Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

LUẬN văn vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên hiện nay qua thực tế ở tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.27 KB, 120 trang )

1

LUẬN VĂN- Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên
hiện nay qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa
Mục lục

Mở đầu
Chương 1: tính cấp thiết và u cầu đạo đức cách mạng

Trang
1

của cán bộ - đảng viên hiện nay
1.1. Đạo đức cách mạng và yêu cầu đạo đức cách mạng của

7

cán bộ - đảng viên trong giai đoạn hiện nay
1.2. Tính cấp thiết của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho

7

cán bộ - đảng viên trong tình hình hiện nay
Chương 2: Thực trạng cơng tác giáo dục đạo đức cách

24

mạng và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng
cường giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ
- đảng viên trong giai đoạn cách mạng hiện
nay


2.1. Công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ - đảng

40

viên Thanh Hoá - kết quả, hạn chế và nguyên nhân
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường giáo dục

40

đạo đức cách mạng cho cán bộ - đảng viên trong giai
đoạn hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

61
83
85
91


2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn bảy thập kỷ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã
cùng nhân dân ta vượt qua bao gian nan thử thách, đưa cách mạng
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vẻ vang
của dân tộc. Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố

quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo một lần nữa chứng minh sự phát triển và
trưởng thành của Đảng. Thành tựu đó rất to lớn và đáng tự hào.
Bác Hồ của chúng ta thường nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi
việc" công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ có đạo đức
tốt hay kém, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, khơng
có đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được
nhân dân. Đạo đức là nền tảng, là gốc của người cán bộ, đảng viên.
Có đạo đức cách mạng, có lối sống giản dị, trong sạch, lành mạnh
cán bộ đảng viên sẽ có uy tín, có điều kiện hồn thành tốt nhiệm vụ
của mình.Trong giai đoạn cách mạng hiện nay sự suy thoái tư


3

tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đang là
nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, sự sống còn của chế độ.
Đại hội VII của Đảng đánh giá sự suy thoái đạo đức lối sống
của cán bộ, đảng viên : “Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của một
bộ phận cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng, tình hình mất đồn kết
xảy ra trong nhiều tổ chức Đảng” [16, tr.48]. Đại hội VIII khẳng
định sự suy thối đạo đức, lối sống khơng cịn ở một bộ phận mà:
“một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân,
phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ
chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức, lối sống” [17, tr.137]. Tại Hội nghị
Trung ương lần thứ 9 khóa IX Đảng ta tiếp tục chỉ rõ: “Tình trạng
quan liêu tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thối về tư
tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một số cán bộ,
đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng” [23, tr.80-81]. “Cần nhận thức

rằng: cuộc vận động xây dựng,chỉnh đốn Đảng chưa tạo được
chuyển biến cơ bản, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí” [23, tr.81]. Vấn đề đặt ra là tại sao mức độ
sự suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên lại
tăng lên mặc dù chúng ta không ngừng nỗ lực ngăn chặn ? Phải
chăng do chưa có một biện pháp sát hợp để đẩy lùi nó? hoặc chưa
có sự nhận thức đúng về những tác hại của sự suy thoái đạo đức, lối
sống từ đội ngũ này, dù đây là vấn đề bức xúc trong dân chúng và
toàn xã hội ?


4

Vấn đề hết sức cấp bách này cần phải được tiếp tục nghiên cứu
sâu hơn để có những giải pháp hiệu quả trong công tác giáo dục đạo
đức cách mạng cho cán bộ -đảng viên. Xuất phát từ yêu cầu đó tơi
chọn đề tài: “Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ - đảng viên
hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa)”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
của Đảng đặc biệt quan tâm trong quá trình đào tạo bồi dưỡng, rèn
luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhiều bài viết, bài nói của Người
để lại được tập hợp và đó là những cơng trình nghiên cứu về đạo
đức cách mạng như:
“Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng”, Nxb Sự thật 1976;
“Chủ Tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng”, Nxb
Thơng tin lý luận, Hà Nội, 1986; “Học tập đạo đức cách mạng Hồ
Chí

Minh”,


Nxb

Thơng

tấn,



Nội, 2004.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, đã được một số tác giả
nghiên cứu và trên cơ sở học tập đạo đức, phong cách làm việc của
Người, đề xuất các giải pháp xây dựng đạo đức mới:
“Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của công chức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. Thang Văn
Phúc chủ biên; “Mấy vấn đề đạo đức cách mạng”, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 1978 của Vũ Khiêu.


5

Một số tác giả có các bài viết về mối quan hệ giữa kinh tế và
đạo đức đồng thời khẳng định các giá trị đạo đức luôn chịu tác động
hai mặt từ môi trường kinh tế. Các tác giả cũng chỉ ra sự phức tạp
của các vấn đề đạo đức xã hội: Đạo đức mới vừa phải đấu tranh với
các hệ thống đạo đức khác, vừa phải đấu tranh tự đổi mới trong điều
kiện mới:
“Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị
đạo đức hiện nay”. Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, tháng
6/1996; “Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức

người cán bộ quản lý”. Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, tháng 2/1997; “Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức với việc xây
dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên cơ sở hiện nay (qua thực
tế ở Thành phố Hồ Chí Minh)". Dương Xuân Lộc, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Hà Nội, 2000.
Trong những năm gần đây một số tác giả đi vào nghiên cứu
vấn đề đạo đức, đạo đức của người cán bộ trong điều kiện kinh tế
thị trường:
“Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý Nhà nước trong giai đoạn hiện nay”. Phạm Văn
Hùng, Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2000; “Vấn đề xây dựng đạo đức
cho cán bộ cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay qua thực tế tỉnh Thái Bình”. Đặng Thanh Giang, Luận văn Thạc
sĩ Triết học, 2001; Đạo đức người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh
Bình Định trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay - vấn đề và


6

giải pháp”. Lê Ngọc Danh, Luận văn thạc sĩ Triết học, 2002; “Vấn
đề xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cơ sở ở
tỉnh Đăk Lăk trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay”. Nguyễn
Tuyên Quang, Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2003; Xây dựng đạo đức
mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Kiên Giang)”. Nguyễn Văn
Quyết, Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2000; “Vấn đề xây dựng đạo
đức mới cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở
tỉnh Hà Giang hiện nay”. Trương Văn Thắng, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Hà Nội, 2003; “Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay (qua thực tế ở tỉnh

Hưng Yên)", Bùi Văn Hà, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội 2004.
Trong các cơng trình này, các tác giả đã đưa ra những chuẩn
mực đạo đức, những nguyên tắc và những yêu cầu đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên. Các tác giả cũng thống nhất khi luận
giải việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cách
mạng nói riêng phải trên cơ sở của mơi trường kinh tế văn hóa, xã
hội nhất định, từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay. Thực tế cho
thấy tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên trong những năm qua không giảm. Vấn đề đặt ra là
nguyên nhân sâu xa nào khiến cho những giải pháp của chúng ta đề
ra chưa được thực hiện hiệu quả?


7

Những năm qua ở Thanh Hóa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã xây
dựng Đề án: “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên trong tình hình mới”; trên cơ sở đó Ban Thường
vụ Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị 15 CT-TU về tăng cường công tác giáo dục
đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay.Các văn bản trên thể
hiện quan điểm chỉ đạo cấp thiết, mạnh mẽ của Ban chấp hành Đảng
bộ tỉnh trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên trong tình hình hiện nay. Để luận giải sâu sắc về nguyên nhân
của sự yếu kém kéo dài của thực trạng đạo đức như nhận định của
Đảng qua nhiều văn kiện và tính chất phức tạp của vấn đề đạo đức,
tác giả muốn đi sâu làm rõ và đề ra những giải pháp cần được xem
xét ở góc độ triết học cho một đối tượng riêng: những đảng viên là
cán bộ.
Những cơng trình của các tác giả đi trước là cơ sở có ý nghĩa

quan trọng đối với việc nghiên cứu vấn đề đạo đức cách mạng cho
cán bộ - đảng viên hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa).
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa, luận văn phân tích thực trạng
cơng tác giáo dục đạo đức cách mạng và nguyên nhân của việc giáo
dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ-đảng viên chưa đạt được
yêu cầu đề ra.Từ đó, đề xuất một số giải pháp ngăn chặn những biểu
hiện tiêu cực của đạo đức lối sống và nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục đạo đức cho cán bộ- đảng viên.


8

* Nhiệm vụ:
- Trình bày những yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộđảng viên hiện nay.
- Đánh giá thực trạng đạo đức cách mạng của cán bộ-đảng
viên qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa.
- Đánh giá việc thực hiện nghị quyết của Đảng về đạo đức, lối
sống của cán bộ-đảng viên trong những năm qua. Phân tích nguyên
nhân của những hạn chế thiếu sót trong cơng tác này.
- Đề ra những giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ - đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đạo đức cách mạng
của đảng viên nhưng đảng viên là cán bộ.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề giáo dục đạo đức
cách mạng của cán bộ-đảng viên hiện nay ở nước ta qua thực tế ở
tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận trực tiếp của luận văn là quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về đạo đức của người cán bộ, đảng viên.
- Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp của CNDVBC và
CNDVLS, phương pháp lơgíc và lịch sử, điều tra xã hội học để thực
hiện.


9

Đạo đức cách mạng của cán bộ - đảng viên là vấn đề đã được
nêu ra trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và có nhiều cơng
trình nghiên cứu về vấn đề này. Do vậy, tác giả đã căn cứ vào các
văn kiện, nghị quyết của Đảng, kế thừa một số kết quả nghiên cứu
của những cơng trình trước và thực tiễn công tác tư tưởng, công tác
kiểm tra, công tác tổ chức Đảng của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa trong
q trình thực hiện.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Qua khảo sát thực trạng đạo đức của cán bộ-đảng viên tỉnh
Thanh Hóa chỉ ra những nguyên nhân khiến cho việc giáo dục đạo
đức cách mạng cho cán bộ-đảng viên trong thời gian qua chưa đạt
yêu cầu đề ra.
- Đề xuất những giải pháp nhằm giáo dục hiệu quả đạo đức
cách mạng cho cán bộ-đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giáo
dục đạo đức cách mạng của cán bộ-đảng viên nói chung và cán bộđảng viên ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu giảng dạy, học tập đạo đức trong các trường học ở tỉnh
Thanh Hóa.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu, luận văn có
2 chương, 4 tiết.


10

Chương 1
TÍNH CẤP THIẾT VÀ YÊU CẦU ĐẠO ĐỨC CÁCH MNG
CA CN B - NG VIấN HIN NAY
1.1. Đạo đức cách mạng và yêu cầu đạo đức cách mạng của
cán bộ - đảng viên trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. o đức cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ buổi
bình minh của lịch sử lồi người. Nó được phát triển, hồn thiện
trên cơ sở các chế độ kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
Trong q trình phát triển đó, cùng với sự vận động biến đổi của tồn
tại xã hội, đạo đức cũng có những biến đổi, đã tồn tại nhiều những
quan niệm đạo đức khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong lịch sử.
Quan điểm duy tâm tôn giáo cho rằng đạo đức là những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực rút ra từ những lực lượng siêu nhiên hay những
bản tính trừu tượng "ý niệm tuyệt đối", "thượng đế" … rồi đem áp
dụng vào đời sống hiện thực của con người mà không xuất phát từ
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, từ quan niệm xã hội hiện
thực để suy ra lĩnh vực tư tưởng trong đó có tư tưởng đạo đức. Ngay
các nhà duy vật trước Mác khi đi vào nghiên cứu những vấn đề đạo
đức, họ cũng hoặc chưa thoát khỏi những quan điểm duy tâm hoặc
lại rơi vào quan điểm siêu hình.



11

Những quan niệm đạo đức trước Mác tuy có những hạn chế
do hoàn cảnh lịch sử, do địa vị giai cấp và nhận thức, nhưng cũng
có đóng góp nhất định cho quan niệm đúng đắn, khoa học về đạo
đức sau này.
Theo quan niệm Mác xít:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [31,
tr.8].
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh
tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Theo
Mác - Ănghen con người hoạt động tức đã sản xuất ra các tư liệu vật
chất cần thiết cho đời sống trước khi sáng lập các thứ lý luận và
nguyên tắc bao gồm cả triết học và luân lý học. Chế độ kinh tế - xã
hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người. Sự phát sinh
phát triển của đạo đức xét đến cùng là một quá trình do sự phát triển
của phương thức sản xuất quyết định.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con
người, loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành
vi con người: phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức…
Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn chuẩn
mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện


12


và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Những khuôn phép
và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc của một giai cấp
nhất định để đề ra cho hành vi mỗi cá nhân. Trong xã hội có giai
cấp, bao giờ đạo đức cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất
định. Sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, xét về bản chất,
đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người.
Đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời
sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và
giải quyết nhằm bảo đảm cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát
triển. Sống trong xã hội, mỗi người phải suy nghĩ về những vấn đề
đạo đức để tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt
động nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó bảo đảm
cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng đồng. Đạo đức đã
trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để phát triển xã hội.
Vai trị của đạo đức cịn được biểu hiện thơng qua các chức
năng cơ bản của đạo đức: điều chỉnh hành vi, giáo dục, nhận thức.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Đạo đức
thúc đẩy sự phát triển xã hội, làm cho hành vi của con người phù
hợp với sự phát triển xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã
hội và lương tâm đã trở thành đặc trưng để phân biệt đạo đức với
các hình thái ý thức khác, các hiện tượng xã hội khác.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của
lịch sử. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời


13

hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hóa tác động, chi
phối con người. Chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một

mặt " giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng", giữa cá nhân và cộng
đồng; mặt khác, là sự " tự giáo dục" ở cả cấp độ cá nhân lẫn cấp độ
cộng đồng.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức
năng nhận thức thơng qua sự phản ánh tồn tại xã hội.
Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại vừa
hướng nội. Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống
đạo đức của xã hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác,
trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống... Nhận
thức hướng nội ( tự nhận thức) lấy bản thân mình - chủ thể đạo đức
- làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm
định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với
những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức
này mà chủ thể hình thành, phát triển thành các quan điểm và
nguyên tắc sống: sáng tạo hay thụ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị
tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác …
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm
là rất lớn. Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội
đối với chủ thể, cịn lương tâm là sự tự phê bình. Cả hai đều giúp
chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình - giá trị mà xã hội mong
muốn. Tự nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình
và sẵn sàng để hồn thành trách nhiệm đó.


14

Tóm lại, đạo đức là yếu tố cốt lõi của nhân cách con người,
nó có vai trị rất quan trọng trong đời sống xã hội, nó là một phương
thức cơ bản điều chỉnh hành vi của con người, làm cho cá nhân và
xã hội cùng tồn tại và phát triển. Chính vì thế mà các giai cấp, các

tập đồn xã hội tiến bộ bao giờ cũng sử dụng đạo đức như là một
trong những công cụ động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển.
Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao trên con đường tiến lên
của đạo đức lồi người. Nó chứa đựng tất thảy những đặc điểm tốt
đẹp của nền đạo đức trong các thời đại trước, đạo đức của quần
chúng nhân dân. Đạo đức cộng sản là một bước phát triển mới về
chất, bộ mặt tinh thần của những con người đã tiêu diệt chế độ bóc
lột và đã lập nên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo Lênin, đạo đức
cộng sản đó là "những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc
lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động xung quanh
giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của người cộng sản"
[41, tr.41].
Vì vậy, đạo đức cộng sản phản ánh lợi ích căn bản của giai
cấp vô sản trong cách mạng vô sản, là vũ khí tinh thần giúp giai cấp
cơng nhân xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội
chủ

nghĩa



cộng

sản

chủ nghĩa.
Trên cơ sở tiếp thu quan niệm đạo đức cộng sản chủ nghĩa,
kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại, đạo đức truyền thống của dân



15

tộc, Hồ Chí Minh xây dựng lý luận đạo đức cách mạng. Đồng thời
Người cũng là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng,
xây dựng và vun đắp là đạo đức mang bản chất của giai cấp công
nhân kết hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
và tinh hoa đạo đức nhân loại. Nó là sự kết hợp, sự thống nhất biện
chứng giữa lý tưởng đạo đức với lý tưởng chính trị, giữa tính cách
mạng và tính khoa học. Điều đó được thể hiện trước hết ở chỗ, đạo
đức cách mạng là đạo đức phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân, giai cấp có sứ mệnh
lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành độc lập dân tộc và đưa
đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó phù hợp với quy
luật vận động phát triển của lịch sử xã hội, với sự phát triển của đạo
đức tiến bộ của nhân loại, hướng tới mục tiêu giải phóng con người
khỏi áp bức bất công. Với thuật ngữ đạo đức cách mạng Bác Hồ
muốn nói về đạo đức mới, đạo đức cộng sản nhưng nó mang nội
dung cụ thể với những người cán bộ, đảng viên - những người làm
cách mạng. Vì thế, nói về đạo đức cách mạng Người, nhấn mạnh
đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách
mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng,
giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối chính
sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết


16


lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và
phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến cơng tác của
mình và cùng đồng chí mình tiến bộ [51, tr.285].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về những phẩm chất cơ bản của đạo
đức cách mạng có thể khái qt thành bốn nội dung chính:
- Trung với nước, hiếu với dân: Đây là phẩm chất bao trùm
nhất, quan trọng nhất chi phối các phẩm chất khác, là điểm xuất
phát mang tính cách mạng trong quan niệm về đạo đức. "Trung" và
"hiếu" là hai khái niệm cơ bản, đứng đầu trong "tam cương" và "ngũ
luân" của đạo đức nho giáo. Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa truyền
thống yêu nước của người Việt Nam, giữ lại ý nghĩa trách nhiệm,
bổn phận của người dân, của người con trong khái niệm "trung,
hiếu" để đưa vào đây nội dung mới, hồn tồn mang tính cách
mạng, "trung với nước, hiếu với dân". "Trung với nước" là trung
thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước của nhân dân, của Đảng;
"hiếu với dân" là đem lại cuộc sống "ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân", "thương dân, gần dân, gắn bó với dân, kính trọng lễ
phép với dân, học tập dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc".
Đối với cán bộ, đảng viên Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao
hơn là "tận trung với nước, tận hiếu với dân, vì cán bộ đảng viên
vừa là người lãnh đạo, người "dẫn dắt", nhưng lại "là đầy tớ thật
trung thành của nhân dân". Trung với nước, hiếu với dân có quan hệ


17

chặt chẽ với nhau, càng "trung với nước" bao nhiêu, thì càng "hiếu

với dân" bấy nhiêu và càng "hiếu với dân" bao nhiêu sẽ thể hiện
được "trung với nước" cao bấy nhiêu.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư:
+ Cần: Là chuyên cần, cần mẫn, mọi người cần phải có đức
tính cần cù, chủ động tích cực sáng tạo mang lại hiệu quả cao cơng
việc mà mình đảm nhận. Tính hiệu quả là yêu cầu khách quan, là
chuẩn mực quan trọng để đánh giá cán bộ đảng viên. Cán bộ, đảng
viên phải chuyên cần, phải yêu, say mê công việc của Đảng, của
nhân dân giao phó như chính cơng việc của gia đình mình, phải tìm
tịi sáng tạo, phát hiện và nhân các sáng kiến, kinh nghiệm hay, vận
dụng vào thực tiễn có hiệu quả.
+ Kiệm: Là tiết kiệm, khơng xa xỉ hoang phí, mục đích của
tiết kiệm là nâng cao hiệu quả của lao động sản xuất, mọi người
phải thực hành tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tiết kiệm
không không phải là bủn xỉn, việc gì khơng nên tiêu sài dù một hào
cũng khơng nên tiêu, việc gì đáng làm mà có ích cho nhân dân cho
đất nước thì dù có tốn đến bao nhiêu cơng bao nhiêu của cũng vui
lịng, như thế mới đúng là tiết kiệm"
+ Liêm: Là trong sạch không tham lam, không tham tiền
của, địa vị, danh lợi, không tham ăn ngon, mặc đẹp … cán bộ, đảng
viên phải lấy chữ Liêm làm đầu, phải thường xuyên rèn luyện phẩm
chất liêm khiết trước nhân dân, trước Đảng. Cán bộ, đảng viên phải
thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho nhân dân.


18

+ Chính: Là ngay thẳng, khơng tà, đúng đắn, là người làm
việc công, phải công tâm, công đức, chớ đem của công dùng vào
việc tư, chớ đem người tư làm việc cơng, việc gì cũng phải cơng

minh chính trực, khơng nên tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán. Mình
có quyền dùng người thì phải dùng người có tài năng, làm được
việc, thực sự cần, kiệm, liêm, chính.
Người cán bộ, đảng viên khơng chỉ nỗ lực rèn luyện mình
theo chính nghĩa cách mạng mà phải đấu tranh chống các biểu hiện
tiêu cực, khơng chân chính; khơng chỉ tích cực xây dựng đức
"chính" ở người khác mà phải thực sự phê bình và tự phê bình một
cách thẳng thắn để chiến thắng sự cám dỗ của các thế lực đen tối.
+ Chí cơng vơ tư là đem lịng chí cơng vô tư đối với người,
với việc, ham làm những việc ích nước lợi dân, không ham địa vị
công danh. Chí công vô tư là chăm lo việc nước như chăm lo việc
nhà, chăm lo việc tập thể như việc gia đình. Như vậy, chí cơng vơ tư
khơng phải là khơng chăm lo đến lợi ích riêng, Bác chỉ yêu cầu
trong quan hệ lợi ích chung và riêng phải hài hịa, nghĩ lợi ích riêng
nhưng cần tính tốn ưu tiên đến lợi ích chung.
Cơ sở khách quan của chí cơng vơ tư là quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích cộng đồng, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung,
trong đó lợi ích riêng, lợi ích cá nhân chỉ có tính chân chính khi nó
khơng đối lập với lợi ích chung, đặt lợi ích của Đảng của nhân dân
lên trên lợi ích của cá nhân mình.


19

Chí cơng vơ tư là phải chống chủ nghĩa cá nhân. Bác lưu ý
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân khơng phải là giày xéo lên lợi ích
cá nhân. Mỗi người đều có tính cách, sở trường riêng, đời sống riêng
của bản thân và gia đình, nếu lợi ích cá nhân mà khơng trái với lợi ích
tập thể thì khơng phải là xấu.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là những phẩm chất

đạo đức căn bản của người cách mạng.
- Thương yêu, quý trọng con người: Người cách mạng,
người có lý tưởng xã hội chủ nghĩa khơng thể là người khơng có
tình u thương con người. Rộng lượng, khoan dung với người, biết
cách nâng đỡ con người, thái độ tôn trọng con người luôn gắn liền
với yêu thương, quý trọng con người và đồng thời phải nghiêm khắc
với bản thân mình.
Tình u thương con người khơng chung chung trừu tượng,
phi giai cấp mà gắn với cuộc đấu tranh giải phóng, giành độc lập tự
do cho dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội; con người được giải
phóng, được sống trong đất nước độc lập, trở thành chủ nhân thật sự
của đất nước, được "ấm no, tự do, hạnh phúc".
- Tinh thần quốc tế trong sáng: Theo Hồ Chí Minh, tinh thần
yêu nước phải gắn liền với tinh thần quốc tế trong sáng, chân chính.
Nếu chỉ có tinh thần u nước mà khơng có tinh thần quốc tế trong
sáng, chân chính thì sẽ dẫn đến hoặc kỳ thị dân tộc, chủng tộc, nước
lớn hoặc dân tộc hẹp hòi. Tinh thần quốc tế trong sáng chân chính là
tinh thần quốc tế vơ sản, đồn kết các dân tộc bị áp bức giai cấp vô


20

sản toàn thế giới trong cuộc đấu tranh cho tiến bộ, hịa bình, độc lập
dân tộc, hữu nghị, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đạo đức cách mạng "là gốc, là nền tảng của người cách
mạng" là nguồn nước làm cho tinh thần cách mạng không bao giờ
cạn. Bác khẳng định "có sức mới gánh được xa, có đức mới hồn
thành nhiệm vụ", "phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi đã có cái
trí, hiểu biết về khoa học, chủ nghĩa Mác, phương pháp cách
mạng…. thì cái đức chính là cái bảo đảm cho người cách mạng giữ

vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp thuận, đã đi
theo.
Cần phải nhấn mạnh rằng, đạo đức cách mạng mà Bác Hồ
đã chỉ ra như: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư … là một động lực giúp con người vượt qua cạm bẫy
của chủ nghĩa cá nhân, vượt qua những khó khăn gian khổ để phấn
đấu cho lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc
và của lồi người. Có đạo đức cách mạng thì khi cần, sẵn sàng hy
sinh cả tính mạng của mình. Động lực của đạo đức cách mạng cịn
biểu hiện ở mặt thứ hai là khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn
giữ được tinh thần giản dị, chất phác, khiêm tốn, không kèn cựa về
mặt hưởng thụ, khơng cơng thần, quan liêu, kiêu ngạo, hủ hóa. Vì
đạo đức cách mạng luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu của
Đảng nên một người cách mạng vừa phải có đức, vừa phải có tài.
Có đức mà khơng có tài không thể phục vụ tốt nhiệm vụ cách mạng.
Đặc biệt khi cách mạng phát triển, xã hội đi lên, muốn bớt đi sự mò


21

mẫm, sai lầm, càng phải có cả đức cả tài. Cán bộ đảng viên nếu
không được học tập, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, khơng
hiểu biết về khoa học kỹ thuật, khơng có một trình độ văn hóa phổ
thơng … thì khơng thể nói tới việc xây dựng thành cơng chủ nghĩa
xã hội. Ngược lại, người có tài lại phải có đức, có tài năng, trí tuệ,
sự hiểu biết về khoa học kỹ thuật nhưng phải có đức để phục vụ
đúng mục đích, cống hiến cho nhân dân, cho Đảng. Có như vậy chữ
tài mới đem lại hiệu quả đích thực.
Tài và Đức là hai mặt cấu thành nhân cách người đảng viên
nói chung, người đảng viên là cán bộ nói riêng, chúng phải thống

nhất gắn bó với nhau. Nếu tách rời, bản thân mỗi thành tố sẽ tự làm
suy yếu nó. Nói về sự thống nhất giữa đức và tài trong cấu trúc nhân
cách người cán bộ, Hồ Chí Minh viết: “Có tài mà khơng có đức thì
khơng những khơng được gì lợi ích cho xã hội mà cịn có hại cho xã
hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm hại
gì, nhưng cũng khơng lợi cho lồi người” [52, tr.172].
Trong tư tưởng của Người, đạo đức cách mạng là thước đo
bản chất người, trình độ người của mỗi cá nhân. Bởi vậy cũng như
trời, đất " thiếu một mùa thì khơng thành trời, thiếu một phương thì
khơng thành đất, thiếu đức thì khơng thành người".
Tóm lại, đạo đức cách mạng là đạo đức đáp ứng yêu cầu
thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
là sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo
đức tạo nên nền tảng nhân cách của người cán bộ, đảng viên; là


22

động lực thúc đẩy người cán bộ - đảng viên trong quá trình hoạt
động cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm thực hiện mục
tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; là dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh.
Với tính cách là một bộ phận của nền tảng tinh thần xã hội,
đạo đức ln có vị trí và vai trị quan trọng đối với sự phát triển của
xã hội trong mọi thời kỳ lịch sử. Đồng thời nó cũng là tính thứ hai
so với tồn tại xã hội, là tồn tại xã hội được ý thức. Điều đó cũng có
nghĩa, khi tồn tại xã hội thay đổi, khi cách mạng chuyển sang giai
đoạn mới, khi nền kinh tế xã hội nước ta có nhiều bước vận động
sâu sắc thì đạo đức cũng có những biến đổi nhất định. Giai đoạn

cách mạng hiện nay đã ảnh hưởng ra sao đến đạo đức cách mạng
của người cán bộ - đảng viên? Và nó đặt ra yêu cầu gì về đạo đức cách
mạng của đội ngũ này? cần phải làm gì để đạo đức cách mạng của cán
bộ - đảng viên tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội?
1.1.2. Những yêu cầu đạo đức cách mạng đối với cán bộ đảng viên trong giai đoạn hiện nay
Danh từ cán bộ có gốc Hán - Việt xuất hiện trong đời sống
xã hội nước ta, đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong lịch sử cách mạng Việt
Nam đặc biệt từ khi có Đảng lãnh đạo. Cán bộ là "người làm cơng tác
có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người
thường, khơng có chức vụ" [81, tr.105].


23

Chế độ xã hội nào cũng chú ý, quan tâm đến cán bộ, vì nó
liên quan đến vận mệnh và sự hưng thịnh của mỗi chế độ, mỗi quốc
gia. Ở nước ta, trong các thời kỳ cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề
nổi lên hàng đầu và giữ vai trị hết sức trọng yếu. Nó chẳng những
có ý nghĩa quyết định đối với công tác xây dựng Đảng và việc tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ; cán bộ " vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ
trung thành của nhân dân".
Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải có đường lối chính trị
đúng đắn. Nhưng để xây dựng được đường lối đúng đắn và làm
cho đường lối trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì
nhất thiết phải có đội ngũ cán bộ vững vàng, đủ sức giúp Đảng
hoạch định đường lối đúng và tổ chức thực hiện đường lối. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: "Cán bộ là cái gốc của cơng việc" [49, tr.265] và
" muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém"

[49, tr.240], cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền
khơng tốt hoặc khơng chạy thì động cơ dù tốt mấy, bộ máy cũng bị tê
liệt.
Cán bộ là người định ra đường lối, chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước; đồng thời là người đưa chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước đến với nhân dân; vận động, tổ chức nhân
dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra, đưa đất nước ngày càng
phát triển và tiến bộ. Lênin đã chỉ rõ, trong lịch sử chưa hề có một


24

giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó khơng đào tạo ra
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.
Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng cần có một đội
ngũ cán bộ thích ứng, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực
đáp ứng được sự địi hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Chính vì thế,
trong sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, đạo đức cần phải được
nhấn mạnh trong mỗi con người, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ của
Đảng, Nhà nước và các tổ chức đồn thể quần chúng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới
là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cán bộ phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang.
Cán bộ - đảng viên là những người đảng viên được giao
những chức vụ, quyền hạn nhất định trong các tổ chức Đảng, Nhà
nước, xã hội. Họ tham gia định hướng và điều khiển hoạt động của

tổ chức ấy. Đây là những con người rất quan trọng, có vai trị quyết
định đến toàn bộ hoạt động của một tổ chức, một địa phương, một
đơn vị. Vì vậy những yêu cầu về tính tiền phong gương mẫu, sự tận
tụy hy sinh trong cơng việc, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê
bình đối với đội ngũ này địi hỏi càng cao hơn không chỉ đối với


25

quần chúng nhân dân mà cao hơn cả những cán bộ, đảng viên bình
thường.
Trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng nhất định đều
đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể cho người cán bộ - đảng
viên. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, sau 20 năm đổi mới đất
nước cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường chúng ta đã đạt
được những thành quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đồng thời cũng có một sự xáo trộn rất lớn trong đời sống tinh
thần của xã hội, trong đó có đời sống đạo đức. Dường như có những
hiện tượng đạo đức truyền thống bị xuống cấp, đạo đức cách mạng
thậm chí lãng qn.
Trong khi đó nền kinh tế thị trường với xu hướng mở cửa và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho những luồng
văn hóa, lối sống tư sản tác động mạnh mẽ vào đội ngũ cán bộ đảng viên: những người được nhân dân giao quyền lực dễ lạm dụng
quyền lực, sa vào chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, cơ hội
chủ nghĩa. Cho nên mỗi cán bộ - đảng viên phải tự đấu tranh với
chính mình để tránh và chống lại những tác động tiêu cực đó.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức
tạp; cơng cuộc đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ - đảng viên là rất cấp bách:
Một là, người cán bộ - đảng viên phải luôn gương mẫu, nêu

tấm gương sáng về đạo đức: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường


×