Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tham nhũng và phòng chống tham nhũng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 28 trang )

I) Phần mở đầu
1) Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Ngay từ khi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
Bác hồ đã viết bài “Đạo đức cách mạng” và đăng trên tạp chí Học tập,
số tháng 12.1958. Trong bài đăng ấy, Bác đã chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân,
cụ thể là tư lợi, tham ơ, lãng phí là một trong 3 kẻ địch nguy hiểm của
cách mạng. Ngay cả trước khi rời khỏi thế gian, Bác lại một lần cuối
cùng để lại lời nói tâm huyết của mình: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi một cán bộ, đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư” - trích Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác đã tỏ rõ thái độ thù địch của mình đối với
vấn nạn này ngay cả khi đến thời khắc cuối cùng của đời mình. Điều
này cũng thể hiện rất rõ sự nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân đối với đất
nước chúng ta.
Đối với Việt Nam, trong những năm gần đây, tệ nạn tham nhũng đã nổi
lên một cách tràn lan, xâm phạm kỷ cương phép nước, làm mất lành
mạnh của cơ quan, tổ chức, gây thiệt hại cho lợi ích tài sản nhà nước,
tập thể và cá nhân, làm tăng thêm sự phân hóa giàu nghèo bất chính,
nẩy sinh mâu thuẫn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến khối đại đoàn kết
dân tộc, xói mịn truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, đảo lộn các
giá trị xã hội và ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ tương lai, làm tổn thất
đến đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức thậm chí làm hư hỏng một số
cán bộ đã được đào tạo, rèn luyện qua nhiều thời kỳ...từ đó làm giảm
sút lịng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý,
điều hành của Nhà nước và ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Không những thế, hành vi
tham nhũng còn hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực đời sống của
chúng ta, từ các cơ quan nhà nước cho đến các trường đại học. Đặc
biệt hơn hết, trong thời đại hiện nay, hành vi tham nhũng lại vô cùng tinh
vi và phức tạp dẫn đến việc bắt giữ các đối tượng cũng như phá án gặp
rất nhiều khó khăn.




Trên thực tế, Đảng ta đã thể hiện rất tốt vai trị của mình trong cơng
cuộc phịng chống tham nhũng trong những năm qua. Tuy nhiên, những
hành vi tham nhũng lại ngày một tinh vi và phức tạp hơn.
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu về các hành vi tham nhũng trong
thời đại hiện nay là vô cùng quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng
lớn. Xuất phát từ những phân tích trên, nhóm 3 đã lựa chọn đề tài “Tìm
hiểu về các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật Việt Nam.“
cho bài tiểu luận kết thúc học phần.
2) Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận có mục đích đưa ra thơng tin chi tiết về hững hành vi tham
nhũng trong thời đại công nghệ 4.0 và dựa trên đó để đưa ra những đề
xuất giải pháp khoa học nhằm gairm bớt tình trạng cũng như nâng cao
hiệu quả trong cơng cuộc phịng phịng chống tham nhũng.
3) Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là những hành vi tham nhũng chủ
yếu trong thời đại hiện đại hóa - cơng nghiệp hóa.
4) Bố cục nghiên cứu
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
thì có 5 chương, lần lượt là:
- Chương I: Cơ sở lý luận
- Chương II: Những hành vi tham nhũng hiện hành và xử lý những
hành vi tham nhũng.
- Chương III: Phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Chương IV: Một số vụ án lớn về hành vi tham nhũng
- Chương V: Phòng, chống tham nhũng và đề xuất những giải pháp.


II) Phần nội dung

Chương I: Khái niệm về tham nhũng và nguồn gốc.
1) Khái niệm của tham nhũng
Tham nhũng được nhiều học giả và các tổ chức quan tâm nghiên cứu,
nên có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm của nó. Trong tiếng
Anh, từ tham nhũng là “ Corruption”, có thể dịch sang tiếng việt là “hư
hỏng, thối nát, phá hoại” [1]. Trong tiếng Việt, theo khoản 1 điều 3 Luật
phòng, chống tham nhũng, tham nhũng là hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Cịn có một
khái niệm nữa của tham nhũng được định nghĩa trong từ điển Luật học
(Black’s Law), đó là “sự phá vỡ những ngun tắc cơng chính, đức hạnh
và ln lý”.
Tuy cịn rất nhiều những quan niệm khác về tham nhũng, nhưng nhìn
chung thì tất cả đều có chung quan điểm đó là: Tham nhũng là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để
tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi.
Theo khoản 7 điều 3 Luật Phịng, chống tham nhũng 2018 thì có thể
hiểu vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn nhằm đạt được lại ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất.
2) Khái niệm về người có chức vụ, quyền hạn
Theo khoản 2 điều 3 Luật Phịng chống tham nhũng 2018, Người có
chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc khơng
hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm:
a) Cán bộ, cơng chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc
phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân
công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;

d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ và có


quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Ngồi ra cịn có một văn bản pháp luật khác quy định về người có chức
vụ, đó là điều 352 Bộ luật hình sự năm 2015. Theo điều 352 Bộ luật hình
sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), người có chức vụ là người do bổ
nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện cơng vụ, nhiệm
vụ.
Chính phủ cũng đã quy định rằng "người có chức vụ" quy định tại khoản
2 Điều 352 Bộ luật Hình sự là những người quy định tại khoản 2 Điều 3
Luật Phòng, chống tham nhũng trong khoản 4 Điều 2 Nghị quyết
03/2020/NQ-HĐTP
3) Nguyên nhân của tham nhũng
Ngày nay, bất cứ ai trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng tham nhũng
là vấn đề mang tính tồn cầu. Tuy nhiên, mỗi quốc gia vẫn có những
ngun nhân, điều kiện khác nhau dẫn đến việc phát sinh tham nhũng.
Nhưng, dựa trên cơ sở xem xét nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham
nhũng của các nước trên thế giới, mặc dù có điểm riêng nhưng cũng có
một số nguyên nhân, điều kiện mang tính chất chung, tương đồng, đó
là:
Sự phát triển của các hình thái Nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế, chính trị tạo ra tiền đề
khách quan cho tham nhũng nảy sinh, phát triển, cụ thể hơn đó là việc
tự do hóa cạnh tranh. Có khơng ít tổ chức, cá nhân vì sinh tồn trong môi
trường cạnh tranh quyết liệt đã dùng mọi thủ đoạn trong đó phổ biến
nhất chính là hối lộ.

Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ hoặc thực thi pháp luật
yếu kém cũng là một nguyên nhân và điều kiện của tham nhũng. Cơ
chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán
có nhiều “kẽ hở” tạo cho những người có chức vụ, quyền hạn, điều kiện
để “lách luật” trục lợi, làm giàu bất chính. Bên cạnh đó, phẩm chất chính
trị đạo đức của đội ngũ có chức, có quyền bị suy thối đặc biệt là suy
thối tư tưởng chính trị. Họ sẵn sàng bỏ qua lợi ích chung, lợi ích tập
thể để trục lợi, làm giàu bất chính cho bản thân, gia đình, họ hàng mình;
nhất là trong điều kiện khủng hoảng chính trị, xã hội, kinh tế ảnh hưởng


tiêu cực tới đạo đức của đội ngũ cơng chức.
Trình độ dân trí thấp nên nhân dân chưa có tích cực tham gia quản lý
Nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền tạo điều kiện cho những tên suy đồi về mặt đạo đức trong bộ máy
Nhà nước tiến hành các hành vi tham nhũng, hạch sách, nhận hối lộ.
Bộ máy hành chính Nhà nước cồng kềnh, với nhiều thủ tục hành chính
phức tạp, không cần thiết và bất hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho một
số cán bộ, công chức Nhà nước nhận hối lộ của người dân, doanh
nghiệp; cơ chế “xin - cho” trở thành “mảnh đất màu mỡ” của những
hành vi tham nhũng.
Chế độ, chính sách đãi ngộ, nhất là vấn đề tiền lương cho cán bộ, công
chức chưa phù hợp, còn nhiều bất cập cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến hành vi tham nhũng. Như các bạn có thể thấy là một số
ngành nghề có mức lương vơ cùng khơng hợp lý, một ví dụ điển hình là
những giáo viên, nên họ mới buộc phải mở những trung tâm, cơ sở dạy
thêm, dẫn tới một số tình trạng “đì” học sinh khơng đi học thêm mình,
mua điểm.
Chương II : Các hành vi tham nhũng và cách xử lý theo quy định pháp
luật

2.1 Các hành vi tham nhũng theo pháp luật quy định
Những người có khả năng tham nhũng đều là những người có chức, có quyền
do đó những hành vi tham nhũng được biểu hiện trên thực tế rất tinh vi, đa
dạng, dưới nhiều cách thức khác nhau. Tại Khoản 1 điều 2 Luật Phòng, Chống
tham nhũng năm 2018 quy định các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà
nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực
nhà nước thực hiện bao gồm:
2.1.1Tham ô tài sản: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản mà mình có trách nhiệm quản lý thành tài sản riêng. Chủ thể của hành vì
tham ơ tài sản thường là những người có trách nhiệm quản lí tài sản. Họ phải là
người có chức vụ hoặc được giao quản lí một khối tài sản nhất định. Do đặc thù
vị trí cơng việc, nên họ đã dễ dàng biến tài sản của người khác (tổ chức, cơ quan
hoặc của công dân) do mình quản lí (quản lí trực tiếp hoặc gián tiếp) thành tài
sản riêng của mình. Ví dụ: Giám đốc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chỉ đạo
nhân viên của mình là kế tốn và thủ quỹ lập khống chứng từ để quyết toán hợp
đồng kinh tế để rút tiền gần 2 tỷ đồng. Và cùng lúc đó, người giám đốc này chia
cho thủ quỹ, kế toán mỗi người 100 triệu đồng, số tiền cịn lại thì chi cho mục
đích cá nhân của mình. Theo đó, vì đã lợi dụng chức quyền chiếm tài sản của
công ty dùng cho mục đích cá nhân nên vị giám đốc này đã phạm phải tội tham


ô.
2.1.2 Nhận hối lộ: Nh nậ hốối lộ là hành vi người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp
hoặc qua trung gian nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích v t ậchấốt (c aủ hốối lộ) do đã
làm hoặc sẽ làm hay khơng làm một việc có lợi cho bên đưa hoặc theo yêu cầu
của bên đưa hối lộ. Hình thức hối lộ có thể là người phạm tội trực tiếp nhận từ
người đưa hối lộ hoặc qua một hay nhiều người trung gian. Người đưa hối lộ và
người trung gian sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ cấu
thành các tội được quy định tại Điều 289 và Điều 290 Bộ luật hình sự. Người
nhận hối lộ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi nhận của hối lộ là lợi ích phi vật

chất; tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 02 triệu đồng trở lên
hoặc dưới 02 triệu đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ hoặc
đã bị kết án về một trong các tội phạm tham nhũng, chưa xóa án tích mà cịn vi
phạm. (Hiện nay, chưa có quy định xử phạt chung với người nhận hối lộ dưới 02
triệu lần đầu).
2.1.3 Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: là hành vi vượt ra
khỏi phạm vi quyền hạn của mình nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Hành vi vượt quyền hạn này chỉ thực hiện trên cơ sở chức vụ, quyền hạn đã có
của người phạm tội. Ví dụ: Bà Trần Thị C là Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Bà C chỉ
được phân công phụ trách lĩnh vực văn hóa - xã hội, khơng được phân công phụ
trách lĩnh vực quản lý đất đai nhưng bà C vần ra quyết định thu hồi đất của
Công ty A để giao cho Công ty B (là Công ty của gia đình bà C). Trường hợp
này hành vi của bà C đã vượt quá chức trách, nhiệm vụ được giao.
Người phạm tội đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như là phương tiện
để thực hiện tội phạm. Để chiếm đoạt tài sản của người khác người phạm tội có
thể thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Trong thực tế các thủ đoạn này là
lạm dụng chức vụ, quyền hạn để uy hiếp tinh thần hoặc lừa dối hoặc lạm dụng
tín nhiệm.
● Lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần người khác để chiếm
đoạt tài sản của họ là trường hợp người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền
hạn mình làm phương tiện để chiếm đoạt tài sản, cưỡng bức người khác.
Người bị hại do lo sợ rằng người phạm tội sẽ gây thiệt hại cho mình mà
để cho người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của họ.
● Lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác chiếm đoạt tài sản là
trường hợp người phạm tội thể hiện những nội dung khơng đúng sự thật
hay lừa gạt người khác nhưng vì tin vào người có chức vụ, quyền hạn mà
họ khơng nhận thức ra được đó là gian dối và để cho người phạm tội
chiếm đoạt tài sản.
● Nếu người phạm tội không gian dối nhưng người bị hại vẫn tin mà giao
cho tài sản và người có chức vụ, quyền hạn lạm dụng sự tín nhiệm này

mà chiếm đoạt tài sản của họ thì đây là thủ đoạn lạm dụng tín nhiệm.


2.1.4 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì
vụ lợi1: là hành vi cá nhân vì vụ lợi hoặc có những động cơ cá nhân khác mà đã
lợi dụng dựa vào chức vụ, quyền hạn đã được giao để làm trái công vụ, gây
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân.Dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này là làm trái công vụ. Ví dụ: Ơng
Nguyễn Văn C là Trưởng phịng Tài ngun và Môi trường huyện H đã thực
hiện hành vi trái cơng vụ, trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện H ký quyết
định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất không đủ điều kiện
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Nếu người phạm tội không làm trái công vụ mà làm đúng nhưng vẫn gây
thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức thì khơng cấu thành tội phạm này mà tùy trường hợp cấu thành tội phạm
khác.
2.1.5 Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi: Là hành vi
vì vụ lợi cá nhân hoặc những động cơ khác mà vượt quá quyền hạn của mình
làm trái cơng vụ, gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân.Ví dụ : Chủ tịch xã Y là ông Nguyễn Văn A cho ông
Trần Văn B thuê một mảnh đất công trên địa bàn của xã để ông B mở cửa hàng
buôn bán, kinh doanh. Số tiền thuê trong một năm là 100 triệu. Đối với hành vi
này của ơng A thì ơng hồn tồn khơng có quyền cho ơng B th mảnh đất này.
Như vậy, qua ví dụ trên có thể thấy ơng Nguyễn Văn A đã lạm dụng quyền làm
chủ tịch xã của mình để cho ông Trần Văn B thuê đất công sau đó lấy tiền bỏ
túi. Lỗi của ông A được xem là lỗi cố ý trực tiếp, ông A mặc dù biết rõ hành vi
của mình là sai trái, gây thiệt hại cho Đảng và nhà nước nhưng ơng vẫn cố tình
lạm quyền cho thuê. Động cơ của ông A là vụ lợi cá nhân và ông A đã trục lợi
cho bản thân mình qua hành vi cho ơng B th đất cơng với số tiền trong năm
cho thuê là 100 triệu đồng. Thiệt hại thực tế có thể thấy là số tiền 100 triệu

đồng.
Xét về bản chất, lạm quyền trong khi thi hành công vụ cũng là lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nhưng điểm khác nhau là chủ thể đã
vượt quá quyền hạn của mình hay nói cách khác, chủ thể đã thực hiện việc làm
khơng thuộc thẩm quyền của mình và nội dung việc làm đó là sai. Tuy nhiên,
đối với lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, mặc dù nội
dung việc làm của chủ thể là sai nhưng việc làm đó thuộc phạm vi chức trách
của chủ thể. Cịn đối với lạm quyền trong khi thi hành công vụ có tính nguy
hiểm cao hơn, vì hành vi đã vượt quá phạm vi chức trách.
2.1.6 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để
trục lợi
Chức vụ được hiểu là một vị trí, một vai trị trong một tổ chức, trong tập thể.
1 V ụl ợi: là l ợi ích v ật chấốt, tnh thấần mà người có chức vụ, quyềần h ạn đ ạt đ ược ho ặc có th ể đạt được thống
qua hành vi tham nhũng


Trục lợi được hiểu là kiếm lợi ích một cách khơng chính đáng. Từ đó ta có thể
hiểu lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
là việc một người dựa vào vị trí của mình trong cơng việc để gây ảnh hưởng tới
người khách với mục đích đạt được lợi ích khơng chính đáng.
Hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để
trục lợi được coi phạm tội khi nó thỏa mãn tất cả các dấu hiệu dưới đây:
+ Hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại về tiền, tài sản,
lợi ích vật chất khác hoặc gây thiệt hại về lợi ích phi vật chất.
+ Chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đã đến tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và có khả năng điều khiển hành vi của
mình, khơng thuộc trường hợp khơng có năng lực trách nhiệm hình sự.
+ Lỗi của người phạm tội này là lỗi cố ý trực tiếp có nghĩa là họ nhận thức
được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, họ thấy trước được hậu quả của
hành vi đó nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra.

+ Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để
trục lợi được quy định tại điều 358 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017 và hành vi thỏa mãn theo mô tả của điều này được coi là hành vi
phạm tội.
2.1.7 Giả mạo trong cơng tác vì vụ lợi
Giả mạo trong cơng tác là hành vi của một người vì vụ lợi hoặc động cơ cá
nhân khác mà cố ý trực tiếp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện một trong
các hành vi sau đây:
● Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu là hành vi thêm bớt, tẩy
xóa hoặc có hành vi khác làm cho giấy tờ, tài liệu khơng cịn phản ánh
đúng sự thực khách quan nữa.
● Làm, cấp giấy tờ giả là hành vi làm ra hoặc đưa vào lưu thông các loại
giấy tờ giả. Trong thực tế, giấy tờ giả là các loại giấy tờ được in bằng
khn mẫu giả, chữ kí giả, dấu chứng thực giả…
● Giả mạo chữ kí của người có chức vụ, quyền hạn là hành vi kí tên của
người khác vào giấy tờ, tài liệu. Người khác trong trường hợp này là
người có chức vụ, quyền hạn.
Xét về hành vi khách quan thì tội phạm này gần giống với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
2.1.8 Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ
chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi:
Đưa hối lộ là hành vi đưa tài sản hoặc lợi ích vật chất cho người có chức vụ,
quyền hạn dưới bất kì hình thức nào. Hành vi này có thể xảy ra trước hoặc sau
khi người nhận hối lộ thực hiện yêu cầu của người đưa hối lộ. Dấu hiệu bắt
buộc của hành vi này là: người thực hiện hành vi có của hối lộ là lợi ích vật chất


hoặc phi vật chất có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần.
Môi giới hối lộ là hành vi bên thứ 3 làm trung gian, móc nối giữa người đưa

và người nhận hối lộ bằng cách: chuyển yêu cầu của người đưa đến người nhận
để người nhận thực hiện hoặc bên thứ 3 sẽ đứng ra tổ chức để các bên gặp nhau
và thỏa thuận hối lộ. Môi giới hối lộ không bắt buộc hậu quả xảy ra nhưng giá
trị của hối lộ có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần sẽ cấu thành tội phạm.
Điều cần lưu ý là hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là tội danh được quy
định trong Bộ luật hình sự khơng thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng mà
thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ. Và chỉ được coi là hành vi tham nhũng
khi hành vi đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ được thực hiện bởi chủ thể có chức
vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi. Hành vi này vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự với
tội danh tương ứng (nếu hành vi đó cấu thành tội phạm), vừa là hành vi tham
nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về tham nhũng.
2.1.9 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản cơng vì vụ lợi:
Là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của nhà nước để phục
vụ cho lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó thay vì phục vụ cho lợi ích
cơng. Biểu hiện của hành vi này thường là cho thuê tài sản cơng nhằm vụ lợi.
2.1.10 Nhũng nhiễu vì vụ lợi: Nhũng nhiễu là hành vi cửa quyền2, hách dịch,
đòi hỏi, gây khó khăn, phiền hà của người có chức vụ, quyền hạn trong khi thực
hiện nhiệm vụ, công vụ. Có nghĩa là một số cán bộ, cơng chức khơng thực hiện
trách nhiệm với thái độ công tâm và tinh thần phục vụ mà ngược lại họ thường
tìm cách lợi dụng những sơ hở hoặc không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí là
tự ý đặt ra các điều kiện gây thêm khó khăn cho người dân và doanh nghiệp để
buộc người dân và doanh nghiệp phải biếu xén quà cáp cho mình. Thực chất của
hành vi này là sự ép buộc đưa hối lộ được che đậy dưới hình thức tinh vi rất khó
có căn cứ để xử lý. Cũng có thể coi hành vi nhũng nhiễu là hành vi “đòi hối lộ”
một cách gián tiếp hoặc ở mức độ chưa thật nghiêm trọng và có thể dùng biện
pháp xử lý hành chính.
2.1.11 Khơng thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm
vụ, công vụ: là hành vi thường được gọi là “bảo kê” của những người có trách

nhiệm quản lý, đặc biệt là một số người làm việc tại chính quyền địa phương cơ
sở, đã “lờ” đi hoặc thậm chí họ cịn tiếp tay cho các hành vi vi phạm để nhận
được lợi ích từ những kẻ phạm pháp.
2 C ửa quyềần: Ch thái

đ ộng ườ
i cống ch ứ
c t ựcho là mình có nhiềầu quyềần và hách d ch
ị v iớai có vi cệ cấần đềốn
mình


2.1.12 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi
phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám
sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì
vụ lợi.
Hành vi tham nhũng nhiều khi được che chắn thậm chí là có sự đồng lõa của
những người có chức vụ, quyền hạn ở cấp cao hơn. Vì vậy, việc phát hiện và xử
lý tham nhũng là hết sức khó khăn. Việc bao che cho người có hành vi tham
nhũng, cản trở quá trình phát hiện tham nhũng có khi được che đậy dưới rất
nhiều hình thức khác nhau như: điện thoại nhắc nhở, tránh khơng thực hiện
trách nhiệm của mình hoặc có thái độ, việc làm bất hợp tác với cơ quan có thẩm
quyền…
Bên cạnh các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức
vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện thì
Luật Phịng, Chống tham nhũng năm 2018 cũng đã bổ sung các hành vi tham
nhũng trong khu vực ngồi nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong
doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước tại khoản 2 điều này bao gồm:
Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết cơng việc
của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.

Ngoài ra một trong những phương tiện phổ biến nhất hiện nay để các cá nhân
tham nhũng hợp pháp hóa số tiền bẩn của mình đó chính là “rửa tiền”. Đội ngũ
của công việc này, chủ chốt là những người rửa tiền chuyên nghiệp, ngày càng
được tăng cường với nhiều luật sư cao giá, mua bán bất động sản, cố vấn thuế
vụ, kế toán, người giao dịch chứng khoán, ...Qua đó, cách thức và phương tiện
rửa tiền ngày càng tinh vi, đa dạng, quy mơ hơn. Có thể nói tham nhũng, rửa
tiền, và kinh doanh bất chính có nhiều chỗ giống nhau, cấu kết với nhau, và tiếp
sức cho nhau. Ví dụ, tham nhũng thì cần có người để rửa tiền hối lộ, và người
rửa tiền này có thể là tội phạm chuyên nghiệp, hoặc công ty ma. Ngược lại, thì
tội phạm và doanh nghiệp cũng thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ
cho các dịch vụ rửa tiền của họ được hoạt động suôn sẻ. Các phương thức mà
tội phạm rửa tiền thực hiện càng ngày càng tinh vi, trong đó phải kể đến như:
Chia nhỏ số tiền mặt, vận chuyển tiền mặt qua biên giới, thông qua các giao
dịch thương mại (gian lận, không ghi đúng giá trị của hàng hóa, dịch vụ để
chuyển tiền ít hơn hoặc nhiều hơn so với giá trị thực của hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường), thơng qua các hoạt động casino hoặc vui chơi giải trí có thưởng, sử
dụng các cơng ty “bình phong” và cơng ty “vỏ bọc”; mua chuộc, hối lộ cán bộ,
nhân viên tài chính; mua tài sản có giá trị lớn bằng tiền mặt; chuyển đổi sang
các công cụ tiền tệ khác; sử dụng hệ thống chuyển tiền thay thế (hệ thống ngân
hàng “ngầm”); rửa tiền thơng qua hoạt động tín dụng; kết hợp với giới luật sư,
kế toán thực hiện hoạt động rửa tiền; sử dụng “con la tiền3”... Chúng ta có thể
3 Con la tiền: là một người nhận tiền từ một bên thứ ba bằng tài

khoản ngân hàng của họ và chuyển số tiền đó cho một người khác
hoặc rút số tiền đó ra (tiền mặt) và đưa cho người khác, nhận hoa


nhận diện những chiêu thức rửa tiền tinh vi của tội phạm trong một số đại án
kinh tế tham nhũng như: vụ Giang Kim Đạt và vụ Phan Sào Nam: Rửa tiền
thông qua việc mua nhà lầu, xe hơi, chuyển cho người thân gửi tiết kiệm; Vụ

Nhật Cường Rửa tiền qua các cơng ty “bình phong” …
2.2 Các hình thức xử lý theo quy định của pháp luật
2.2.1: Xử lý đối với người có hành vi tham nhũng
Tại điều 92 Luật Phòng , Chống Tham nhũng 2018 đã quy định cụ thể như sau:
1. Người có hành vi tham nhũng giữ bất kì chức vụ, vị trí cơng tác nào đều
phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, kể cả người đã
nghỉ hưu, thôi việc, chuyển cơng tác.
2. Người có hành vi tham nhũng quy định tại Điều 2 của Luật này thì tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm, phải bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật.
3. Trường hợp người có hành vi tham nhũng bị xử lý kỷ luật là người đứng
đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì bị xem
xét tăng hình thức kỷ luật.
4. Người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát
giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt
hại, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi
tham nhũng thì được xem xét giảm hình thức kỷ luật, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
5. Người bị kết án về tội phạm tham nhũng là cán bộ, công chức, viên chức
mà bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên
bị buộc thôi việc đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì
đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
Bên cạnh đó, cơng chức sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu hành vi tham
nhũng vi phạm một trong các tội theo quy định của Bộ luật hình sự tại các điều
từ 353 đến 359. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi tham nhũng đều bị xử lý về
hình sự mà chỉ những hành vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định
trong Bộ luật hình sự thì mới được xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện
pháp hình sự, (các hành vi được quy định từ khoản 1 đến khoản 7, Điều 2 của

Luật Phòng, Chống tham nhũng 2015) còn những hành vi khác (từ khoản 8 đến
khoản 12, Điều 2 của Luật Phòng, Chống tham nhũng 2018) được xác định là
hành vi tham nhũng nhưng chưa cấu thành tội phạm thì đƣợc xử lý bằng biện
pháp kỷ luật.
hồng từ việc làm đó.


Theo quy định tại khoản 1 điều 92 Luật Phòng, Chống tham nhũng 2018 thì
dù cơng chức đã nghỉ hưu, thôi việc hay chuyển công tác và giữ bất kỳ chức vụ
nào thì khi phát hiện có hành vi tham nhũng đều bị xử lý nghiêm. Căn cứ vào
tính chất, mức độ vi phạm, công chức tham nhũng sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu công chức tham nhũng là người đứng đầu
hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thì sẽ bị xem xét tăng hình
thức kỷ luật. Đồng thời, tùy theo mức độ vi phạm, tính chất của hành vi khi
cơng chức có hành vi tham nhũng sẽ bị xử lý kỷ luật các hình thức:
● Khiển trách: Vi phạm lần đầu, gây hậu quả ít nghiêm trọng.
● Cảnh cáo: Đã bị kỷ luật bằng khiển trách mà còn tái phạm hoặc vi phạm
lần đầu nhưng gây hậu quả nghiêm trọng.
● Giáng chức: Đã bị kỷ luật cảnh cáo mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu
nhưng gây hậu quả rất nghiêm trọng.
● Cách chức: Đã bị giáng chức mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu và gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị buộc thơi việc;
cơng chức tham nhũng có thái độ tiếp thu, sửa chữa, chủ động khắc phục
hậu quả và có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
● Buộc thơi việc: Đã bị cách chức mà tái phạm; vi phạm lần đầu nhưng
gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Các hình thức này được quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP, ngày
18/9/2020 của Chính phủ.
Như vậy, tùy vào từng hành vi cùng mức độ (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng) để áp dụng hình thức kỷ luật phù

hợp công chức tham nhũng. Không chỉ quy định về xử lý kỷ luật đối với công
chức tham nhũng, mà người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan,
đơn vị do mình quản lý nếu để cơ quan mình có vụ, việc tham nhũng xảy ra thì
có thể bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo hoặc cách chức. Các nội
dung này được quy định tại Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, ngày 01/7/2019 của
Chính phủ.
2.2.2: Xử lý tài sản tham nhũng
Hiện nay, công tác phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử hành vi tham nhũng
cũng như việc thu hồi tài sản tham nhũng được thực hiện dựa trên các quy
định của Luật phòng chống tham nhũng năm 2018; Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
2015; Bộ luật Hình sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015.
Các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng được quy định tại
điều 93 Luật Phòng, Chống tham nhũng như sau: Tài sản tham nhũng phải
được thu hồi, trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc tịch thu theo


quy định của pháp luật. Thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra phải được khắc
phục; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định
của pháp luật”. Như vậy, Luật Phòng, Chống tham nhũng đã xác định trong quá
trình phát hiện, xử lý tham nhũng, nếu xác định được là tài sản tham nhũng thì
phải thu hồi, tịch thu về cho nhà nước; nếu xác định có thiệt hại do hành vi tham
nhũng gây ra thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị thiệt hại có quyền yêu cầu
người có hành vi tham nhũng phải bồi thường, bồi hoàn. Bên cạnh đó, để
khuyến khích người có hành vi tham nhũng chủ động khai báo trước khi bị phát
hiện, tích cực hạn chế thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, tự giác
nộp lại tài sản tham nhũng, Luật Phòng, Chống tham nhũng quy định trong các
trường hợp này có thể xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật, hình phạt hoặc miễn
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật (Khoản 4 Điều 92).
Về thu hồi tài sản tham nhũng, tại Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy

định: “Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của
người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước”. Có thể thấy, hiện nay việc thu
hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam đang thực hiện dựa vào thủ tục tố tụng hình
sự. Đó là những biện pháp điều tra cũng như trình tự thủ tục giải quyết vụ án
hình sự.
Ngồi ra, BLDS năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định
gián tiếp việc thu hồi tài sản tham nhũng thông qua trình tự thủ tục khởi kiện vụ
án dân sự để bảo vệ quyền sở hữu và bồi thường dân sự. Cụ thể, theo Điều 164
BLDS năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản
có quyền u cầu Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có
hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp
luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi
thường thiệt hại”. Hay Điều 166 BLDS quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử
dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”. Hoặc quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Điều 170 BLDS năm 2015: “Chủ sở hữu, chủ
thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại”. Để thực hiện
quyền do pháp luật quy định thì cơ quan, tổ chức nơi người có hành vi tham
nhũng cơng tác có thể tiến hành thủ tục khởi kiện theo quy định tại Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 để u cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân
sự, thơng qua đó, thu hồi tài sản đã bị người có hành vi tham nhũng chiếm đoạt.
Như vậy, hiện nay chưa có văn bản pháp luật quy định riêng, hướng dẫn về
trình tự, thủ tục trong việc phát hiện, xử lý và thu hồi tài sản tham nhũng, như:
Trình tự, thủ tục điều tra dựa trên việc truy vết, lần theo chuyển động của tài sản
bất hợp pháp như các trường hợp tài sản, thu nhập nhưng không chứng minh
được nguồn gốc; xác minh tài sản bị nghi ngờ là bất hợp pháp, truy tìm tài sản;


sử dụng các biện pháp tạm thời như phong toả, thu giữ tài sản; thực hiện các

biện pháp tịch thu tài sản.
Chương III: Phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Tham nhũng là một căn bệnh nan y của bộ máy nhà nước và đã để lại
hệ quả tiêu cực, vì vậy mọi thành viên trong xã hội, từ các cơ quan nhà
nước và tổ chức xã hội đến cơng dân đều phải có trách nhiệm phịng,
chống tham nhũng. Hiện nay, Luật Việt Nam đã hiện hành khá đầy đủ
các quy định về biện pháp phòng chống tham nhũng, và một trong
những nội dung lớn của Luật Phòng, chống tham nhũng là về việc phát
hiện và tố cáo các hành vi tham nhũng.
Phát hiện tham nhũng:
Phát hiện tham nhũng là việc tìm ra vụ việc tham nhũng và có biện pháp
kịp thời để hạn chế thiệt hại xảy ra, đồng thời xác định mức độ trách
nhiệm của người có hành vi vi phạm, có hình thức xử lý thích đáng và
nghiêm minh. Việc phát hiện tham nhũng đòi hỏi sự nỗ lực của mọi cơ
quan, tổ chức, đặc biệt là các cơ quan có chức năng thanh tra, điều tra,
giám sát, kiểm sát cũng như sự tham gia tích cực của cơng dân. Luật
phịng, chống tham nhũng năm 2018 quy định việc phát hiện tham
nhũng thông qua ba hoạt động chủ yếu:
- Công tác kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước;
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán;
- Tố cáo của công dân.
1.1. Công tác kiểm tra:
Kiểm tra và tự kiểm tra là một khâu không thể thiếu trong quản lý
Nhà nước. Hành vi tham nhũng có thể xảy ra ở mọi lĩnh vực quản
lý Nhà nước. Việc thực hiện kiểm tra trong phạm vi quản lý ngành,
lĩnh vực hoặc tự kiểm tra trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị
nhằm chủ động xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật của
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý, kịp thời
phát hiện hành vi tham nhũng để ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại
xảy ra

+ Công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước:


Theo điều 55 của Luật PCTN 2018 quy định
1. Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm
tổ chức kiểm tra thường xuyên việc chấp hành pháp luật của
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của
mình nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng.
2. Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, người đứng đầu cơ
quan quản lý nhà nước phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền
hoặc báo cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định
của pháp luật.
+ Công tác tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị:
Theo điều 56 của Luật PCTN 2018 quy định
1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chủ động tổ chức
kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ của người có
chức vụ, quyền hạn do mình quản lý mà thường xuyên, trực
tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân khác nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham
nhũng.
2. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm
thường xun đơn đốc đơn vị trực thuộc kiểm tra người có
chức vụ, quyền hạn do mình quản lý trong việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ.
3. Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, người đứng đầu cơ
quan quản lý nhà nước, người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cho cơ
quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Kiểm tra hoạt động chống tham nhũng trong Cơ quan Thanh tra,
Kiểm toán Nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân,

Tòa án nhân dân như sau:
Theo điều 57 của Luật PCTN 2018 quy định
1. Người đứng đầu Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
phải tăng cường quản lý cán bộ, cơng chức, viên chức và
người có chức vụ, quyền hạn khác; chỉ đạo công tác thanh
tra, kiểm tra nội bộ nhằm ngăn chặn hành vi lạm quyền,
nhũng nhiễu và các hành vi khác vi phạm pháp luật trong
hoạt động chống tham nhũng.
2. Cán bộ, công chức, viên chức và người có chức vụ, quyền
hạn khác của Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tịa án nhân dân có


hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động chống tham
nhũng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
1.2. Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm toán:
Đây là những hoạt động chủ yếu trong việc phát hiện và xử lý
tham nhũng. Các cơ quan thanh tra, điều tra, kiểm toán, xét xử và
giám sát có chức năng bảo vệ pháp luật và kịp thời phát hiện, xử
lý nghiêm minh những hành vi vi phạm, trong đó có tham nhũng.
Đây là lực lượng chính trong cuộc đấu tranh chống vi phạm pháp
luật. Chính vì vậy, các hoạt động này được quy định rất chặt chẽ
và đầy đủ trong các văn bản pháp luật cao nhất của Nhà nước.
+ Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử và
xử lý đề nghị của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử:
Theo điều 59 của Luật PCTH 2018 quy định:
1. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân

tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại
biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại
biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân
thông qua hoạt động giám sát nếu phát hiện vụ việc có
dấu hiệu tham nhũng thì đề nghị Cơ quan thanh tra,
Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
nhân dân xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Khi nhận được đề nghị quy định tại khoản 1 Điều này,
Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
nhân dân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, phải xác minh, xử lý và thơng báo kết quả cho
cơ quan, đại biểu đã đề nghị.
3. Khi nhận được đề nghị quy định tại khoản 1 Điều này,


Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán hoặc xem
xét, quyết định việc kiểm toán theo quy định của Luật
Kiểm tốn nhà nước và thơng báo kết quả cho cơ
quan, đại biểu đã đề nghị.
+ Hoạt động thanh tra, kiểm toán:
Theo điều 60 Luật PCTN 2018 quy định:
1. Cơ quan thanh tra, Kiểm tốn nhà nước thơng qua
hoạt động thanh tra, kiểm tốn có trách nhiệm chủ
động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý theo thẩm
quyền hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật
và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của
mình.
2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh,

Kiểm toán nhà nước ra quyết định thanh tra, kiểm tốn
vụ việc có dấu hiệu tham nhũng khi có căn cứ theo quy
định của Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước.
Phản ánh, tố cáo và báo cáo về hành vi tham nhũng
Việc cung cấp thơng tin về tham nhũng có thể được thực hiện bằng các
hình thức khác nhau như phản ánh, tố cáo, báo cáo. Qua đó, giúp các
cơ quan có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, thu thập các thông tin về
tham nhũng nhằm phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời. Quy định về
phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng giúp khuyến khích cá
nhân, tổ chức cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng, điều này cũng
thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc tăng cường
phát hiện hành vi tham nhũng.
Theo điều 65 Luật PCTN 2018 quy định, cá nhân, tổ chức có quyền
phản ánh về hành vi tham nhũng, cá nhân có quyền tố cáo về hành vi
tham nhũng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh quyền tố cáo, theo
điều 69 Người tố cáo, phản ánh hành vi tham nhũng cũng phải có
những nghĩa vụ chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của
nội dung phản ánh, báo cáo và chịu trách nhiệm về việc tố cáo của mình
theo quy định của Luật Tố cáo.
Cũng theo Luật PCTN 2018 điều 66, Cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động, cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang khi phát hiện
hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình cơng tác thì
phải báo cáo ngay với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó;


trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến
hành vi tham nhũng thì phải báo cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý cán bộ.

Giải quyết tố cáo, xử lý phản ánh và báo cáo về hành vi tham nhũng

Đối với các phản ánh và tố cáo của cá nhân, tổ chức về hành vi tham
nhũng, theo Điều 65 của Luật PCTN 2018 có quy định
+ khi cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền nhận được
phản ánh, tố cáo về hành vi tham nhũng phải xem xét, xử lý kịp
thời và áp dụng các biện pháp bảo vệ người phản ánh, tố cáo.
+ Việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng được thực
hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo.
+ Việc tiếp nhận, xử lý phản ánh về hành vi tham nhũng được thực
hiện theo quy định của pháp luật về tiếp công dân.
Đối với báo cáo của Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, cán
bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, theo điều 66 của Luật PCTN 2018
quy định:
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo về hành vi
tham nhũng, người được báo cáo phải xử lý vụ việc theo thẩm
quyền hoặc chuyển cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
xem xét, xử lý và thơng báo cho người báo cáo biết;
+ đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài nhưng khơng
q 30 ngày; trường hợp cần thiết thì người được báo cáo quyết
định hoặc đề nghị người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng và bảo vệ
người báo cáo.
Bên cạnh trách nhiệm xử lý các phản ánh, báo cáo và tố cáo, các cơ
quan, tổ chức và những người có thẩm quyền cũng có trách nhiệm bảo
vệ người tố cáo khỏi sự đe doạ trả thù, trù dập. Đây là vấn đề rất quan
trọng vì trong nhiều trường hợp, người bị tố cáo là những người có
chức vụ quyền hạn, thậm chí giữ chức vụ, quyền hạn rất cao nên họ có
nhiều cách để trả thù người tố cáo hoặc giữ kín sự việc mà người tố cáo
phát hiện cho nhà nước. Vì vậy, Nhà nước phải có những cơ chế bảo vệ
người tố cáo, tạo điều kiện để cơng dân tích cực phát hiện các hành vi
tham nhũng, cơ quan nhà nước kịp thời xử lý.

Theo điều Điều 67 quy định về Bảo vệ người phản ánh, tố cáo, báo cáo
về hành vi tham nhũng


1. Việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng được thực hiện theo
quy định của pháp luật về tố cáo.
2. Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng được áp dụng các
biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo.
Và để khuyến khích cá nhân dũng cảm tố cáo tham nhũng, Người phản
ánh, tố cáo cũng sẽ được khen thưởng khi phát hiện ra được hành vi
tham nhũng, theo Điều 68, Người có thành tích trong việc phản ánh, tố
cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng thì được khen thưởng theo quy
định của pháp luật.
Chương IV: Một số vụ tham nhũng lớn + vụ án học đường
Vụ tham nhũng lớn
+ Vụ án EPCO Minh Phụng
Năm 1997 - 1998 có thể nói đây là thời điểm khủng hoảng kinh tế lần
đầu tiên sau đổi mới từ 1985 - 1986 của Việt Nam diễn ra. Thị trường
địa ốc khủng hoảng năm 1998 sau một thời gian tăng nóng quá mức.
Cũng giống nhiều doanh nghiệp khác, Minh Phụng - được coi như là
một tập đoàn kinh tế năng động và rất có thế lực do ơng Tăng Minh
Phụng điều hành với vai trò “ giám đốc “. Minh Phụng mong muốn
nhanh chóng chớp thời cơ, tích luỹ được càng nhiều đất càng tốt, chờ
cơ hội sẽ bán ra được với giá cao hơn. Ngay từ đầu Minh Phụng đã xác
định đầu tư trên quy mô lớn. Sự tăng trưởng quá nóng thúc đẩy Minh
Phụng đầu tư vào nhiều loại bất động sản tại nhiều nơi. Nếu có nhiều
vốn, có khả năng tiếp tục nắm giữ đất trong khi vẫn trả nợ ngân hàng để
chờ đến chu kỳ tăng trưởng tiếp theo của thị trường địa ốc, Minh Phụng
có thể thu được lợi nhuận lớn. Song tồn bộ khối tài sản là từ vốn vay,
giả sử có chờ được cơn sốt tiếp theo, thì khoản lợi nhuận thu được

cũng khó có thể bù đắp cho số lãi mẹ đẻ lãi con, có lẽ bi kịch bắt đầu từ
đây. Đổ vỡ dây chuyền khiến công ty Minh Phụng không có khả năng trả
nợ ngân hàng.
Do sự tăng trưởng quá nóng, đến giai đoạn 1993-1996, doanh nghiệp


của Tăng Minh Phụng đã lâm vào tình thế nguy hiểm. Ơng đã vơ cùng
khó khăn khi phải duy trì, phát triển khối tài sản khổng lồ trên. Trong khi
vốn đầu tư cho kinh doanh địa ốc thì càng nhiều, nợ vay ngân hàng thì
ngày càng lớn, khả năng sinh lời từ tài sản khơng thể có được trong thời
gian ngắn. Khi khơng cịn cách nào khác, Tăng Minh Phụng phải lừa các
ngân hàng để có vốn tiếp tục đầu tư vào đất đai. Theo quy định của
Ngân hàng nhà nước vào thời điểm đó, một doanh nghiệp chỉ được vay
vốn khơng q 10% vốn tự có, để có thể được vay vốn. Để đối phó với
quy định trên, Tăng Minh Phụng đã thành lập hàng loạt công ty con, câu
kết với các quan chức ngân hàng sử dụng trên 40 pháp nhân để vay
vốn. Tính đến khi xảy ra vụ án, Minh Phụng đã thực hiện trên 600 hợp
đồng tín dụng với 7 ngân hàng, với tổng dư nợ hàng ngàn tỷ đồng và
hàng chục triệu USD.
Vụ án đã gây thiệt hại kinh tế rất lớn cho một số bên liên quan, đặc biệt
là các ngân hàng cấp tín dụng, với số tài sản, tiền phải thi hành án gần
6.000 tỷ đồng, nhưng tới nay còn khoảng 3.000 tỷ chưa thi hành được.
Cụ thể, cả hai công ty EPCO và Minh Phụng phải bồi thường và thanh
toán các khoản nợ cho 6 ngân hàng gồm: Ngân hàng Công thương Việt
Nam (Incombank, nay là Vietinbank), Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam (Vietcombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu
Việt Nam (Eximbank), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Công
Thương, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Nam, Ngân hàng Thương
mại cổ phần Gia Định, tổng số tiền gần 6.000 tỷ đồng và 32,6 triệu USD.
Ngày 21/5/1999, sau hai năm điều tra, 77 người, gồm cả các quan chức

và một số doanh nhân hàng đầu, phải ra tòa tại Tịa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh để xét xử về tội tham nhũng và gian lận tài chính. Hơn
100 người tụ tập xung quanh nhà của tòa án để nghe các thủ tục trên
loa phóng thanh. Hơn hai năm điều tra, 41 công ty gắn liền với Tăng
Minh Phụng và Liên Khui Thìn , những người bị cáo buộc nợ hơn $ 280
triệu, phần lớn là vay mượn từ ngân hàng chính phủ. Mười tám cựu
quan chức của ngân hàng nhà nước và công chức phải đối mặt với các


bản án khác, và cơng an thành phố Hồ Chí Minh cũng bị nghi ngờ là
tham gia vào các giao dịch tài sản có vấn đề .Theo án trạng thì Minh
Phụng và công ty quốc doanh EPCO thông đồng để mở ra 47 công ty
"ma" rồi đồng lõa với những ngân hàng nhà nước vay nợ hàng triệu đô
la Mỹ, sau đó giật nợ, rút lui.
Kết thúc phiên tịa, 6 bị cáo bị tuyên án tử hình, gồm Tăng Minh Phụng,
Liên Khui Thìn về tội lừa đảo, Phạm Nhật Hồng (ngun phó giám đốc
Ngân hàng Cơng thương chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn
Ngọc Bích (ngun phó giám đốc Ngân hàng Ngoại thương VN chi
nhánh Thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Tuấn Phúc (Chủ tịch Hội đồng
quản trị công ty EPCO) bị mức án tử hình về đưa hối lộ, Nguyễn Xuân
Phong (Bộ Nông nghiệp). Sáu bị cáo khác bị tuyên chung thân, trong đó
có Lê Minh Xử (Giám đốc doanh nghiệp thuộc Bộ Cơng An). Các bị cáo
cịn lại bị tuyên các mức án khác nhau.
+ Vụ án “ Đưa hối lộ, môi giới hối lộ, nhận hối lộ “
Giữa năm 2017, Phan Văn Anh Vũ bị Cơ quan An ninh điều tra (Bộ
Công an) điều tra về những sai phạm trong vụ án Cố ý làm lộ bí mật nhà
nước và những hành vi vi phạm pháp luật khác liên quan đến việc mua
bán, chuyển nhượng nhà, đất thuộc công sản tại thành phố Đà Nẵng và
một số địa phương. Do lo sợ bị pháp luật xử lý, Phan Văn Anh Vũ nhờ
Hồ Hữu Hòa tiếp cận với Nguyễn Duy Linh để nhờ giúp đỡ và tìm hiểu

thơng tin.
Trong vụ án này, Hồ Hữu Hịa có mối quan hệ quen biết với Phan Văn
Anh Vũ và Nguyễn Duy Linh, với mục đích giúp đỡ Vũ khi được Vũ chia
sẻ về việc đang gặp vướng mắc về pháp luật. Hòa đã khuyên Phan Văn
Anh Vũ nên gặp Nguyễn Duy Linh và khi được Vũ hỏi ý kiến thì Hịa
khun Vũ đưa cho Linh 5 tỷ đồng. Sau đó, Hịa đóng vai trị trung gian
nhận túi q 5 tỷ đồng từ Vũ để chuyển cho Linh. Phan Văn Anh Vũ đưa
tiền cho Nguyễn Duy Linh nhằm mục đích nhờ Nguyễn Duy Linh là cấp


trên giúp đỡ để tránh bị xử lý về hành vi làm lộ lọt tài liệu bí mật Nhà
nước. Nguyễn Duy Linh biết rõ Phan Văn Anh Vũ đang trong quá trình bị
Tổng cục V xem xét xử lý, biết rõ mục đích của Vũ muốn nhờ Linh giúp
đỡ và Linh với vai trị Phó Tổng cục trưởng Tổng cục V có thể giúp đỡ
được Vũ, nên Linh nói đã xem hồ sơ của Vũ, sau đó nhiều lần trao đổi
và nhận tiền của Vũ. Khi biết thông tin Vũ sắp bị khởi tố bị can, Linh đã
báo tin cho Vũ bỏ trốn.
Phan Văn Anh Vũ thay đổi lời khai, Nguyễn Duy Linh không nhận tội.
Tuy nhiên, VKSND Tối cao cho rằng đủ cơ sở kết luận Vũ đã chuyển 5
tỷ đồng qua Hồ để đưa cho ơng Linh. Lái xe của Vũ và trợ lý của ông
Linh cũng thừa nhận tổng cộng 5 lần đưa - nhận các túi quà, thùng quà
do Vũ nhờ chuyển.
Trên cơ sở đó, các cơ quan tố tụng kết luận có đủ căn cứ xác định:
Phan Văn Anh Vũ do lo lắng bị xử lý về hành vi làm lộ tài liệu bí mật Nhà
nước, nên sau khi được Hồ Hữu Hòa gợi ý, mơi giới, đã chuyển 5 tỷ
đồng cho Hồ Hữu Hịa để đưa cho Nguyễn Duy Linh nhằm nhờ Linh
giúp đỡ. Nguyễn Duy Linh đã nhận được túi tiền này và sau đó có gọi
điện thoại nói cho Phan Văn Anh Vũ biết việc Vũ có thể bị khởi tố, bắt
giam và khuyên Vũ bỏ trốn. Sau khi nhận được thông tin từ Linh, Phan
Văn Anh Vũ đã bỏ trốn sang Singapore và sau đó bị bắt và di lý về Việt

Nam.
Vụ án đã được xử lý và Nguyễn Duy Linh - Phó Tổng cục trưởng Tổng
cục Tình báo, Bộ Cơng an bị tuyên 14 năm về tội “ Nhận hối lộ “ ; Phan
Văn Anh Vũ - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Xây dựng Bắc
Nam 79, nhận 7 năm 6 tháng tù về tội “ Đưa hối lộ “ và Hồ Hữu Hoà
nhận 2 năm 7 tháng 25 ngày về tội “ Môi giới hối lộ “.

Chương V: Phòng, chống tham nhũng và đề xuất những giải pháp
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tham ơ được xem là một trong ba kẻ thủ hết sức


nguy hiểm, nó khơng mang gươm, mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của
ta, làm hỏng mọi việc của ta và ngày nay nó được gọi là tham nhũng. Đến hiện
tại đây vẫn được coi là “quốc nạn” của đất nước, đe doạ sự tồn vong của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hành vi tham nhũng gây thiệt hại đến nhiều mặt
của đời sống xã hội, không những ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế mà còn
làm mất các giá trị đạo đức truyền thồng, các quan hệ xã hội và làm giảm niềm
tin của nhân dân vào chế độ pháp luật. Vì vậy đấu tranh phòng, chống tham
nhũng là một trong những vấn đề rất quan trọng. Nhưng đây là một cuộc đấu
tranh đầy cam go và phức tạp nhằm chống lại những thói hư, tật xấu đang tiềm
ẩn trong những người được nhà nước và nhân dân trao quyền ở các cơ quan từ
trung ương đến địa phương. Nội dung của cuộc đấu tranh này là sự phối hợp
giữa “phòng” và “chống” tham nhũng, hai hoạt động này là khác nhau nhưng có
quan hệ tác động qua lại. Đảng và nhà nước ta đã lấy phương châm phịng ngừa
là chính nhưng đấu tranh kiên quyết và không khoan nhượng. Muốn giành được
thắng lợi trong cuộc đấu tranh này cần có sự kiên quyết trong chỉ đạo của cấp
uỷ Đảng, của chính quyền cũng như sự hưởng ứng tham gia tích cực của mỗi
công dân
1. Quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng.
( Theo điều 5 luật phòng, chống tham nhũng năm 2018)

- Cơng dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành
vi tham nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật;
có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước hồn thiện pháp luật về phịng,
chống tham nhũng và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống
tham nhũng.
- Cơng dân có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong phịng, chống tham nhũng
2.
Trách nhiệm của cán bộ, cơng chức, viên chức với cơng tác phịng,
chống tham nhũng
Mỗi cán bộ, công chức, viên chức cần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm,
là những ngừoi tiên phong, nêu gướng trong việc chấp hành các quy định về
phòng, chống tham nhũng và cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng
- Cán bộ, công chức, viên chức là công dân Việt Nam nên cũng cần phải
thực hiện tốt quy định trách nhiệm của cơng dân trong cơng tác Phịng, chống
tham nhũng ( Điều 5 luật phòng, chống tham nhũng năm 2018)
- Cán bộ, công chức, viên chức đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người
dân phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng, hợp tác,
giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng, chống tham


nhũng. ( Điều 74 và 76 luật PCTN 2018)
- Thực hiện nghiêm các quy định về quy tắc ứng xử của người có chức vụ
quyền hạn theo điều 20 Luật Phòng, chống tham nhũng ; chấp hành nghiêm các
quy định cán bộ, công chức, viên chức không được làm để phịng, chống tham
nhũng theo Luật cán bộ, cơng chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật
cán bộ, công chức, Luật Viên chức sửa đổi năm 2019 và pháp luật chun
ngành khác quy định về vị trí đang cơng tác.
- Thực hiện đảm bảo đầy đủ các quy định về công khai, minh bạch trong
hoạt động công vụ và thực hiện trách nhiệm giải trình khi được yêu cầu. ( Điều

12 và 15 Luật PCTN 2018)
- Thực hiện việc kê khai tài sản đảm bảo trung thực, đúng quy định.( điều
33 Luật PTCN 2018)
+ Ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác các loại tài sản, thu nhập, biến động tài
sản, thu nhập phải kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo Mẫu
bản kê khai tài sản, thu nhập.
+ Nếu tài sản giữa các lần kê khai có tăng lên thì giải trình rõ nguồn gốc
tài sản, thu nhập tăng thêm giải thích, chứng minh về việc hình thành tài sản,
thu nhập tăng thêm so với lần kê khai liền trước đó.
- Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong cơng
tác phịng, chống tham nhũng.
+. Chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức
về Phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, đảng viên trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị;
+ Có trách nhiệm chỉ đạo việc cung cấp thơng tin, định hướng tun
truyền về Phịng, chống tham nhũng, chủ động thông tin về kết quả kiểm tra, xử
lý các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên sai phạm.
+ Tổ chức triển khai các biện pháp để phòng ngừa tham nhũng tại cơ
quan, tổ chức, đơn vị:
+ Chịu trách nhiệm công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, tổ chức,
đơn vị;
+ Xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
+ Kiểm sốt xung đột lợi ích;
+ Kiểm soát vấn đề tặng quà và nhận quà tặng;
+ Chuyển đổi vị trí cơng tác của người có chức vụ, quyền hạn để phòng
ngừa tham nhũng.


+ Kiểm sốt tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, minh

bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, cơng chức.
3. Một số giải pháp phịng, chống tham nhũng
Trong tình hình kinh tế biến động khơng ngừng, thay đổi nhanh, phức tạp và
khó lường trước, Việt nam ta đã phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong
công tác PCTN, tiêu cực.
- Hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi và phức tạp hơn
- Thách thức từ chủ thể thực hiện hành vi: là những ngừoi có chức vụ,
quyền hạn sử dụng nó để che chắn cho hành vi phạm tội của mình.
- Sự suy thối, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
- Thách thức trong quá trình hội nhập, đổi mới và sự tác động tiêu cực
từ nền kinh tế thị trường ( việc chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài,
hành vi tiếp tay cho hoạt động rửa tiền)
- Chế độ chính sách tiền lương cịn thấp, chưa đảm bảo cho cán bộ,
cơng chức, viên chức đủ sống để “không cần tham nhũng”
Mặc dù phải đối mặt với điều kiện dịch Covid 19 diễn biến phức tạp và những
thách thức lớn, nhưng nhờ sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc, phối hợp nhịp nhàng,
chặt chẽ giữa các cấp uỷ, cơ quan chức năng nên hầu hết các Chương trình cơng
tác của Ban chỉ đạo đã được triển khai thực hiện nghiêm túc và hoành thành
theo kế hoạch. Nhất là việc đồng bộ, hiệu quả cơng tác kiểm tra, thanh tra, kiểm
tốn, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; xử lý nghiêm các hành vi tham
nhũng. Công tác PCTN đã được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả rõ rệt.
Đảng, Nhà nước đã kiên quyết đấu tranh mạnh mẽ, “không ngừng”, “khơng
nghỉ”, khơng vì chống dịch mà khơng xử lí, củng cố niềm tin của Nhân dân
thông qua các giải pháp sau:
- Tập trung phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi tham
nhũng, nhất là thông qua công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; đẩy nhanh tiến độ, xử lý dứt
điểm các vụ tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, nổi cộm, dư luận xã hội
quan tâm theo quan điểm khơng phân biệt người có hành vi phạm tội là
ai.

- Tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao
hơn nữa nhận thức về PCTN, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Nhận thức yếu kém, sai là một trong những nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế, khuyết điểm của công tác PCTN, tiêu cực trong thời
gian qua. Nhận thức đúng đắn về vai trị, tác dụng của cơng tác PCTN,


×