuận được thì u
cầu Tịa án giải quyết. Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng,
hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi
phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ
cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà khơng có khả năng thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết6.

Điều 110 Luật HN&GĐ quy định “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành
niên không có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình trong trường hợp khơng sống chung với
con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.
6
Điều 116, 117 Luật HN&GĐ 2014.
5


16

Đối tượng được cấp dưỡng là con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự, hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự
ni mình7. Pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành quy định người chưa thành niên là
người chưa đủ mười tám tuổi. Như vậy, khi con dưới mười tám tuổi thì cha mẹ đương
nhiên có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng đến khi con trở thành người thành
niên. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp con từ đủ mười tám tuổi trở lên thì cha
mẹ đều khơng cịn quyền và nghĩa vụ này. Yếu tố được xét đến ở đây là năng lực
hành vi dân sự. Đây là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự8. Luật HNGĐ đề cập đến quyền và nghĩa vụ chăm sóc,
ni dưỡng của cha mẹ nếu con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình.

Việc cấp dưỡng cho con có ý nghĩa lớn trong việc đóng góp để ni dưỡng,
chăm sóc con. Mức cấp dưỡng thường được quy thành giá trị vật chất, song nó lại
góp phần tạo điều kiện để hỗ trợ con có được cuộc sống tốt hơn, duy trì được mức
sống như khi cha mẹ sống chung với con9. Tuy nhiên, mức cấp dưỡng như thế nào
vẫn là vấn đề cịn chưa có sự thống nhất trên thực tế. Cấp dưỡng như thế nào là đủ,
tính theo tỷ lệ tài sản hay nhu cầu sinh hoạt của con, hay cả hai yếu tố trên?
Bàn về mức cấp dưỡng, xét bản án số 39/2019/HN&GĐ-PT ngày 05/12/2019
về tranh chấp hôn nhân và gia đình của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
giữa ngun đơn là bà Lê Hồng Diệp Thảo và bị đơn là ông Đặng Lê Nguyên Vũ.
Về con chung, theo yêu cầu của nguyên đơn là bà Thảo, bà đề nghị HĐXX tuyên
buộc ông Vũ phải cấp dưỡng cho con là 5% trong tổng số cổ phần và quyền tài sản
mà ông Vũ sở hữu tại các Cơng ty thuộc hệ thống Tập đồn Trung Ngun trong tổng
số tài sản chung yêu cầu chia của hai vợ chồng. Ơng Vũ khơng đồng ý và tự đề xuất
mức cấp dưỡng là 2,5 tỷ đồng/năm cho mỗi người con cho đến khi các con trưởng
thành, lao động và tự lập được.
Bản án sơ thẩm số 291/2019/HN&GĐ-ST ngày 27/3/2019 của TAND Thành
phố Hồ Chí Minh đã quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc ông

7

Khoản 2 Điều 69 Luật HNGĐ.

8

Điều 19 BLDS 2015.

Hoàng Thị Thu Huyền (2016), Nghĩa vụ cấp dưỡng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luận văn tốt
nghiệp, Trường Đại học luật Hà Nội, tr.37.
99



17

Vũ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho mỗi con là 2,5 tỷ đồng/năm cho đến khi các con trưởng
thành lao động tự lập được, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng là từ năm 2013. Tại phiên
tòa sơ thẩm, bà Thảo yêu cầu ông Vũ cấp dưỡng cho mỗi con là 5% giá trị cổ phần.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định rằng, u cầu trên là khơng có căn cứ chấp nhận,
mức cấp dưỡng phải phù hợp với Điều 111, 116 Luật HN&GĐ năm 2014 về nghĩa
vụ cấp dưỡng và dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên.
Tác giả nhận thấy rằng, Hội đồng xét xử vẫn chưa làm rõ, không phù hợp là
như thế nào, rõ ràng, Điều 116 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định “Mức cấp
dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám
hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu khơng
thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Vậy 2,5 tỷ đồng/năm/người con so
với 5% cổ phần suốt quá trình cấp dưỡng thì mức nào phù hợp hơn? Việc Tịa án
lựa chọn mức cấp dưỡng nêu trên vẫn chưa thực sự thuyết phục. Các cấp Tịa vẫn
chưa có sự đánh giá dựa theo bất kỳ một tiêu chí nào hay đưa ra một lập luận nào
cho phán quyết của mình. Luật HN&GĐ chỉ mới đưa ra hai yếu tố rất bao quát: (i)
khả năng người cấp dưỡng và (ii) nhu cầu thiết yếu của con cái. Song, mỗi hoàn
cảnh của con sẽ có một nhu cầu thiết yếu nhất định. Như bản án nêu trên, số lượng
cũng như khối lượng tài sản của người cấp dưỡng tác giả đánh giá là khá lớn, do đó,
mức 2,5 tỷ đồng/năm/người con cũng là mức cao, nhưng, so với khối lượng tài sản
và xét đến nhu cầu thiết yếu của người con thì nó có được xem là hợp lý hay không
vẫn là một nội dung cần được xem xét. Tác giả cho rằng, cần có một tỷ lệ % nhất
định để tránh việc các Tòa án “thiếu vắng” căn cứ xác định, con số được đưa ra
khơng thể dựa trên sự cảm tính được.
Điều 6 Dự thảo số 01 năm 2021 Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Luật HN&GĐ năm 2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao dự kiến hướng dẫn nội dung này như sau: “Tiền cấp dưỡng ni con bao gồm

những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả
thuận. Trong trường hợp các bên khơng thoả thuận được thì Tịa án quyết định mức
cấp dưỡng bằng 2/3 mức lương cơ sở hoặc không được thấp hơn 30% mức thu nhập
bình qn của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06 tháng liền kề”. Nếu áp dụng
cơ sở pháp lý trong trường hợp này rõ ràng không phù hợp. Giữa ông Vũ và bà Thảo
không thống nhất được về mức cấp dưỡng, do đó, Tịa án là chủ thể sẽ đứng ra giải


18

quyết nội dung này. Tuy nhiên, dựa vào quy định tại Điều 6, thì ơng Vũ chỉ phải
cấp dưỡng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình
qn của ơng Vũ trong 06 tháng liền kề. Mức lương cơ sở ở đây có thể là thu nhập
của ơng Vũ hay tính theo lương cơ sở của Nghị định 38/2019/NĐ-CP ngày
09/5/2019 là 1.490.000 đồng hay tính theo mức lương tối thiểu vùng? Nếu khơng
tính dựa vào thu nhập thì mức cấp dưỡng ở đây khác biệt khá xa so với thu nhập mà
ơng Vũ có được. Theo quan điểm của tác giả, quy định trên chưa giải quyết được
tiêu chí mà Luật HN&GĐ đặt ra là phải căn cứ vào nhu cầu tối thiểu của con và thu
nhập của người cấp dưỡng.
Một bản án khác cũng đề cập đến vấn đề mức cấp dưỡng, xét Quyết định Giám
đốc thẩm số 03/2020/HNGĐ-GĐT ngày 15/9/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn của Tòa án nhân dân tối cao giữa nguyên đơn bà Thảo và bị
đơn ông Dung. Bà Thảo yêu cầu được nuôi con và buộc ông Dung phải cấp dưỡng
nuôi con mỗi tháng là 1.500.000 đồng. Tuy nhiên, tại bản án hơn nhân và gia đình sơ
thẩm số 152/2015/HNGĐ-ST ngày 10/9/2015 của TAND huyện Núi Thành, tỉnh
Quảng Nam quyết định mức cấp dưỡng chỉ có 700.000 đồng/tháng. Bản án cấp phúc
thẩm số 16/2015/HNGĐ-PT ngày 15/12/2015 của TAND tỉnh Quảng Nam cũng giữ
nguyên nội dung này. Quyết định Giám đốc thẩm cũng không đề cập đến nội dung
này. Tác giả cho rằng, các bản án dường như quyết định mức cấp dưỡng chưa thuyết
phục bởi không đưa ra một căn cứ xác định nào.

Ở đây, cần đưa ra một tỷ lệ cấp dưỡng nhất định. Đương nhiên vấn đề này cần
tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự với nhau. Tiêu chí đầu tiên cần được đưa ra
đó là nhu cầu tối thiểu của con trong việc học tập và sinh sống10. Con của ơng Vũ
sống trong mơi trường có thể nói là trên mức tối thiểu bình thường, do đó, mức cấp
dưỡng sẽ cao hơn. Thế nên, cần xét đến tiêu chí tiếp theo là thu nhập của ơng Vũ.
Quy định tại Dự thảo Nghị quyết còn giới hạn mức độ là “không được thấp hơn 30%
mức thu nhập bình qn” của ơng Vũ. Có nghĩa rằng, mức cấp dưỡng tối thiểu là 30%
thu nhập bình quân trong 06 tháng liền kề. Vậy, 30% được tính theo từng tháng thu
nhập hay cả năm? Tác giả cho rằng, chỉ cần quy định tỷ lệ tối thiểu của thu nhập,
không cần thiết phải quy định nội dung 2/3 mức lương cơ sở. Con số 30% tác giả cho

Nguyễn Văn Vi (2004), Chế định cấp dưỡng trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 25.
10


19

rằng tương đối hợp lý và số tiền này tính theo từng tháng hoặc theo năm. Như vậy,
nếu dựa vào cơ sở này thì việc xác định mức cấp dưỡng của bản án nêu trên sẽ thuyết
phục hơn.
Ở bản án số 39/2019/HN&GĐ-PT ngày 05/12/2019 về tranh chấp hôn nhân
và gia đình của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh còn đặt ra vấn đề là, liệu
mức cấp dưỡng có nhất thiết phải bằng tiền hay khơng hay bằng tài sản khác, chẳng
hạn là cổ phần? Tại Dự thảo Nghị quyết số 01 nêu trên xác định mức thu nhập, có thể
hiểu là chỉ được xác định dựa vào loại tài sản là tiền. Tác giả cho rằng, quy định này
là hợp lý, bởi nếu ghi nhận loại tài sản khác như cổ phần thì mức độ cũng như giá trị
của nó khơng ổn định và rất khó để xác định được trên thực tế, ghi nhận các loại tài
sản khác lại kéo theo nhiều hệ quả, chẳng hạn như cổ phần, sẽ tác động đến quyền và
nghĩa vụ của cổ đông đối với các công ty, rõ ràng khơng phù hợp với tiêu chí về nhu

cầu tối thiểu của con cái mà lại phục vụ cho một mục đích khác. Do đó, tác giả đề
xuất rằng, cần có sự xác định rõ ràng và việc Dự thảo Nghị quyết số 01 nêu trên bổ
sung điều khoản này.
Bên cạnh đó, liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng, một vấn đề thực tiễn cịn đặt
ra đó là việc bồi hồn cơng chăm sóc, ni dưỡng con trong trường hợp xác định lại
cha cho con. Chẳng hạn, ta xét bản án số 54/2018/HNGĐ-ST ngày 27/6/2018 của
TAND huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp về xác định cha cho con và cấp dưỡng
nuôi con. Theo đó, chị Mỹ A quan hệ tình cảm với anh C, chung sống như vợ chồng
từ cuối năm 2014, sau đó chị Mỹ A và anh C có 01 con chung là cháu Lê Hoàng
Khả D sinh ngày 24/9/2016. Suốt qng thời gian đó, anh C khơng có sự quan tâm,
chăm sóc cùng ni dạy cháu D là con chung của anh chị. Do đó, chị A khởi kiện
yêu cầu Toà án xác định anh C là cha của cháu D và buộc anh C phải có trách nhiệm
cấp dưỡng cùng chăm sóc cháu D đến khi trưởng thành. TAND huyện Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp đã chấp nhận đơn khởi kiện của chị A, đồng thời tuyên buộc anh C
phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là cháu D kể từ thời điểm tháng 9/2016.
Như vậy, thời điểm giải quyết vụ việc là từ năm 2018, tuy nhiên, Toà án lại
ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng từ khi con chung được sinh ra. Hướng giải quyết của
Toà án là hợp lý, bởi nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng con cái là nghĩa vụ của cha
mẹ phát sinh từ khi con được sinh ra cho đến khi con trưởng thành, chứ khơng phụ
thuộc vào thời điểm có phán quyết của Tồ án hay phát sinh tranh chấp. Có thể hình
dung, nội dung cấp dưỡng này có bao gồm việc bồi hồn chi phí chăm sóc, ni


20

dưỡng con cái của cha đối với con. Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể quyền
yêu cầu bồi hoàn, thực tiễn lại ghi nhận nội dung này dưới dạng là “cấp dưỡng”.
Tác giả cho rằng, vấn đề này cũng chưa được thuyết phục và chưa định hướng được
cho các chủ thể trong xã hội khi thực hiện quyền yêu cầu của mình.
Tuy nhiên, trường hợp của bản án nêu trên xảy ra khi người mẹ không đang

trong mối quan hệ hôn nhân với chủ thể khác. Vậy quyền u cầu bồi hồn này có
được trao cho người chồng hợp pháp sau khi xác định người này không phải là
cha ruột của con hay khơng? Nếu có thì người chồng hợp pháp sẽ được yêu cầu
ai, vợ của mình hay người cha ruột của đứa trẻ? Vấn đề xác định cha cho con khi
người vợ đang trong mối quan hệ hôn nhân với chủ thể khác là khá phổ biến. Pháp
luật khơng có câu trả lời cho vấn đề này. Tác giả cho rằng, việc ghi nhận nội dung
bồi hồn đối với nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng con cái là cần thiết, bởi nó thể
hiện trách nhiệm của cha mẹ đối với con, với quá trình trưởng thành của con. Hơn
nữa, đối với người không phải là cha ruột của con nhưng đã chăm sóc, ni dưỡng
con, về mặt đạo đức, họ là người chịu tổn thương, do đó, quyền u cầu bồi hồn
lại chi phí ni dưỡng con trong suốt thời gian trước đó là cần thiết, cũng tương
tự như trường hợp bồi hồn lại chi phí ni dưỡng con khi người phụ nữ một mình
ni con trong bản án nêu trên.
Bên cạnh đó, họ cịn bị tổn thất về tinh thần sau khi biết chính đứa con mình
chăm sóc ni dưỡng hàng ngày lại khơng phải là con mình, điều này có cần đặt
ra vấn đề bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần? Và ai sẽ là người phải bồi
thường do tổn thất tinh thần, người vợ hay cha ruột của đứa trẻ? Do đó, đối với
vấn đề này, tác giả kiến nghị Dự thảo Nghị quyết số 01 hướng dẫn Luật HN&GĐ
năm 2014 cũng cần có sự bổ sung nội dung này để định hướng cho thực tiễn trong
việc giải quyết các vụ việc thực tế trong xã hội hoặc có phát sinh trong tương lai.
Theo đó, Điều 6 Dự thảo Nghị quyết số 01 nên bổ sung một điều khoản về vấn đề
bồi hồn chi phí chăm sóc, ni dưỡng con ở phía sau phần mức cấp dưỡng. Đương
nhiên, mức cấp dưỡng và mức bồi thường (nếu có đặt ra) trong trường hợp này
vẫn tuân theo cách xác định của dự thảo.
Ngoài ra, về thời điểm cấp dưỡng, pháp luật HN&GĐ vẫn chưa có sự ghi
nhận vấn đề này, như đối với bản án số 39/2019/HN&GĐ-PT ngày 05/12/2019 về
tranh chấp hôn nhân và gia đình của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu
trên, việc cấp dưỡng sẽ tính từ năm 2013 chứ không phải khi bản án HN&GĐ về ly



×