Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thẩm quyền giải quyết của tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.47 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỐ CHÍ MINH

PHAN THỊ QUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỐ CHÍ MINH

C

nn

n

nS
T Tụn
Địn ƣớng ứng dụng
Mã s : 8083103

nS

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Tiến
Học viên: Phan Thị Quyên
Lớp: Cao Học Lu t, Kiên Giang Khóa 2



TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu của bản thân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS.Nguyễn Văn Tiến. Các thông tin, Bản án được trích dẫn trong Luận văn là
trung thực và chính xác, tác phẩm chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức
nào. Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

Phan Thị Quyên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TỪ, CỤM TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT
01

BLDS

Bộ luật Dân sự năm 2015

02

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

03


HNGĐ

Hôn nhân và gia đình

04

LHNGĐ

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014

05

Nghị định số
123/2015/NĐ-CP

Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng
11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch

06

Nghị quyết 03/2012/NQHĐTP

Nghị
quyết
03/2012/NQ-HĐTP
ngày
3.12.2012, của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số

quy định trong Phần thứ nhất “Những quy
định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004,
sửa đổi, bổ sung năm 2011

07

TAND

Tịa án nhân dân

08

Thơng tư 04/2020/TT-BTP ngày 28.5.2020
của bộ Tư pháp về quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số
Thông tư 04/2020/TT-BTP
123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật hộ tịch.

09

TTTP

Tương trợ tư pháp

10

UTTP


Ủy thác tư pháp


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN THEO VỤ VIỆC VÀ THẨM
QUYỀN CỦA TÒA ÁN CÁC CẤP ĐỐI VỚI CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ..............................................................................................7
1.1. Thẩm quyền của Tịa án theo vụ việc .............................................................7
1.2. Thẩm quyền của Tòa án các cấp ..................................................................19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................29
CHƢƠNG 2. THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN THEO LÃNH THỔ, THEO SỰ
LỰA CHỌN CỦA NGUYÊN ĐƠN ĐỐI VỚI TRANH CHẤP VỀ HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH ..........................................................................................................30
2.1. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ ........................................................30
2.2. Thẩm quyền của Tòa án theo s l a chọn của n
n đơn .......................39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................48
KẾT LUẬN ..............................................................................................................49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, do hội nhập kinh tế thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ nên các
tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội ngày càng gia tăng và phức tạp. Để đảm bảo
quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì địi hỏi Nhà nước ta phải xây dựng hệ
thống pháp luật vững mạnh, chặt chẽ và được áp dụng có hiệu quả trong đời sống

xã hội nhất là phải kể tới vai trò quan trọng của hệ thống Tòa án với thẩm quyền xét
xử chuyên biệt. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 đã được ban hành và hoàn
thiện hơn để thay thế Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì ngồi thẩm quyền giải quyết các vụ việc
dân sự nói chung thì thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hơn nhân và gia đình
nói riêng của Tịa án được quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
cũng là một trong những cơ sở pháp lý rất quan trọng để xác định thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân, và là tiền đề để tòa án Việt Nam thực hiện chức năng thụ
lý, giải quyết những vụ việc hơn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
về hơn nhân và gia đình vẫn cịn bộc lộ một số hạn chế nhất định như: chưa chú ý
đến thẩm quyền xét xử đối với vụ án ly hơn có yếu tố nước ngồi cụ thể như trường
hợp bị đơn đã đi nước ngồi sinh sống nhưng Tịa án cấp huyện vẫn thụ lý xét xử
theo hộ khẩu thường trú của bị đơn là vi phạm nghiêm trọng về thẩm quyền vì đây
là vụ án có yếu tố nước ngồi thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án cấp tỉnh; hay
trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn
nhưng đã tồn tại một quan hệ hơn nhân hợp pháp trước đó mà chưa được Tịa án
giải quyết ly hơn, sau đó một bên chết dẫn đến người có quan hệ hơn nhân sau đứng
ra tranh chấp chia tài sản là bất động sản, địa chỉ của hai bên đương sự và nơi có bất
động sản thì khác nhau, có quan điểm cho rằng tranh chấp trên chỉ là tranh chấp dân
sự nên thẩm quyền giải quyết của Tịa nơi có bất động sản nhưng có quan điểm cho
rằng tranh chấp trên là tranh chấp hơn nhân và gia đình nên thuộc thẩm quyền của
Tịa nơi bị đơn cư trú; ngồi ra có trường hợp các bên đương sự thỏa thuận Tịa án
không đúng thẩm quyền để giải quyết ly hôn; hay trường hợp xác định cha, mẹ, con
thì cịn chưa thống nhất về thẩm quyền giữa Tòa án và Ủy ban nhân dân; mặt khác
loại án hơn nhân và gia đình thực chất là một loại án dân sự, khơng có luật tố tụng
điều chỉnh riêng mà áp dụng thẩm quyền theo Bộ luật Tố tụng dân sự, loại án hôn



2
nhân và gia đình tuy là một loại án dân sự nhưng nó vẫn có những đặc thù riêng áp
dụng cái chung đương nhiên có những hạn chế bất cập nhất định… Từ những thực
trạng nêu trên nên việc áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối
với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình dẫn đến tình trạng người dân bức xức
khiếu nại nhiều, đương sự kháng cáo kéo dài vụ án. Vì vậy, việc nghiên cứu các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các
tranh chấp về hôn nhân và gia đình là cần thiết.
Xuất phát từ các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thẩm quyền giải quyết
của Tịa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình” để làm luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân sự của mình với mong
muốn được đóng góp xây dựng, hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu của tác giả nhận thấy, liên quan đến đề tài “Thẩm quyền giải
quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình” đã được nhiều
tác giả khác quan tâm nghiên cứu, có thể kể ra một số cơng trình như sau:
- Trường Đại học Luật TPHCM (2018), “Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt
Nam”, NXB. Hồng Đức. Trong giáo trình này, các tác giả đã phân tích các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hơn nhân và
gia đinh. Tuy nhiên, vì đây là giáo trình nên phần thực tiễn khơng được đề cập do
tính chất của cơng trình khơng nghiên cứu về khía cạnh này.
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), “Sách tình huống Luật Tố
tụng dân sự (Bình luận bản án)”, Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong cơng trình này,
các tác giả đã phân tích quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án
đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình với các bản án, quyết định cụ thể cuả
Tòa án nhân dân. Liên quan đến thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh
chấp về hôn nhân và gia đinh, các tác giả nhận thấy các bình luận tại các chủ đề:
Chủ đề 8, Chủ đề 9, Chủ đề 10. Với cơng trình nghiên cứu này, các tác giả đã
nghiên cứu những vấn đề cụ thể trong từng bản án, quyết định để so sánh giữa quy

định của pháp luật, thực tiễn thực hiện, pháp luật và đề xuất kiến nghị. Tác giả dựa
vào các bình luận này để lấy ý tưởng triển khai đề tài của mình;
- Đặng Thanh Hoa (Chủ biên), Lưu Tiến Dũng (2020), “Lý giải một số vấn đề
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ thực tiễn xét xử”, Nxb. Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh. Trong cơng trình này, các nội dung nghiên cứu liên quan đến


3
thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình ở
Vấn đề 2. Với cách đặt vấn đề và nội dung lý giải trong cơng trình, tác giả học tập
và định hướng nghiên cứu, triển khai đề tài trong luận văn của mình;
- Nguyễn Văn Tiến, Bành Quốc Tuấn chủ biên (2011), “Thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài và việc bảo vệ quyền dân sự tại
cơ quan tư pháp Việt Nam”, NXB Lao Động. Trong cuốn sách này các tác giả chỉ
dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình
về quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi, thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi nói riêng mà chưa đi sâu về thầm
quyền giải quyết các tranh chấp hơn nhân và gia đình nói chung, nên việc đánh giá,
tổng hợp những vướng mắc vào thực tiễn chưa nhiều.
- Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (chủ biên, 2012),
“Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi”, NXB Lao động - Xã hội, Hà
Nội. Trong cơng trình này, các tác giả đã phân tích, so sánh các quy định mới được sửa
đổi, bổ sung tại luật sửa đổi, bổ sung năm 2011, đối chiếu với giải quyết các vụ việc
dân sự, giải thích một cách khoa học về trình tự thủ tục tố tụng dân sự, trong đó có
thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình. Tuy
nhiên, vì đây là sách bình luận nên các tác giả tập trng bình luận về khoa học Bộ luật
Tố tụng dân sự nên không nghiên cứu về tổng hợp những vướng mắc trên thực tiễn về
thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
- Nguyễn Thị Lan (2002), “Xác định cha, mẹ, con theo Luật Hơn nhân và gia
đình Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ trường Đại học luật

Hà Nội. Trong cơng trình này, tác giả đã nêu lên và phân tích những quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành mà cụ thể là Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 về
xác định cha, mẹ, con có đề cập vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong việc xác định
thẩm quyền xác định cha, mẹ, con. Tuy nhiên, cơng trình này được thực hiện vào
năm 2002 vào thời điểm Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, đến
nay những quy định đã được sửa đổi khơng cịn phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Ngồi ra, cơng trình chưa nghiên cứu tồn diện về vấn đề thẩm quyền giải quyết của
Tịa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình.
- Võ Văn Tuấn Khanh (2019), “Bàn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con”,
Tạp chí kiểm sát số 7 (4.2019). Bài viết này tác giả có nêu lên và phân tích những
quy định pháp luật về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con và có đưa ra tình huống cụ
thể để minh họa cho thực tiễn xét xử. Đồng thời tác giả bài viết cũng đưa ra những


4
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xác định thẩm quyền xác định cha, mẹ, con.
Tuy nhiên, cơng trình chỉ mới dừng lại ở vấn đề thẩm quyền xác định cha, mẹ, con
chỉ một khía cạnh của đề tài chưa đi sâu phân tích vấn đề thẩm quyền giải quyết của
Tịa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình. Do đó cần phải tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tịa án đối với các
tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
- Đặng Thanh Hoa và Nguyễn Hồ Bích Hằng (2016), “Sửa đổi về thẩm quyền
của Tòa án theo lãnh thổ quy định tại BLTTDS năm 2015”, Tạp chí “Khoa học
pháp lý” số 06(100)/2016 - 2016. Trong bài viết này các tác giả tập trung phân tích
thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ
có Tịa án nơi có bất động sản giải quyết quy định này có thể dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau. Trong cơng trình này các tác giả đã phân tích những bất cập và đưa
ra kiến nghị hồn thiện pháp luật về cách xác định Tịa án có thẩm quyền về lãnh
thổ giải quyết vụ án hơn nhân và gia đình hoặc vụ án thừa kế có tranh chấp về bất

động sản. Tuy nhiên, đây chỉ mới dừng lại là một bài báo khoa học phân tích chỉ
một khía cạnh thẩm quyền theo lãnh thổ, chưa phân tích tồn diện vấn đề thẩm
quyền giải quyết của Tịa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
Nhìn chung tất cả những cơng trình nghiên cứu trên đã tập trung nghiên cứu
với nội dung rộng, hầu hết là nghiên cứu Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 sửa đổi,
bổ sung năm 2011. Vì vậy, tác giả nghiên cứu đề tài “Thẩm quyền giải quyết của
Tịa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình” là cần thiết. Tác giả đi
sâu phân tích những quy định về thẩm quyền giải quyết của Tịa án đối với các
tranh chấp về hơn nhân và gia đình, đồng thời chỉ ra những bất cập và đề xuất
những kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định về thẩm quyền giải quyết của
Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
3. Mục đíc , nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là làm rõ những quy định của pháp luật, thực tiễn áp
dụng về thẩm quyền giải quyết của Tịa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia
đình gồm thẩm quyền của Tịa án theo vụ việc, theo cấp, theo lãnh thổ, theo sự lựa
chọn của nguyên đơn, người yêu cầu và đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Đánh giá quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tịa án đối
với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình;


5
- Đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng thẩm quyền giải quyết của
Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết của
Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
4. Đ i ƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về những quy định về thẩm quyền giải quyết của Tịa án
đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình; thực trạng áp dụng pháp luật và chỉ ra

những bất cập đang tồn tại. Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị hoàn thiện những quy định
về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án
đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2015 từ khi Bộ luật này có hiệu lực pháp luật cho đến nay.
5. P ƣơn pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này sử dụng trong chương 1 và chương
2 để làm rõ thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và
gia đình. Trong đó, chú trọng việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thẩm
quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Phương pháp này sử dụng trong chương 1 và
chương 2 so sánh giữa quy định của pháp luật với thực tiễn về thẩm quyền giải quyết
của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình và thực tiễn áp dụng.
- Phương pháp lịch sử: Phương pháp này sử dụng trong chương 1 và chương
2 để so sánh quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với
các tranh chấp về hôn nhân và gia đình trước đây và hiện nay.
- Phương pháp phân tích quy phạm pháp luật: Phương pháp này sử dụng
trong chương 1 và chương 2 nhằm phân tích về thẩm quyền giải quyết đối với các
tranh chấp về hôn nhân và gia đình của Tịa án nhân dân, đồng thời đưa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật về thẩm quyền
giải quyết của Tịa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
Mỗi phương pháp nghiên cứu đem lại những hiệu quả nhất định trong việc
làm rõ đối tượng nghiên cứu, xác định mục đích của việc triển khai đề tài trong
luận văn.


6
6. Ý n ĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Kết quả nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh
chấp về hơn nhân và gia đình góp phần làm rõ thực trạng áp dụng thẩm quyền giải
quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình trong thực tiễn thi
hành pháp luật, chỉ ra bất cập và đề xuất hướng hoàn thiện.
Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập về
thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công tác mà tác
giả đang công tác.
Những kiến nghị là cơ sở để hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết
của Tòa án đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
7. Kết cấu của lu n ăn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm có 02 chương:
C ƣơn 1. Thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc và thẩm quyền của Tịa án
các cấp đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
C ƣơn 2. Thẩm quyền của Tịa án theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của
nguyên đơn, người yêu cầu đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình.


7
CHƢƠNG 1
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN THEO VỤ VIỆC VÀ THẨM QUYỀN
CỦA TÒA ÁN CÁC CẤP ĐỐI VỚI CÁC TRANH CHẤP
VỀ HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. T ẩm q ền của Tòa án theo ụ iệc
Xác định cha, mẹ, con là việc xác nhận mối quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ
và con. Trong tất cả các mối quan hệ gia đình thì có thể nói đây là mối quan hệ cơ bản,
quan trọng và thiêng liêng nhất. Theo Từ điển Luật học, xác định cha, mẹ, con là việc
xác nhận một người là cha, mẹ hoặc một người là con của người khác trên cơ sở các
quy định của pháp luật. Theo khái niệm này, xác định cha, mẹ, con là quyền của công
dân theo quy định của pháp luật về công nhận hoặc không công nhận mối quan hệ cha,

mẹ, con, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trên1.
Xác định cha, mẹ, con được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này.
Dưới góc độ sinh học - xã hội, xác định cha, mẹ, con là việc nhận diện mối
quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thơng qua sự kiện sinh đẻ. Gia
đình là một thiết chế xã hội cơ sở đóng vai trò quan trọng đối với xã hội. Việc xác
định cha, mẹ, con là cơ sở để đảm bảo cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm đối với
gia đình giữa các thế hệ và tạo điều kiện cho các quyền cơ bản của trẻ em được tôn
trọng, thực hiện. Những đứa trẻ sinh ra đương nhiên phải được trở thành thành viên
của gia đình, được quan tâm, phát triển về cuộc sống vật chất, tinh thần, đáp ứng
được những nguyện vọng chính đáng từ đời sống xã hội.
Việc xác định cha, mẹ, con là sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích gia đình và xã
hội, bởi khơng một tổ chức, mơi trường nào có thể thay thế được gia đình, là tổ ấm
mang lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân, từ khi con lọt lòng mẹ cho đến suốt cuộc đời.
Mỗi cá nhân sẽ tìm thấy ở gia đình sự đùm bọc về vật chất, tinh thần, tiếp thu sự
giáo dưỡng về mọi mặt, gia đình đảm bảo những điều kiện an toàn cho sự phát triển
toàn diện của trẻ em. Việc xác định cha, mẹ, con dựa trên những ngun tắc, tiêu
chuẩn khơng chỉ góp phần ổn định quan hệ xã hội mà còn nâng cao hiệu quả công
tác quản lý nhà nước về dân số và hộ tịch2.
Dưới góc độ pháp lý, xác định cha, mẹ, con là sự nhận diện cha, mẹ, con trên
cơ sở các quy phạm pháp luật, theo các thủ tục khác nhau nhằm xác định mối quan
hệ cha mẹ con.
1
2

Nguyễn Thị Lan (2002), Luận văn thạc sĩ “Xác định cha, mẹ, con – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tr.5
Nguyễn Thị Lan (2002), tlđd (1), tr.6.


8
Xác định cha, mẹ, con được quy định trong pháp luật Việt Nam phù hợp với

luật pháp quốc tế, đặc biệt là phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Theo
Công ước này, “Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có
quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời, và trong chừng mực có thể,
quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc”3. Xác định cha, mẹ,
con được quy định của Luật HN&GĐ, Hiến pháp và Pháp luật dân sự, thể hiện sự
quan tâm của Nhà nước, xã hội, tầm quan trọng của hoạt động này trong thực tiễn4.
Thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án đối với các tranh chấp về HNGĐ là giới
hạn do pháp luật quy định để Tòa án nhân dân thụ lý và giải quyết các tranh chấp về
HNGĐ. Thẩm quyền này được quy định tại Điều 28 BLTTDS. Nội dung thẩm
quyền theo vụ việc của Tòa án đối với các tranh chấp về HNGĐ được quy định tại
Mục 2 LHNGĐ, Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31.12.2014 hướng dẫn LHNGĐ
2014, Luật Hộ tịch năm 2010, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11
năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
hộ tịch và Thông tư 04/2020/TT-BTP ngày 28.5.2020 của Bộ Tư pháp về quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật hộ tịch.
Theo Điều 28 BLTTDS, Tịa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các tranh
chấp về hôn nhân và gia đình sau: Ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi
ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn; tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ; tranh
chấp về cấp dưỡng; tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo; tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái
pháp luật và các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền giải quyết về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho
cha, mẹ được quy định tại Điều 101 LHNGĐ và khoản 4 Điều 28 BLTTDS. Qua
nghiên cứu về thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp về xác định cha,

mẹ, con, tác giả nhận thấy có những bất cập như sau:
3
4

Điều 7 Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em.
Nguyễn Thị Lan (2002), tlđd (1), tr.7.


9
Thứ nhất, căn cứ xác định thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án đối với
các tranh chấp về việc xác định cha, mẹ, con là chưa cụ thể, rõ ràng.
Theo khoản 4 Điều 28 BLTTDS, Tịa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ. Theo Điều 101
LHNGĐ, cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy
định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp khơng có tranh chấp. Tịa án có thẩm
quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc
người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp người có yêu cầu chết.
Theo khoản 4 Điều 16 Thông tư 04/2020/TT-BTP, trường hợp con do người
vợ sinh ra hoặc có thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ hoặc chồng không thừa
nhận là con chung hoặc người khác muốn nhận con thì do Tịa án nhân dân xác định
theo quy định pháp luật. Trường hợp Tòa án nhân dân từ chối giải quyết thì cơ quan
đăng ký hộ tịch tiếp nhận, giải quyết yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em chưa xác
định được cha hoặc đăng ký nhận cha, con, hồ sơ phải có văn bản từ chối giải quyết
của Tòa án và chứng cứ chứng minh quan hệ cha, con theo quy định tại khoản 1
Điều 14 của Thông tư này.
Theo các quy định nêu trên, thẩm quyền giải quyết tranh chấp về xác định
cha, mẹ, con giữa cơ quan đăng ký hộ tịch và Tòa án là chưa cụ thể, chưa phân biệt
một cách rành mạch về thẩm quyền giữa các cơ quan trên. Căn cứ ”không có tranh
chấp” theo khoản 1 Điều 101 LHNGĐ là chưa cụ thể. Bởi, nói đến tranh chấp là nói

đến sự giành nhau, cãi nhau, đôi co nhau5. Bản chất của tranh chấp là sự xung đột
về lợi ích mà các bên không tự giải quyết được và yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền giải quyết. Trong việc xác định cha, mẹ, con, có một số trường hợp, tuy các
bên không tranh chấp nhưng vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND.
Ví dụ: Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con6.
Theo đơn khởi kiện ngày 10/02/2017, anh Lê trình bày: Anh Lê và chị Bùi có
quan hệ tình cảm (chị Bùi là vợ hợp pháp của anh Quảng) và sinh được 01 người
con chung tên là Hoàng (sinh ngày 07/10/2011). Tại thời điểm sinh con, vì chị Bùi
chưa ly hôn với anh Quảng (là chồng hợp pháp) nên chị Bùi phải làm thủ tục khai
sinh cho con theo họ anh Quảng và khai tên bố là anh Quảng.
Viện Ngôn ngữ (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa, trang 1075.
/>-1643/, cập nhật lúc 15h ngày 19.11.2021.
5
6


10
Tại Bản án số 09 ngày 23/9/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Q đã xử cho chị Bùi
và anh Quảng ly hôn, về quan hệ con chung chỉ xác định 01 người con chung là
cháu An, khơng đưa cháu Hồng vào để giải quyết về con chung.
Tại kết quả giám định ADN của Công ty trách nhiệm hữu hạn kỹ thuật
BIMECO Việt Nam kết luận: Anh Lê và cháu Hoàng có quan hệ huyết thống cha con.
Tại bản tự khai ngày 06/3/2017, chị Bùi thừa nhận cháu Hoàng là con chung
giữa chị Bùi và anh Lê. Cháu Hoàng do chị sinh ra khi anh Quảng đang ở nước
ngoài. Chị Bùi đề nghị Tịa án cơng nhận cháu Hồng là con của anh Lê như đơn
khởi kiện và yêu cầu của anh Lê. Anh Quảng đã được triệu tập và tống đạt các văn
bản tố tụng nhưng không nhận và không có ý kiến về việc thụ lý vụ án.
Tại Bản án số 05 ngày 20/6/2017, Tòa án nhân dân huyện H xác định đây là
vụ án tranh chấp xác định con cho cha. Bản án quyết định chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn, xác nhận cháu Hoàng là con đẻ của anh Lê7.

Đối với vụ án nêu trên, có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền và thủ
tục giải quyết.
Quan điểm thứ nhất, đây là vụ việc khơng có tranh chấp. Trong vụ án này,
nguyên đơn, bị đơn, người liên quan khơng ai có ý kiến phản đối u cầu xác định
con của nguyên đơn và chính mẹ cháu bé cũng thừa nhận cháu là con của anh Lê.
Việc Tòa án thụ lý và chấp nhận yêu cầu của anh Lê, xác định chị Bùi mẹ cháu bé là
bị đơn trong vụ án là hồn tồn khơng đúng quy định pháp luật. Trong vụ án này,
chị Bùi không hề ngăn cản việc anh Lê yêu cầu xác nhận con mà lại rất đồng tình
với yêu cầu của anh Lê.
Quan điểm thứ hai, đây là vụ việc có tranh chấp. Theo khoản 2 Điều 101
LHNGĐ, Tịa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp có tranh chấp. Yếu tố tranh chấp ở đây là anh Lê đã làm đơn khởi kiện yêu cầu
Tòa án xác định cháu Hoàng là con đẻ nhưng khai sinh tên cha lại là anh Quảng (là
chồng hợp pháp của chị Bùi tại thời điểm chị Bùi sinh cháu Hoàng). Tranh chấp
khơng có nghĩa là phải có sự khơng đồng ý giữa anh Lê, chị Bùi và anh Quảng.
Quan điểm thứ ba, đây là việc dân sự vì khơng có tranh chấp. Điều 101
LHNGĐ cần bổ sung thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục việc dân sự đối
với trường hợp xác định con khơng có tranh chấp để đương sự có sự lựa chọn cơ
quan giải quyết phù hợp (theo BLTTDS hoặc Luật Hộ tịch 2014), đồng thời có sự
thống nhất giữa Luật hơn nhân gia đình với Bộ luật Tố tụng dân sự.
7

1643/, cập nhật lúc 20h ngày 5.10.2021.


11
Quan điểm của tác giả: Trong vụ án này, tuy anh Lê, chị Bùi và anh Quảng
khơng có sự phản đối, xung đột với nhau nhưng đây là vụ việc có tranh chấp. Yếu
tố tranh chấp xác định ở chỗ là anh Lê đã khởi kiện vụ án, yêu cầu Tịa án xác
định con cho mình. Yếu tố thứ hai, đó là khai sinh của cháu Hồng, tên người cha

trong giấy khai sinh là anh Quảng. Nếu anh Lê yêu cầu cơ quan hộ tịch thay đổi
tên cha (từ anh Quảng sang anh Lê) theo sự thừa nhận của anh Lê và chị Bùi thì cơ
quan hộ tịch khơng thể thụ lý giải quyết. Bởi, cơ quan hộ tịch cấp giấy khai sinh
cho cháu Hoàng là đúng quy định của luật (con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là
con chung của vợ chồng, Điều 88 LHNGĐ). Vấn đề còn lại là hiểu như thế nào là
tranh chấp trong việc xác định con cần được xác định và thống nhất.
Hay một ví dụ khác cũng tương tự như trường hợp nêu trên được Tòa án xét
xử nhưng các bên cũng khơng có tranh chấp theo Bản án dân sự sơ thẩm số
26/2017/HNGĐ-ST ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố
Hải Phịng8. Theo bản án này thì vào năm 2012 anh Trần Văn P và chị Trần Thị
Thanh H chung sống với nhau như vợ chồng trong khi chị H chưa ly hôn với anh
Vũ Huy C (anh C đang chấp hành án), năm 2013 chị H sinh cháu K nhưng do chị H
và anh C chưa ly hôn nên không làm giấy khai sinh cho cháu K được. Năm 2016 chị
H và anh C ly hôn theo quyết định của Tòa án. Năm 2017 anh P yêu cầu Tòa án xác
định anh P là cha đẻ của cháu K, chị H cũng thống nhất và anh C cũng khơng có ý
kiến gì và xác nhận anh C và chị H khơng có con chung nào khác trong thời gian
anh chấp hành án. TAND quận Kiến An xử chấp nhận yêu cầu của anh P và xác
định anh P là cha đẻ cháu K theo kết quả giám định ADN.
Quan điểm của tác giả: Trong vụ án này, anh P, chị H và anh C khơng có sự
phản đối, xung đột với nhau, giữa chị H và anh C cũng đã được Tịa án giải quyết
ly hơn xong, nhưng đây vẫn là vụ việc có tranh chấp. Yếu tố tranh chấp là cháu K
được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân giữa anh P và chị H đang tồn tại theo Điều 88
LHNGĐ nên nếu anh C yêu cầu cơ quan hộ tịch làm khai sinh cho cháu K theo sự
thừa nhận của anh P và chị H thì cơ quan hộ tịch khơng thể thụ lý giải quyết.
Từ thực tiễn trên, theo tác giả, tranh chấp trong xác định con theo khoản 4
Điều 28 BLTTDS và Điều 101 LHNGĐ, cần được hướng dẫn như sau về thẩm
quyền và chủ thể khởi kiện:
Một, Điều 101 LHNGĐ sửa đổi theo hướng:
Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2017/HNGĐ-ST ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành
phố Hải Phòng (Phụ lục 1)

8


12
Nam, nữ chung sống với nhau hoặc sinh con khi chưa kết hơn, sau đó mới kết
hơn mà có u cầu nhận con thì thủ tục đăng ký nhận con theo quy định của pháp
luật hộ tịch.
Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và
chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt. Nếu thấy việc nhận cha, mẹ,
con là đúng và khơng có tranh chấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục
cho người yêu cầu.
Nam, nữ chung sống với nhau mà có con hoặc nam, nữ có con với người
đang có vợ, chồng và con đã đăng ký khai sinh với tên cha, mẹ là người khác, nếu
có u cầu nhận con thì phải do Tịa án giải quyết. Người có yêu cầu xác định con
phải có chứng cứ chứng minh. Trong trường hợp này, áp dụng khoản 4 Điều 28
BLTTDS và khoản 2 Điều 102 LHNGĐ để giải quyết.
Hai, Nghị quyết hướng dẫn thi hành về thẩm quyền của TAND mà cụ thể là
chủ thể khởi kiện đối với vụ án xác định cha, mẹ, con, cần được sửa đổi, bổ sung và
hướng dẫn theo hướng như sau:
Nam, nữ chung sống với nhau mà có con hoặc nam, nữ có con với người
đang có vợ, chồng và con đã đăng ký khai sinh với tên cha, mẹ là người khác thì
Tịa án giải quyết. Căn cứ áp dụng để giải quyết là quy định tại khoản 4 Điều 28
BLTTDS và khoản 2 Điều 102 LHNGĐ.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con giữa pháp luật về hộ
tịch và TTDS chưa dứt khoát, triệt để.
Theo khoản 4 Điều 16 Thông tư 04/2020/TT-BTP: Trường hợp con do người
vợ sinh ra hoặc có thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ hoặc chồng không thừa nhận
là con chung hoặc người khác muốn nhận con thì do Tòa án nhân dân xác định theo
quy định pháp luật. Trường hợp Tòa án nhân dân từ chối giải quyết thì cơ quan đăng

ký hộ tịch tiếp nhận, giải quyết yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em chưa xác định
được cha hoặc đăng ký nhận cha, con, hồ sơ phải có văn bản từ chối giải quyết của
Tòa án và chứng cứ chứng minh quan hệ cha, con theo quy định. Cách quy định này
là gây khó khăn cho đương sự trong việc yêu cầu xác định cha, mẹ cho con. Thay vì
quy định thẩm quyền rõ ràng thì Thơng tư lại quy định thêm điều kiện là “Tòa án
nhân dân từ chối giải quyết”. Quy định trên buộc đương sự phải yêu cầu Tòa án giải
quyết trước, nếu Tịa án từ chối thì thuộc thẩm quyền của cơ quan hộ tịch. Lẽ ra, đối
với trường hợp này nên quy định thẩm quyền là Tịa án thì phù hợp và cụ thể hơn.


13
Ví dụ: Đẻ con lúc ở với chồng cũ, chồng mới nhận cha9.
Vợ chồng ông Trần Văn A (Bến Tre) đăng ký kết hơn năm 2000, đến năm
2012 thì sinh bé Y (tên dự định đặt). Đến năm 2014, vợ chồng ơng A ly hơn theo
bản án Tịa. Từ khi sinh ra đến nay bé Y chưa được đăng ký khai sinh mà chỉ có
giấy chứng sinh do bệnh viện cấp.
Năm 2018, mẹ bé Y kết hôn với ông Võ Văn B và được UBND phường 2,
quận 10, TP.HCM cấp giấy chứng nhận kết hơn. Sau đó, ơng B u cầu UBND
phường đăng ký khai sinh cho bé Y. Hồ sơ mà ơng B cung cấp cho UBND phường
gồm có phiếu kết quả phân tích ADN thể hiện ơng là cha ruột bé Y (có cùng huyết
thống cha con), giấy chứng nhận kết hôn của ông và mẹ bé Y. Mẹ bé Y cũng có văn
bản thỏa thuận thừa nhận bé Y là con của bà và ông B.
Do bé Y được sinh ra năm 2012 (trong thời kỳ hôn nhân giữa mẹ bé Y và
chồng trước) nên UBND phường 2, quận 10, TP.HCM không giải quyết đăng ký
khai sinh cho bé và hướng dẫn ông B (chồng sau của mẹ bé Y) khởi kiện ra Tòa án
để xác định cha cho con.
Vì bé Y sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của ông A và mẹ bé nên ông A và mẹ
bé là cha mẹ. Tuy nhiên, ông A và người mẹ không đăng ký khai sinh nên họ khơng
phải là cha mẹ về mặt pháp lý dù có giấy chứng sinh.
Về phía ơng B, tuy chứng cứ xác định ADN là cha ruột bé Y nhưng vì bé không

sinh ra theo quy định tại Điều 88 LHNGĐ nên ông B cũng không phải cha bé Y.
Về nguyên tắc, Điều 88 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy định con
sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hơn nhân là
con chung của vợ chồng. Trường hợp bé Y phải là con của ông A và mẹ bé Y. Tuy
nhiên, vì chưa đăng ký khai sinh và vì cha đích thực của bé Y là ông B nên mẹ bé Y
khơng làm khai sinh cho bé. Bộ Tư pháp có tập huấn nghiệp vụ công tác hộ tịch là
trong trường hợp người cha không thừa nhận con hoặc người mẹ khẳng định khơng
phải là con của người chồng thì phải có chứng cứ và phải được Tịa án xác định.
Trường hợp Tịa án khơng thụ lý, giải quyết hoặc đình chỉ việc giải quyết do khơng
có tranh chấp thì để bảo đảm quyền lợi của trẻ em, tránh tình trạng trẻ không được
đăng ký khai sinh, đề nghị UBND cấp xã có thẩm quyền đăng ký khai sinh cho trẻ
theo diện con chưa xác định được cha. Hồ sơ phải có văn bản thể hiện việc từ chối
giải quyết của Tịa án có thẩm quyền; kết quả giám định ADN xác định người
9

cập nhật lúc
22h ngày 12.11.2021.


14
chồng không phải là cha ruột. Nếu người cha thực tế có u cầu nhận con thì kết
hợp giải quyết đăng ký khai sinh và nhận con theo quy định tại Điều 12 Thông tư số
15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày
15/11/2015 của Chính phủ. Tuy nhiên, Điều 12 Thơng tư số 15/2015/TT-BTP ngày
16/11/2015 chưa quy định rõ về trường hợp này. Theo Điều 12 của Thông tư này,
khi đăng ký khai sinh cho trẻ em mà có người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con
thì cơ quan đăng ký hộ tịch kết hợp giải quyết thủ tục đăng ký khai sinh và thủ tục
đăng ký nhận cha, mẹ, con và phải có chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con10.
Từ thực tiễn trên, theo tác giả, TANDTC, Bộ Tư pháp, VKSNDTC cần có

văn bản liên tịch (Thơng tư) hướng dẫn khoản 4 Điều 28 BLTTDS, khoản 4 Điều
16 Thông tư 04/2020/TT-BTP ngày 28.5.2020 của Bộ Tư pháp về quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15
tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật hộ tịch theo hướng như sau:
Khi đăng ký khai sinh cho trẻ em mà thời điểm trẻ em sinh ra đang có cha mẹ
thì giải quyết theo Điều 88 LHNGĐ. Nếu trẻ em chưa đăng ký khai sinh mà cha, mẹ
đã ly hơn, kết hơn với người khác và có nhu cầu xác định cha, mẹ, con thì thẩm
quyền thuộc về TAND.
Thứ ba, một số căn cứ xác định thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án đối
với các tranh chấp về việc xác định cha, mẹ, con chưa được luật nội dung quy định.
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 102 LHNGĐ, cha, mẹ, con, có
quyền u cầu Tịa án xác định con, cha, mẹ cho mình. Cha, mẹ, con, người giám
hộ; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội
liên hiệp phụ nữ có quyền u cầu Tịa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa
thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Theo khoản 2 Điều 89 LHNGĐ,
người được nhận là cha, mẹ của một người có thể u cầu Tịa án xác định người đó
khơng phải là con mình.
Theo quy định trên, Tịa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết việc xác
định cha, mẹ, con khi việc xác định này không tự nguyện và có tranh chấp. Thẩm
Nay là khoản 4 Điều 16 Thơng tư 04/2020/TT-BTP ngày 28.5.2020 của bộ Tư pháp về quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch.
10


15
quyền này được quy định tại Khoản 4 Điều 28 BLTTDS. Theo quy định trên, khi
đương sự hoặc đại diện của họ u cầu Tịa án giải quyết thì Tịa án phải thụ lý giải

quyết. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật để xác định thẩm quyền của
Tòa án đối với việc xác định cha, mẹ, con vẫn cịn bất cập. Đó là việc pháp luật
chưa ghi nhận quyền của đương sự trong việc yêu cầu Tòa án giải quyết quyền
lợi của họ và cần bổ sung.
Ví dụ: Việc xác định cha, mẹ, con có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan
tư pháp11.
Năm 2000, chị HTN (18 tuổi) từ Huế vào TP.HCM để làm việc, sinh sống.
Sau đó, chị quen và sống chung như vợ chồng với một người đàn ông. Năm 2002,
khi biết chị mang thai, người đàn ông này đã bỏ rơi chị.
Trong lúc tuyệt vọng, chị N. đã tìm đến cái chết nhưng được gia đình anh
LĐT (ngụ huyện Củ Chi, TP.HCM) cứu giúp. Anh T. đã có vợ nhưng thương hồn
cảnh tội nghiệp của chị N. nên đưa chị về Huế làm đám cưới giả (không đăng ký kết
hôn) để chị N không bị họ hàng, làng xóm đàm tiếu. Tháng 9-2003, khi chị N sinh
em bé, anh T ra Huế, đến ủy ban phường nơi chị N sống làm thủ tục nhận con và
khai sinh cho cháu bé.
Nay cháu bé con chị N là Đ4 (14 tuổi), vì sợ sẽ ảnh hưởng đến gia đình anh
T. Và muốn xóa tên cha trong giấy khai sinh, chị N đã bàn bạc với anh T, nhờ anh
đi xét nghiệm ADN để có chứng cứ nộp cho Tòa án yêu cầu xác nhận anh T không
phải là cha ruột của cháu bé. Anh T đồng ý. Ngày 17-11-2015, chị N đã nộp đơn
yêu cầu TAND huyện Củ Chi xác nhận anh T không phải là “cha sinh học” của con
gái mình. TAND huyện Củ Chi thụ lý, xác định đây là “tranh chấp về xác định cha,
mẹ cho con”.
Tháng 12-2015, TAND huyện Củ Chi đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án với lý do chị N khơng có quyền u cầu. Theo Tịa án, Khoản 2 Điều 89 Luật
Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định “Người được nhận là cha, mẹ của một người
có thể u cầu Tịa án xác định người đó khơng phải là con mình”. Theo Điều luật
này, chị N khơng có quyền u cầu Tịa án giải quyết thay cho anh T.
VKSND huyện Củ Chi đã kháng nghị phúc thẩm, khẳng định chị N có quyền
u cầu Tịa giải quyết. Theo VKS huyện Củ Chi, quy định này được ghi nhận tại
Khoản 3 Điều 102 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: “Cá nhân, cơ quan,

cập nhật lúc
22h ngày 2.10.2021.
11


16
tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền u cầu
Tịa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành
vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này:
a) Cha, mẹ, con, người giám hộ;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ”.
Trong vụ án này, TAND huyện Củ Chi đã ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự với căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình
2014 là có căn cứ. Bởi khoản 2 Điều 89 quy định chỉ có người được nhận là cha của
một người mới có quyền u cầu Tịa án xác định người đó khơng phải là con mình.
Việc người mẹ khởi kiện là không đúng với quy định trên. Theo điểm a khoản 1
Điều 192 BLTTDS, thì người mẹ là người khơng có quyền khởi kiện.
Từ bất cập trên, theo tác giả, khoản 2 Điều 89 LHNGĐ, Nghị quyết hướng
dẫn Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án cần được sửa đổi, bổ sung và
hướng dẫn theo hướng như sau:
Một, khoản 2 Điều 89 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 bổ sung, sửa đổi
như sau:
Điều 89. Xác định con
1. Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể u cầu Tịa án
xác định người đó là con mình.
2. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tịa án xác định
người đó khơng phải là con mình. Cha, mẹ của con có thể u cầu Tịa án xác định

người đó khơng phải là con mình.
Hai, Điều 102 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014, bổ sung, sửa đổi như sau:
Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền u
cầu Tịa án xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại
khoản 2 Điều 101 của Luật Hơn nhân và Gia đình 2014.
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây có quyền u cầu Tịa án xác định cha,
mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác
định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các
trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101, Khoản 2 Điều 89 của Luật Hơn
nhân và Gia đình 2014:


17
a) Cha, mẹ, con, người giám hộ;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
Ba, Nghị quyết hướng dẫn thi hành về thẩm quyền của Tòa án đối với quy
định tại khoản 2 Điều 89, Điều 102 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014, khoản 4 Điều
28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chủ thể khởi kiện đối với vụ án xác định
cha, mẹ, con, cần được hướng dẫn theo hướng như sau:
Người được nhận là cha, mẹ của một người có quyền u cầu Tịa án xác
định người đó khơng phải là con mình. Cha, mẹ, con, người giám hộ; Cơ quan
quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên
hiệp phụ nữ có quyền u cầu Tịa án xác định một người không phải là con của
người khác.
Quy định này đảm bảo việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án đối với các
tranh chấp về xác định cha, mẹ, con thuận lợi và dễ dàng hơn.
Thứ tư, thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo Điều 101 LHNGĐ và khoản
4 Điều 28 BLTTDS, chưa phân định rõ trong LHNGĐ và BLTTDS. Đối với một số

trường hợp, các quy định về thẩm quyền này có sự tùy nghi áp dụng và hậu quả có
thể là bản án, quyết định của Tịa án có thể bị hủy do có sự khơng thống nhất về xác
định thẩm quyền.
Ví dụ: Bàn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con12.
Anh A và chị B cư trú tại xã ĐT, thị xã NB, tỉnh H, chung sống năm 2008,
không đăng ký kết hôn. Năm 2009, chị B sinh cháu C và do anh A, chị B không
đăng ký kết hôn nên nhờ D (em trai anh A) E (vợ D) đứng tên cha mẹ trong giấy
khai sinh của cháu C. Năm 2015, C đến tuổi đi học nên anh A, chị B muốn thay
đổi phần tên cha, mẹ trong giấy khai sinh của C. Tuy nhiên, tại thời điểm này, D,
E bỏ đi đâu không rõ. Anh A và chị B yêu cầu UBND xã ĐT, thị xã NB, tỉnh H
cho thay đổi phần ghi cha, mẹ` của cháu C trong giấy khai sinh nhưng bị từ chối
và được hướng dẫn khởi kiện tại Tòa án thị xã NB, tỉnh H. Tòa án thị xã NB,
tỉnh H sau khi nhận đơn đã trả lại đơn khởi kiện với lý do sự việc không thuộc
thẩm quyền.
Từ vụ việc này, vấn đề đặt ra là nếu trẻ em đã có giấy khai sinh nhưng cha,
mẹ ruột muốn xác định lại con cho mình thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tịa án
12

Võ Văn Tuấn Khanh (2019), “Bàn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con”, Tạp chí kiểm sát, số 7 (4.), tr.55 – 58.


18
hay Ủy ban nhân dân? Theo khoản 1 Điều 89 LHNGĐ, người không được nhận là
cha, mẹ của một người có thể u cầu Tịa án xác định người đó là con mình.
Nhưng vấn đề đặt ra là theo Điều 101 LHNGĐ thì đối với việc xác định cha, mẹ,
con mà khơng có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của cơ quan hộ tịch. Vậy trong
trường hợp này, có hay khơng có sự tranh chấp? Nếu khơng có sự tranh chấp về xác
định cha, mẹ, con thì do Ủy ban nhân dân giải quyết. Tuy nhiên, vì đứa trẻ đã có
cha, mẹ (anh D, chị E) trong giấy khai sinh nên không thuộc trường hợp nhận cha,
mẹ, con theo Điều 25 Luật Hộ tịch năm 2014. Ngược lại, Tòa án từ chối giải quyết

vì cho rằng trong vụ việc này khơng có tranh chấp do khơng xác định ý chí của anh
D, chị E nên từ chối thụ lý.
Theo tác giả, trong trường hợp này, khoản 1 Điều 89 LHNGĐ, Điều 101
LHNGĐ và khoản 4 Điều 28 BLTTDS cần thống nhất những nội dung sau:
Một, quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định một người là con mình
là quyền của cha, mẹ và phải được giải quyết. Trong trường hợp này, khơng thể vì
chưa có sự hướng dẫn thống nhất trong áp dụng pháp luật mà từ chối yêu cầu của
anh A, chị B là không thỏa đáng.
Hai, việc xác định cha, mẹ, con phải có quy định thống nhất đồng bộ giữa
LHNGĐ, Luật Hộ tịch và BLTTDS.
Ba, đối với trẻ đã có giấy khai sinh thì thẩm quyền thuộc về UBND và Tịa
án. Nếu trẻ em có nhiều giấy khai sinh do nhiều cơ quan hộ tịch cấp thì việc xác
định giấy khai sinh nào là đúng sẽ do Ủy ban nhân dân giải quyết13. Trường hợp trẻ
sinh ra đã được cấp giấy khai sinh nhưng họ tên cha, mẹ khơng đúng và có u cầu
thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Đối với vụ việc nêu trên, để đảm bảo
đúng thủ tục tố tụng thì Tịa án phải tun bố anh D, chị E mất tích theo Điều 68
BLDS và tiến hành giải quyết theo yêu cầu của anh A, chị B.
Từ thực tiễn trên, tác giả kiến nghị TANDTC, Bộ Tư pháp, VKSNDTC ban
hành văn bản liên tịch hướng dẫn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo Điều
101 LHNGĐ và khoản 4 Điều 28 BLTTDS theo hướng như sau:
Việc nhận cha, mẹ, con mà con chưa có giấy khai sinh và việc nhận cha, mẹ,
con tự nguyện, khơng có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của UBND có thẩm
quyền theo quy định.

Cù Hiền, “Hy hữu: 1 bé gái được cấp 2 giấy khai sinh” truy cập lúc 21h ngày 3.10.2021.
13


19
Việc nhận cha, mẹ, con mà con có nhiều giấy khai sinh do nhiều cơ quan hộ

tịch cấp và có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của UBND có thẩm quyền giải quyết.
Việc nhận cha, mẹ, con mà con đã có giấy khai sinh nhưng tên cha, mẹ trong
giấy khai sinh khơng phải là cha, mẹ đích thực thì dù tự nguyện hay có tranh chấp,
thẩm quyền thuộc về Tịa án nhân dân.
1.2. T ẩm q ền của Tòa án các cấp
Thẩm quyền của Tòa án các cấp là bộ phận của thẩm quyền xét xử, xác định
cấp Tòa án được tiến hành thụ lý giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm.
Thẩm quyền của Tòa án các cấp là giới hạn do pháp luật quy định để Tòa án các cấp
thực hiện chức năng giải quyết các vụ việc dân sự.
Thẩm quyền của Tòa án các cấp có thể được phân chia theo các tiêu chí: Giá
trị tranh chấp, tính chất của vụ việc hoặc bản chất của tài sản. Theo BLTTDS 2015,
thẩm quyền của Tòa án các cấp được phân chia căn cứ vào tính chất của vụ việc.
Thẩm quyền của Tịa án các cấp bao gồm thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao,
thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và cấp huyện14.
Mỗi cấp Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng có thẩm quyền giải quyết
trong phạm vi những vụ việc dân sự nhất định. Cơ sở để cơ quan ban hành pháp luật
quy định thẩm quyền cho từng cấp Tòa án là dựa vào năng lực thực sự của các cấp
Tòa án và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật. Sự phù hợp giữa quy định của pháp
luật thẩm quyền xét xử và năng lực của cấp Tòa án là điều kiện quan trọng thúc đẩy
hoạt động thực thi pháp luật ngày càng tốt hơn, giúp cho Tòa án giải quyết các vụ
việc dân sự đúng đắn, chính xác15.
Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh được quy định tại Điều
35 và Điều 37 BLTTDS. Theo Điều 35 BLTTDS, Tịa án cấp huyện khơng được
thụ lý giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình mà có đương sự hoặc tài
sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngồi, cho Tịa án, cơ quan có thẩm quyền
của nước ngồi trừ việc ly hơn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng,
cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt
Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu
vực biên giới với Việt Nam và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB. Hồng
Đức, tr.143.
15
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (14), tr.144.
14


20
Theo Điều 2 Dự thảo của Tòa án nhân dân tối cao16 vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngồi thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Viêt Nam theo quy định tại Điều
469 của Bộ luật tố tụng dân sự được xác định như sau:
- Vụ án có bị đơn là cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam:
Vụ án giữa nguyên đơn là cơng dân Việt Nam ở nước ngồi, người nước ngồi, cơ
quan, tổ chức nước ngồi và bị đơn là cơng dân Việt Nam ở trong nước; vụ án giữa
nguyên đơn quy định tại điểm a khoản này với bị đơn là người nước ngoài đang cư
trú, làm việc tại Việt Nam và được cấp thẻ thường trú, thẻ tạm trú hoặc được cấp
giấy miễn thị thực có thời hạn khơng quá 5 năm, kể cả trường họp được xem xét cấp
lại thẻ hoặc giấy này theo quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá
cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
- Vụ án mà bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam: Vụ án giữa nguyên đơn
là người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngồi và bị đơn là cơng dân Việt Nam,
cơ quan, tổ chức Việt Nam có tài sản tại Việt Nam; vụ án giữa nguyên đơn là công
dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức Việt Nam, người nước ngoài, cơ quan, tổ chức
nước ngoài với bị đơn là người nước ngồi, cơ quan, tổ chức nước ngồi có tài sản
tại Việt Nam.
- Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam hoặc các
đương sự là người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam: Vụ
việc ly hôn giữa cơng dân Việt Nam và người nước ngồi mà ngun đơn hoặc bị
đơn ở nước ngoài hoặc các bên đương sự đều ở nước ngồi; vụ việc ly hơn giữa các
bên đương sự là người nước ngoài và người nước ngồi có tài sản tại Việt Nam.

Theo Điều 3 Dự thảo của Tòa án nhân dân tối cao xác định vụ việc dân sự
thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Viêt Nam theo quy định tại Điều 470 của
Bộ luật tố tụng dân sự được xác định như sau:
- Vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên
lãnh thổ Việt Nam có một bên đương sự là người nước ngoài, cơ quan, tổ chức
nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế có thỏa thuận khác.
- Vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam ở trong nước và đương sự là người
nước ngoài và các quy định khác liên quan đến vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi.
Theo Điều 471 BLTTDS, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi đã được một
Tịa án Việt Nam thụ lý giải quyết theo quy định về thẩm quyền thì phải được Tịa
Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền, thủ tục
giải quyết vụ việc dân sự có yếu nước ngồi tại Tịa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thấm lần 1 năm 2019.
16


×