Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

LUẬN văn tư tưởng chính trị cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.98 KB, 150 trang )

1

LUẬN VĂN-Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Mục lục

Tran
g
Mở đầu

1

Chương 1: Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo

7

1.1. Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối

8

quan hệ giữa nhà nước với dân
1.2. Đường lối trị nước

15

Chương 2: ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho 30
giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay
2.1. Đối với chính trị


31

2.2. Đối với kinh tế

47

2.3. Đối với đạo đức

56

2.4. Đối với gia đình và giáo dục

62


2

Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác 75
những giá trị tích cực và loại bỏ những
ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng chính trị
Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay
3.1. Giải pháp về nhận thức

75

3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện

80


Kết luận

98

Danh mục tài liệu tham khảo

100

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo khởi nguồn từ Trung Quốc, được du nhập vào
Việt Nam từ thời Bắc thuộc, được "Việt Nam hóa" trong suốt một
chặng đường lịch sử, góp phần đáng kể vào việc tạo dựng nền văn
hiến Việt Nam. Bao đời từng là hệ tư tưởng thống trị trong kiến
trúc thượng tầng Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến
con người và xã hội, chính trị và văn hóa, cuộc sống và lẽ sống,
hệ tư tưởng và phong tục tập quán Việt Nam. Nho giáo trở thành
một bộ phận của truyền thống dân tộc. Dù muốn hay không, Nho
giáo vẫn đang chi phối xã hội Việt Nam ngày nay. Con người Việt


3

Nam dù tự giác hay khơng tự giác, vẫn cịn dấu ấn của Nho giáo.
Truyền thống văn hóa quá khứ của dân tộc bao gồm sách vở, đền
đài, miếu mạo, phong tục tập qn mang sắc thái Nho giáo vẫn
cịn

đó.


Một

Văn

Miếu

Quốc

Tử

Giám

với

82 tấm bia tiến sĩ sừng sững uy nghiêm không chỉ được xem là
một trong những biểu tượng của văn hóa Thăng Long - Hà Nội,
mà còn được xem là kỷ vật thiêng liêng, ngưng tụ lại một nền văn
hóa truyền thống được nhiều thế hệ Việt Nam trân trọng tự hào.
Nhưng truyền thống là do quá khứ để lại, có nhiều điều không
phù hợp với xã hội hiện đại. Mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của
Nho giáo đã bị thủ tiêu, nhưng những tàn dư dai dẳng của nó đã
và đang trở thành lực cản của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Nền
kinh tế thị trường đã đẩy nhanh sự tăng trưởng về kinh tế, đem lại
bộ mặt mới cho xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường
cũng đang tạo ra nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, trong gia
đình và phẩm chất cá nhân. Trong cán bộ, nhân dân đã có những
biểu hiện tiêu cực, thể hiện ở trong cả nhận thức và hành động: tư

tưởng thực dụng, chạy theo đồng tiền làm cho một bộ phận xa rời
lý tưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức; nạn tham nhũng, bn
lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn xã hội khác đang có chiều
hướng gia tăng. Những chủ trương biện pháp khắc phục tình trạng


4

nói trên khơng thể khơng đụng chạm tới nhiều vấn đề liên quan
đến Nho giáo, nhất là khi Nho giáo đã từng tồn tại hàng ngàn năm
ở nước ta, để lại những căn bệnh trầm trọng như bệnh bảo thủ,
quan liêu, giáo điều, chủ nghĩa bình quân. Đến nay những căn
bệnh đó vẫn cịn tồn tại với nhiều biểu hiện khác nhau.
Đường lối đổi mới ở Việt Nam và triển vọng lớn lao của nó
khơng thể tách rời việc khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của
Nho giáo và sau đó khai thác những nhân tố tích cực để biến
thành truyền thống Việt Nam trên nhiều lĩnh vực của đời sống.
Nho giáo là vấn đề quá khứ nhưng cũng là vấn đề hiện tại. Nghiên
cứu tư tưởng chính trị Nho giáo để nhìn nhận, đánh giá rõ hơn
những yếu tố khơng cịn phù hợp, những phản giá trị cần gạt bỏ,
đồng thời kế thừa những tinh hoa của nó trong sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn của chính trị học có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Chính vì vậy, tơi đã
chọn đề tài "Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay"
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Nho giáo là đề tài được nhiều nhà khoa học trong nước và
ngoài nước nghiên cứu, cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra,
đòi hỏi phải có sự đi sâu tìm hiểu và khám phá.



5

ở Việt Nam, trong mấy thập kỷ nay, không kể các bài in
trên tạp chí, chỉ nói riêng các tác phẩm nghiên cứu về Nho giáo,
thì đã có một số lượng đáng kể:
+ Tác phẩm "Nho giáo" (2 tập) của Trần Trọng Kim được
xuất bản trước năm 1930 và từ đó đến nay đã được tái bản nhiều
lần, gần đây nhất là năm 1992. Đây là bộ sách lớn giới thiệu về
lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc từ Khổng Tử cho đến đời Thanh,
trong đó có một số trang phụ lục, tóm tắt về sự du nhập và phát
triển đạo Nho ở Việt Nam; là tác phẩm tiếng Việt đầu tiên trình
bày về sự phát triển của đạo Nho một cách có hệ thống.
+ Tác phẩm "Khổng học đăng" của Phan Bội Châu, được
soạn thảo vào những năm đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XX, xuất bản
năm 1957 và được tái bản năm 1998, bàn luận và diễn giải về một
số tác phẩm tiêu biểu của nhà Nho cũng như sự nghiệp của họ
thuộc các thời ở Trung Quốc.
+ "Nho giáo xưa và nay" do giáo sư Vũ Khiêu chủ biên,
xuất bản năm 1990 gồm một số bài viết của một số tác giả đề cập
tới nhiều vấn đề của Nho giáo từ phương hướng, phương pháp
tiếp cận, đến quan hệ của Nho giáo với kinh tế, lịch sử, văn hóa.
+ "Nho giáo xưa và nay" của nhà nghiên cứu Quang Đạm,
xuất bản năm 1994, phân tích sâu sắc những nội dung cơ bản của
Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.


6


+ "Đến hiện đại từ truyền thống" của cố giáo sư Trần Đình
Hượu, xuất bản năm 1994, gồm những bài viết về Tam giáo, đặc
biệt là ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa Việt
Nam.
+ "Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề về lý
luận và thực tiễn" của PGS.TS Nguyễn Tài Thư, xuất bản năm
1997, dưới góc độ triết học đã trình bày nội dung của Nho học và
vai trị của nó trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
+ "Nho giáo và phát triển ở Việt Nam" của giáo sư Vũ
Khiêu, xuất bản năm 1997, đã nhìn nhận, đánh giá vai trị của
Nho giáo trong lịch sử Việt Nam và một số vấn đề của Nho giáo
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
ở nước ngoài, trong tác phẩm "Nho gia với Trung Quốc
ngày nay", Vi Chính Thơng đã vạch rõ những mặt tích cực và hạn
chế của Nho giáo trong xã hội Trung Quốc hiện đại...
Trên đây là một số cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về Nho
giáo trên các phương diện: giới thiệu tác giả, tác phẩm; đánh giá
vai trò của một số nhà Nho tiêu biểu, phân tích những nguyên lý
cơ bản của Nho giáo; ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, hầu hết các cơng trình đều nghiên cứu Nho giáo dưới
góc độ triết học, lịch sử, hoặc các vấn đề riêng lẻ. Chưa có một
cơng trình nào đề cập một cách có hệ thống tư tưởng chính trị cơ


7

bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam hiện nay.
- Kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã đạt, dưới góc độ
của chính trị học, luận văn này đi sâu nghiên cứu tư tưởng chính

trị cơ bản của Nho giáo, đồng thời làm rõ ảnh hưởng của Nho
giáo đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
Mục đích
Luận văn làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, từ
đó góp thêm tiếng nói vào việc tìm giải pháp khai thác những giá
trị tinh hoa và loại bỏ những hạn chế của nó trong đời sống xã hội
nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ
- Làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo. Chỉ rõ
những giá trị tích cực của Nho giáo cần được kế thừa, phê phán
những hạn chế, những tàn dư của Nho giáo còn rơi rớt lại trong đời
sống xã hội Việt Nam.
- Bước đầu kiến nghị những giải pháp nhằm khai thác
những giá trị tinh hoa trong tư tưởng chính trị của Nho giáo đồng
thời loại bỏ những tàn dư của nó trong đời sống xã hội Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu


8

Luận văn khơng có tham vọng giải quyết tất cả các vấn đề
của Nho giáo mà chỉ tập trung làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản
của Nho giáo, những ảnh hưởng của nó trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về phê phán và vận dụng những giá trị

truyền thống của dân tộc và nhân loại.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương
pháp lơgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp, phương pháp quan
sát xã hội, sử dụng kiến thức liên ngành chính trị - văn hóa - lịch
sử...
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Trình bày một cách có hệ thống tư tưởng chính trị cơ bản
của Nho giáo theo quan điểm lịch sử - cụ thể.
- Làm rõ ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống xã hội
Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội.


9

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu cho việc khai thác
những giá trị tích cực và loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng chính trị Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Góp phần giải đáp một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
đang đặt ra hiện nay, đó là kế thừa và loại bỏ những gì trong tư
tưởng chính trị của Nho giáo.
- Luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy mơn Lịch sử tư tưởng chính trị - phần
Lịch sử tư tưởng phương Đơng.
7. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương 8 tiết.



10

Chương 1
Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo

Từ thế kỷ XI đến thế kỷ VII Tr. CN, các yếu tố đầu tiên của
hệ tư tưởng Trung Quốc đã xuất hiện. Một số yếu tố đó được đúc
kết và nâng cao thành đạo Nho, một số trở thành đạo của Mặc gia,
Pháp gia... Trong đó đạo Nho xuất hiện sớm nhất (thế kỷ VI Tr.
CN). Khổng Tử (551 - 479 Tr. CN) là người đầu tiên sáng lập đạo
này. Những người kế tục nổi tiếng là Mạnh Tử (372 - 289 Tr. CN)
và Tuân Tử (298 - 238 Tr. CN).
Hơn 2000 năm của chế độ phong kiến Trung Quốc, các
triều đại kế tiếp nhau đều xem Nho giáo là cơ sở tư tưởng của đạo
trị nước. Vì vậy, khi xã hội lâm vào khủng hoảng, người ta quy cho
là tại triều đại khơng sáng suốt, khơng có vua hiền tướng giỏi,
không thực hiện các nguyên lý của đạo Nho. Vấn đề đặt ra là thay
đổi triều đại chứ không phải thay đổi học thuyết thống trị. Điều
đó làm cho Khổng Tử được xem là ông thầy của muôn đời (vạn
thế sư biểu) và Nho giáo được xem là học thuyết thống trị không
thể thay thế.
Là học thuyết của xã hội phong kiến, do xã hội phong kiến
sản sinh ra, bản thân Nho giáo cũng nêu lên một số nguyên lý,
nguyên tắc, đường lối và phương pháp nhằm bảo đảm cho xã hội


11


một sự ổn định để vận hành và phát triển. Mục đích lý tưởng của
Nho giáo là xây dựng một nhà nước chun chế mạnh, duy trì kỷ
cương, tơng pháp, đẳng cấp; quyền lực tuyệt đối thuộc về vua.
Người cai trị dùng đạo đức, lễ tiết để làm gương cho dân chúng,
dùng pháp luật có mức độ, dân chúng thì tự giác làm trịn bổn
phận của mình.
Gạn lọc trong chiều sâu tư tưởng của Nho giáo, có thể thấy
vấn đề về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà
nước với dân được đề cập khá sâu sắc.
1.1. Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối
quan hệ giữa nhà nước với dân
1.1.1. Tư tưởng về nhà nước và quyền lực nhà nước
Thời Xuân thu - Chiến quốc là một giai đoạn đặc biệt trong
lịch sử Trung Quốc (thế kỷ VII - thế kỷ III Tr.CN). Đó là thời đại
quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ kiểu phương Đông sang chế độ
phong kiến. Ăngghen đã khẳng định: Các công xã cổ, ở nơi nào
chúng vẫn tiếp tục tồn tại, thì từ hàng nghìn năm nay đều cấu
thành cái cơ sở của hình thức nhà nước thô sơ nhất, tức là chế độ
chuyên chế phương Đông. Trong điều kiện phương Đông cổ đại,
bộ máy chính phủ như Mác chỉ ra gồm ba bộ chính:
- Bộ quốc phịng có chức năng cướp bóc các dân tộc khác.
- Bộ tài chính để bóc lột dân sở tại.


12

- Bộ công vụ đảm nhiệm việc xây dựng và phục vụ có liên
quan đến nơng nghiệp.
Tất cả điều này đã quyết định sự ra đời một hình thức nhà
nước đặc biệt - nhà nước chuyên chế phương Đông với sự tập

trung quản lý rộng lớn, trong đó mọi quyền lực đều tập trung
trong tay một nhà chuyên chế. Nho giáo ra đời trên cơ sở tổ chức
chính trị xã hội đặc biệt đó. Vì vậy tư tưởng về nhà nước, quyền
lực nhà nước của Nho giáo biểu hiện rõ nét ở chỗ đề cao vai trị
của ơng vua chun chế.
Theo Nho giáo, con người sống không thể tách rời nhau mà
có mn ngàn quan hệ gắn bó với nhau trong phạm vi những
cộng đồng nhất định. Các cộng đồng đó là nhà (gia), nước (quốc)
và thiên hạ. Đương nhiên ngồi phạm vi nhà và từ nhà đến nước
cịn có hương, quận, châu. Nho giáo cố ý đồng nhất ba thực thể
nhà, nước, thiên hạ theo nguyên lý bao quát. Thiên hạ gốc ở nước,
nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình. Rõ ràng Nho giáo coi
"nước" chỉ là sự mở rộng của nhà. Do nước và nhà chung nhau
một gốc, cho nên nhiều khi Nho giáo dùng phạm trù quốc và gia
đồng nhất với nhau. Nho giáo coi mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau
giữa nhà và nước là thiêng liêng và sáng tỏ mn đời. Nói lên mối
quan hệ ấy, Khổng Tử đã nhấn mạnh: muốn trị quốc trước hết
phải tề gia. Nước thành ra là vật sở hữu của một số người có đức
sáng, được mệnh trời, giỏi tề gia. Những hiền nhân quân tử đi từ


13

tề gia đến trị quốc có cương vị đứng đầu cả nhà và nước thì được
Khổng Tử xác nhận là kẻ có nước, có nhà hoặc là những kẻ có
quốc gia để cai trị. Từ bậc thang "tề gia" đi lên, thế lực mạnh
nhất, có uy tín và quyền lực lớn nhất trong giai cấp chiếm hữu tư
liệu sản xuất dần dần trở thành kẻ trị quốc. Con đường đi từ nhà
đến nước như vậy được Nho giáo cho là đúng đắn, hợp với đạo
trời đất, đạo của người. Nhà và nước gắn với nhau, lồng vào nhau.

Nước mà Nho giáo nói ở đây khơng chỉ là đất nước mà cịn được
hiểu là nhà nước. Nhà nước thời đó - thời có thiên tử và chư hầu
cịn có tên gọi tiêu biểu là triều đình và triều - thuộc quyền
chuyên chế của cá nhân vua cùng với gia tộc và tông tộc nhà vua.
Nho giáo quan niệm rằng đã là xã hội thì tất phải có quyền
tối cao để giữ kỷ cương xã hội. Quyền ấy gọi là quân quyền.
Người giữ quân quyền gọi là đế hay vương (vua). Vua phải lo
việc trị nước, tức là lo sự sinh hoạt, dạy dỗ và mở mang dân. Là
người chủ đất nước, nhà vua Nho giáo thống trị với một quyền uy
tối thượng. Nhà vua điều hành mọi công việc của Nhà nước, sử
dụng và bãi chức đối với toàn thể giới quý tộc và quan lại. Nho
giáo nhắc nhở rằng: Dưới gầm trời không chỗ nào chẳng phải đất
của nhà vua, trên mặt đất không người nào chẳng phải bề tôi của
vua. Với tư cách là người chủ đất đai, nhà vua chỉ đạo việc sử
dụng đất đai, quyết định mức thuế và sự đóng góp của nhân dân.
Nắm kho tàng của Nhà nước, quản lý toàn bộ ngân khố và thóc,


14

nhà vua là người ban ơn cho toàn thể nhân dân, được mọi người
phục tùng một cách tuyệt đối. Như vậy quyền uy của nhà vua là
tuyệt đối. Quyền uy ấy thể hiện trên mọi lĩnh vực. Nhà vua vừa là
người trực tiếp quản lý kinh tế, tổ chức hành chính, thực hiện
pháp luật, chỉ huy quân sự, giáo dục đạo đức và đứng đầu tôn
giáo.
Để quản lý lãnh thổ rộng lớn, nhà vua sắp xếp một bộ máy
quan liêu từ Trung ương đến địa phương. Lúc đầu bộ máy nhà
nước bao gồm những quý tộc thuộc dòng họ vua. Sau đó các quan
chức triều đình được tuyển lựa trong hàng ngũ Nho sĩ đã qua các

kỳ thi. Dùng bộ máy quan liêu, lựa chọn khoa cử và đội quân
thường trực, ơng vua chun chế đã tìm ra phương án tối ưu để
nắm giữ quyền lực. Nho giáo từ trước đến sau luôn luôn đề cao và
bảo vệ danh nghĩa, thế lực của ơng vua chun chế đó. Để cho
"chính" các "danh" của người nắm quân quyền, Nho giáo chủ
trương thuyết Thiên mệnh. Thuyết này coi trời là cha chung, ngôi
vua được trời lựa chọn, giao cho cai quản đất nước và thần dân.
Vua cũng là cha chung. Do mệnh trời mà có mệnh vua. Nhưng
Nho giáo cũng nhấn mạnh: mệnh trời không phải cho mãi một
người, ai làm điều lành thì được điều ác thì mất. "Duy mệnh bất
vu thường, đạo thiện tắc đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỹ" [4, tr.
27]. Vì vậy, người làm đế vương tuy quyền uy rất to, thế lực rất
mạnh, nhưng không được lạm dụng quyền ấy để làm điều tàn bạo.


15

Thuyết "Thiên mệnh" với phương châm an phận theo địa vị
của mình, khơng mong gì ở bên ngồi đã đè nặng lên đời sống
tinh thần, của dân tộc Trung Hoa và các dân tộc tôn sùng Nho
giáo suốt nhiều thế kỷ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
làm cho tơn ti, trật tự phong kiến duy trì q lâu, triệt bỏ sức vươn
lên của con người.
Tuy nhiên, có thể thấy tư tưởng tôn quân, thuyết Thiên
mệnh đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của lịch sử Trung Hoa
thời bấy giờ, đó là thống nhất dân tộc, xây dựng chính quyền
Trung ương tập quyền.
1.1.2. Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà
nước
Tư tưởng về dân

Tư tưởng về dân của Nho gia được hình thành rất sớm, trải
qua quá trình đấu tranh gay gắt với Mặc gia và Pháp gia, được ổn
định và được chế độ chuyên chế thừa nhận làm đạo lý, làm tinh
thần lập pháp.
Khái niệm "dân" theo Khổng Tử bao gồm: sĩ, nông, công,
thương. Sự phân chia này không dựa trên tiêu chuẩn sở hữu mà
theo ngành nghề. Đây cũng là bậc thang giá trị xã hội. Nó phản
ánh một nền kinh tế tiểu nơng khép kín, tự cấp tự túc, cơng
thương nghiệp chưa phát triển.


16

Khái niệm "dân" của Mạnh Tử lại gồm: kẻ sĩ, người cày
ruộng, người buôn bán và người đi đường. Kẻ sĩ là trí thức, muốn
theo đuổi địa vị để kiếm bổng lộc, người bn bán và người đi
đường thì phần đơng là thương nhân kiêm địa chủ. Cịn hạng mà
Mạnh Tử gọi là "người cày ruộng" thực ra khơng cịn là nhà nông
mà chủ yếu là bọn địa chủ mới có nơng sản đem bán. Cho nên
khái niệm dân của ông chủ yếu là hạng trí thức, địa chủ và thương
nhân.
Như vậy theo quan niệm của Nho giáo, dân thông thường
là những người khơng có địa vị gì, cơng vụ gì trong bộ máy thống
trị, cũng có khi bao gồm cả mọi người trong một nước, trong
thiên hạ nói chung. Trong kinh điển Nho gia, ta còn gặp những
danh từ như: "Thứ dân", "lê dân", "thảo dân", "xích tử", "thương
sinh" cũng là để chỉ đông đảo người dân lao động.
Mối quan hệ giữa dân với nhà nước
Trong mối quan hệ với nhà nước, quyền lực nhà nước mà
người đứng đầu là vua, dân có vai trị rất lớn. Nho giáo đã sớm

nhận thức được vai trò của dân tới sự tồn vong của triều đình.
Trong ba yếu tố để triều đình bền vững thì dân là yếu tố quyết
định. Ba yếu tố đó là: đất đai, nhân dân và chính sự. Về chính sự,
Nho giáo lại nhấn mạnh ba điểm: túc thực, túc binh, dân tín
(nghĩa là lương thực phải đủ để nuôi dân, binh lực phải mạnh để


17

bảo vệ dân, lịng tin của dân, trong đó lịng tin của dân là điều
quyết định nhất).
Không phải ngẫu nhiên và tùy tiện mà Nho giáo đi tới chỗ
coi dân là trời: "Vua lấy dân làm trời". Lịch sử cho thấy mặc dù
vua là "thiên tử", là "đấng chí tơn" vâng mệnh trời để bình thiên
hạ, là cha của mn nhà, mẹ của muôn dân, là kẻ chăn người
(nhân mục), nhưng vua cũng chỉ là một con người. Dân rất hiền
lành, những thảo dân, lê dân, xích tử hiền như nước nhưng lại có
sức mạnh to lớn. Vua chúa muốn sống được phải nhờ đến dân.
Dân "lao lực" làm ra lương thực, vua chúa "lao tâm" để trị người
thì phải ăn của người, cụ thể là ăn ở dân, do dân nuôi. Nếu áp bức
dân tàn bạo để dân phải vùng lên thì vua - người nắm giữ trong
tay quyền lực nhà nước chỉ đi tới chỗ diệt vong.
Mạnh Tử đã nêu lên một quan điểm nổi tiếng về mối quan
hệ giữa vua, xã tắc và dân: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh". Đây là tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là đối với một xã hội
mấy ngàn năm sống dưới sự ngự trị của các triều vua. Đem dân ra
cân nhắc với vua, nêu rõ vai trò của dân trong thời loạn lạc, khẳng
định dân là quý, Mạnh Tử đã thể hiện rõ tư tưởng lấy dân làm gốc
của mình. Mạnh Tử và các nhà Nho đều mong muốn có một cuộc
sống hữu đạo, một cảnh nước thịnh trị và thiên hạ thái bình với

những quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Trong phạm vi cả
nước, cả thiên hạ, mối quan hệ được nêu lên trước hết là mối quan


18

hệ "quân thần". Quan hệ giữa vua với dân là phần mở rộng của
mối quan hệ ấy.
Mạnh Tử cho rằng, quan trọng nhất là được dân hay mất
dân, mà sở dĩ được dân là vì được lịng dân và mất dân là vì mất
lịng dân. Ơng so sánh và giải thích rằng: được lịng dân thì làm
đến ngơi thiên tử; được lòng thiên tử chẳng qua làm đến chư hầu;
được lòng với vua chư hầu chẳng qua làm đến quan đại phu; vua
Kiệt, vua Trụ mất thiên hạ vì mất dân, mất dân là vì mất lịng dân.
Chính vì vậy, Mạnh Tử rất chú trọng đến dân. Ông yêu cầu những
người cầm quyền phải biết lo đến hạnh phúc của dân, cùng dân
hưởng phú quý, cùng dân chịu sự lo lắng, như thế dân sẽ một lòng
một dạ đi theo: "Người vui cái vui của dân, thì dân cũng vui cái
vui của mình; người lo cái lo của dân thì dân cũng lo cái lo của
mình. Vì thiên hạ mà vui, vì thiên hạ mà lo, thế mà khơng làm
vương thì chưa có vậy" [26, tr. 248].
Ơng coi trọng việc cải thiện đời sống của dân là "điều gốc",
là trách nhiệm của người cầm quyền: "Đáng minh quân chế định
tài sản của dân, ắt là khiến cho ngửng lên đủ thờ cha mẹ, cúi
xuống đủ nuôi vợ con, năm được mùa thì no ln, năm mất mùa
khơng đến nỗi chết. Được như thế rồi mới bắt dân làm điều lành,
thì dân làm điều lành dễ lắm" [26, tr. 249]


19


Đề cập tới quan điểm này của Mạnh Tử, nhiều người cho
rằng, Mạnh Tử đã đi trước các nhà tư tưởng của cách mạng dân
chủ tư sản Anh, Pháp gần 2000 năm.
Không thể phủ nhận quan điểm về dân của Mạnh Tử có
nhiều tiến bộ, nhưng nếu đứng trên lập trường giai cấp mà xét thì
ơng khơng có tư tưởng dân chủ thực sự. Mặc dù Mạnh Tử đã thực
sự dũng cảm khi nói: "dân vi q", nhưng khơng có nghĩa là ơng
có tư tưởng đấu tranh cho nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ
sơn hà xã tắc, làm chủ vận mệnh của mình. Kể cả khi ơng chủ
trương một nền chính trị được lịng dân, quan tâm đến dân để làm
cho "dân có hằng sản", từ đó "có hằng tâm" thì cũng khơng ngồi
mục đích điều hịa mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp thống trị và
nhân dân.
Tuân Tử khi nói về sức mạnh của dân đối với nhà nước đã
chỉ rõ: vua là thuyền, thứ dân là nước. Nước chở thuyền, nước có
thể lật thuyền.
Khổng Tử khi nói về dân và chính sách trị dân đã nhấn
mạnh các điều: dưỡng dân, giáo dân và chính hình; trong đó
dưỡng dẫn là yếu tố quan trọng. Bất kỳ chính thể nào, nhà cầm
quyền nào cũng phải coi trọng việc dưỡng dân. Nếu khéo dưỡng
dân thì nước trị, nhà cầm quyền được dân quý, ngược lại thì nước
loạn, dân sẽ bỏ đi nơi khác hoặc nổi loạn, chính quyền sớm muộn
cũng bị lật đổ. Dưỡng dân để làm cho dân no đủ, giàu có; đánh


20

thuế nhẹ dân; khiến dân làm việc hợp thời; phân phối bình qn
để dân khơng bị bóc lột mà được no đủ.

Điều đó cho thấy Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò
to lớn của dân đối với nhà nước và quyền lực nhà nước, song họ
đã không vượt qua được hạn chế về mặt giai cấp và thời đại, do
đó đối với Nho giáo khơng có tư tưởng dân chủ thực sự, tất cả đều
nhằm nắm chặt lấy dân để dễ bề sai khiến, cai trị.
Mặc dù vậy, tư tưởng của Nho giáo về dân, về mối quan hệ
giữa dân với quyền lực nhà nước vẫn hàm chứa nhiều giá trị mà
người cầm quyền xưa và nay không thể khơng chú ý. Đó là:
- Phải biết tranh thủ dân và nắm lấy dân.
Dân là quý, dân như nước, vừa chở thuyền vừa lật thuyền,
cho nên muốn làm vua chúa, muốn cầm quyền thì phải tranh thủ
dân và nắm lấy dân. Tranh thủ được dân chúng thì làm thiên tử,
được dân là được cả thiên hạ. Người làm vua phải theo lịng dân,
phải thuận lịng dân, phải biết thích cái thích của dân, ghét cái
ghét của dân. Người cầm quyền theo lòng dân mà trị tất sẽ được
dân yêu mến.
- Giữ gìn sinh mệnh và dè xẻn tài sản của dân.
Người cầm quyền phải biết sử dụng sức người, sức của cho
phù hợp tránh sự lạm dụng, phí phạm sức dân và tài sản của dân.
Có như vậy lịng dân mới yên, xã tắc mới bền vững.


21

Tư tưởng của Nho giáo về vai trò của dân sau này được các
nhà tư tưởng Việt Nam kế thừa, cải biến và sáng tạo phù hợp với
dân tộc. Trên thực tế, các khái niệm có hình thức Khổng giáo
nhưng nội dung bên trong lại chứa đựng tư tưởng, tình cảm, tín
ngưỡng và tâm lý Việt Nam.
Thời Lý - Trần, sự quan tâm đến đời sống và nguyện vọng

của nhân dân được xem là việc hàng đầu của đạo trị nước, "ý
dân", "lòng dân" đã trở thành căn cứ, mục đích cho những chủ
trương chính trị lớn.
"Chiếu dời đơ" nổi tiếng của Lý Công Uẩn đã khẳng định:
Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi.
Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Trần Quốc Tuấn với tư tưởng "khoan thư sức dân để làm kế
sâu bền gốc rễ", coi đó là "thượng sách để giữ nước" đã nhìn rõ
nhân dân là nơi chứa chất tiềm lực về kinh tế và quốc phòng, bảo
đảm cho sự vững chắc của nền độc lập và chủ quyền đất nước.
Nguyễn Trãi xem dân là gốc của nước, dân có quan hệ tới
sự yên nguy của triều đại. Dân là số đông, là cơ sở của xã hội, là
lực lượng có vai trị quyết định đến sự ủng hộ hoặc phế truất nền
thống trị của một triều đại, một ơng vua. Vì vậy, theo ơng, "việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân".


22

Thấy được vai trị của dân khơng phải là ngẫu nhiên đối
với các nhà tư tưởng Việt Nam. Mặc dù lập trường phong kiến đã
hạn chế nhãn quan của họ, nhưng là những nhà yêu nước lớn,
đứng ở đỉnh cao của phong trào yêu nước lúc bấy giờ, họ đã thấy
được yêu cầu phải cố kết cộng đồng, phát huy sức mạnh của dân
tộc nên đã vượt qua được những hạn chế giai cấp vốn có của
mình.
Đến Hồ Chí Minh, quan niệm về dân đã phát triển đến một
tầm cao mới. Dân là số đông, là làm cho số đông đó ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Lấy dân làm gốc ở Hồ
Chí Minh khơng phải chỉ xem dân là lực lượng dời non lấp biển

mà cịn là mục đích, xem mọi hoạt động chính trị đều vì dân, xây
dựng nền chính trị của dân, do dân, vì dân. Điều quan trọng ở đây
là Người đã đưa truyền thống yêu nước thương dân và hệ thống
hoạt động của dân, do dân, vì dân thành một nội dung cơ bản để
xây dựng Đảng cộng sản và chế độ chính trị xã hội ở Việt Nam.
1.2. Đường lối trị nước
Nho giáo vạch rõ thực chất của việc cai trị: Cai trị con
người, xã hội không phải chủ yếu dựa vào vũ lực, thần quyền, của
cải mà cai trị bằng giáo dục, giáo dưỡng, bằng thu phục nhân tâm.
Nho giáo vừa là một hệ tư tưởng, vừa là các phép tắc có tính chất
quy chế làm chuẩn mực để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.
Các khái niệm tưởng chừng thuần túy đạo đức lại mang tính chính


23

trị cao. "Nhân", "Lễ", "Chính danh", khơng chỉ là khái niệm, là
nguyên lý đạo đức cơ bản mà còn là hạt nhân trong học thuyết
chính trị của Nho giáo, là đường lối trị nước của Nho giáo.
1.2.1. Nhân trị và Lễ trị
Nhân trị
Chữ nhân gồm chữ nhân và chữ nhị hợp lại. Theo Trần
Trọng Kim, nhân có nghĩa là mọi người với nhau như một. Theo
Nguyễn Hiến Lê, nhân là tình người này đối với người khác.
Chữ nhân trong học thuyết của Khổng Tử có ý nghĩa rất
rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu
tượng, có lúc cụ thể, tùy theo trình độ, hồn cảnh mà ơng diễn đạt
nội dung của nó một cách khác nhau.
Khổng Tử cho rằng do sự chi phối của "thiên lý", của
"đạo", các sự vật hiện tượng trong vũ trụ ln biến hóa khơng

ngừng. Sự sinh thành, biến hóa của vạn vật bao giờ cũng nhờ sự
"trung hòa" giữa âm dương, trời đất. Con người là kết quả bẩm
thụ tinh khí của âm dương trời đất mà thành, tuân theo "thiên lý",
hợp với đạo "trung hòa". Đạo sống của con người là phải "trung
dung", "trung thứ", nghĩa sống đúng với mình và đúng với người đó là nhân.
Ơng cịn quan niệm: "Người nhân không xa rời nhân dù chỉ
trước sau một bữa ăn, vì nhân đâu phải xa, bởi bản tính con người là


24

thiện, nhưng vì con người quen thói đời, mê vật dục nên thấy nhân
xa mình đó thơi" [3, tr. 115].
Khổng Tử nói nhiều về "nhân", nhưng tóm lại, có thể thấy
nhân là Người, là lòng người, là thương người. Đạo nhân là cái
trời phú cho con người, ở cái tâm của con người, đó là lịng
thương người. Điều đó được thể hiện ra ở hai điều cốt yếu:
"Người nhân là mình muốn lập thân thì cũng mong muốn giúp
người lập thân, mình muốn thơng đạt thì cũng muốn giúp người
thơng đạt" và "điều gì mình khơng muốn thì chớ đem đối xử với
người", "phải suy xét mình để suy xét người".
"Nhân" là đức tính hồn thiện, là cái gốc đạo đức của con
người nên nhân chính là đạo làm người. Đức nhân bao gồm tinh
túy của tất cả các đức khác. Trong bất kỳ mối quan hệ nào, nếu
hỏng về đức riêng thuộc mối quan hệ ấy thì đồng thời cũng là trái
với đức nhân, chẳng hạn như: không trung thực với người khác,
không nghiêm khắc với kẻ sai trái lầm lỗi, khơng cung kính với
bề trên... đều trái với đức nhân.
Người muốn đạt nhân, theo Khổng Tử phải là người có "trí",
"dũng". Nhờ có lý trí, con người mới sáng suốt minh mẫn để hiểu

được đạo lý, xét đoán sự việc, phân biệt phải trái, thiện, ác để trau
dồi đạo đức và hành động hợp với "thiên lý". Nếu khơng cịn trí
sáng suốt nữa thì chẳng những khơng giúp được người mà cịn hại
đến thân mình. Trí khơng phải ngẫu nhiên mà có, nó chỉ có được


25

trong quá trình người ta học tập tu dưỡng. Mục đích cao nhất của
việc học khơng chỉ để biết "đạo", "khắc kỷ phục lễ vi nhân" mà để
ra làm quan, tham gia việc chính trị quốc gia.
Muốn đạt "nhân", cịn phải có "dũng". Người có "dũng"
khơng phải là kẻ ỷ vào sức mạnh, hành động bất chấp đạo lý mà
là người quả cảm, xả thân vì nghĩa; khi thiếu thốn khơng nao
núng làm mất nhân cách của mình; khi đầy đủ sung túc khơng ngả
nghiêng xa rời đạo lý.
Nhân cịn bao hàm cả "nghĩa". Theo "nghĩa" là việc gì đáng
làm thì làm, khơng hề tính lợi cho mình.
Một điều cần chú ý là Khổng Tử quan niệm: chỉ có người
quân tử mới có "nhân". Trong kinh điển Nho giáo, những gì tốt
đẹp, tiêu biểu của con người đều quy vào người qn tử. Cịn đám
đơng tiểu nhân là những người khơng có trí tuệ, khơng có đạo
đức, vất vả chân lấm tay bùn để cung đốn cho người quân tư thì
khơng có "nhân".
Phải chăng đây là hai dạng tha hóa con người tồn tại lâu
nhất trong lịch sử loài người từ những thời thịnh vượng của hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ cho đến ngày suy tàn của
hình thái kinh tế - xã hội phong kiến ở khu vực á Đông rộng lớn,
dưới sự thống trị tinh thần của Ngũ kinh, Tứ thư? Tất nhiên, các
Nho gia đều khơng có ý niệm gì về những hiện tượng tha hóa,

nhưng nếu xét về nội dung, hình thức của phạm trù "quân tử" và


×