Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

THU HOẠCH một số yêu cầu đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý xã hội của NHà nước TA hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.38 KB, 35 trang )

1

THU HOẠCH-Một số yêu cầu đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý xã hội củA NHà
NƯớC TA hiện nay

Tồn bộ những thành tựu của cơng cuộc đổi mới cũng
như những vấn đề nảy sinh đều có quan hệ trực tiếp đến
hoạt động quản lý của Nhà nước. Bởi lẽ, trong thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước,
nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà
nước và thông qua Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
một bộ phận cốt yếu của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,
thể hiện tập trung nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đất
nước phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa hay chệch
hướng xã hội chủ nghĩa ở mức độ nào đó thì sau sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động quản lý của Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ý nghĩa quyết
định trực tiếp. Do đó, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa


2

trong hoạt động quản lý của Nhà nước ta là nhân tố cơ bản,
có ý nghĩa quyết định trực tiếp để đảm bảo cho đất nước ta
phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, định
hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý của Nhà
nước đòi hỏi phải nắm bắt được những vấn đề sống động
trong thực tế quản lý của Nhà nước về: chính trị, kinh, tế, xã
hội, văn hố…đồng thời cịn phải tiếp tục có những nhận


thức mới, đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội, về định hướng
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh thế giới nhiều biến động đầu
thế kỷ XXI.
Quản lý xã hội theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt
động của bộ máy Nhà nước bao gồm: lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là hoạt động
quản lý của bộ máy hành pháp. Dù ở phạm vi nào thì hoạt
động quản lý Nhà nước cũng mang tính chất chính trị và gắn
với quyền lực Nhà nước trên cả ba phương diện: lập pháp,
hành pháp và tư pháp; đồng thời nó cũng có tính chất nghiệp
vụ - kỹ thuật tổ chức và quản lý hành chính. Song, dù có rất


3

nhiều nguyên tắc quản lý khoa học đã và đang được áp dụng
vào các hoạt động quản lý của Nhà nước, nhất là trong quản
lý hành chính hàng ngày của các cơ quan Nhà nước trong 20
năm đổi mới vừa qua, thì bộ máy Nhà nước nói chung và bộ
máy hành pháp nói riêng, bao giờ cũng phải tuân theo
nguyên tắc hoạt động mang tính chất đặc thù của quyền lực
chính trị ở Việt Nam, mà hạt nhân là quyền lực của giai cấp
công nhân liên minh với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện
nay, trong giai đoạn đang đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước, để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa,
hoạt động quản lý của Nhà nước cần đáp ứng các yêu cầu
cơ bản sau đây:
1. Tiếp tục khẳng định và đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân và quyền lãnh đạo của Đảng

Với tư cách là cơ quan quyền lực trụ cột trong hệ thống
chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước có vai trị
sau:


4

Nhà nước duy trì sự tồn tại và hoạt động năng động tích
cực có hiệu quả hệ thống chính trị bằng một hệ thống đặc
biệt bao gồm sức mạnh chính trị, kinh tế và pháp lý được thể
chế hóa theo nghành và vùng lãnh thổ.
Nhà nước quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật có
tính bắt buộc chung cho toàn bộ lãnh thổ của đất nước.
Nhà nước duy trì và sử dụng những phương pháp nhất
định phù hợp với đối tượng, với mục đích và tình trạng cụ thể
của quản lý, trong đó phương pháp cưỡng chế mang tính đặc
trưng riêng của Nhà nước trong hệ thống chính tri. Phương
pháp cưỡng chế đơn phương từ phía Nhà nước được thực
hiện trên cơ sở hệ thống luật pháp, bộ máy công chức, kể cả
bộ máy công an, quân đội.
Nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống thuế nhằm vào
tất các hoạt động có tính chất kinh doanh trong xã hội và
bằng nguồn lực do Nhà nước sở hữu. Với nguồn lực to lớn
và chủ yếu đó, Nhà nước có thể hỗ trợ đầu tư vào những
lĩnh vực trọng điểm, những khu vực ưu tiên để đảm bảo kết


5

hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ

xã hội vốn là một phương hướng hoạt động trọng tâm của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhưng như thế khơng có nghĩa là Nhà nước là một thể
chế chính trị tối cao của xã hội. Một đặc diểm nổi bật và cơ
bản của quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là làm cho Nhà nước vốn là thể chế chính trị tối cao
của xã hội thành một thể chế hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội.
Cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
là thể chế xã hội then chốt để Nhà nước ta là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Sự thống nhất ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp theo nguyên tắc tập chung dân chủ
trong hoạt động tổ chức của Nhà nước và cơ bản là chế độ
sở hữu công cộng tư liệu sản xuất chủ yếu bảo đảm để Đảng
có thể lãnh đạo một cách thống nhất hệ thống quyền lực Nhà
nước, từ việc hoạch định đường lối, chính sách, xây dựng
luật pháp cho đến điều phối và kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội trong lĩnh vực đối


6

nội và đối ngoại. Cũng trên cơ sở đó, nhân dân mà chủ yếu là
cơng nhân, nơng dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
có thể tham gia vào các cơng việc Nhà nước bằng các hình
thức dân chủ, đại diện hay trực tiếp, bằng các hình thức quản
lý hành chính Nhà nước hay các hình thức quản lý xã hội
thông thường. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ bằng
những hoạt động kiểm tra, giám sát và nhân dân cũng hỗ trợ
cho hoạt động quản lý của Nhà nước.
Quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam của dân, do dân

và vì dân thơng qua sự đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày nay không tách
rời mà hướng vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Trong Nhà nước pháp quyền không chỉ nhân
dân mà cảc bộ máy Nhà nước, bộ máy Đảng, các tổ chức xã
hội cũng đều phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật, nếu ngược
lại, thì quyền dân chủ của nhân dân bị vi phạm, Đảng khó có
thể thực hiện được sự lãnh đạo của mình và Nhà nước cũng
khó có thể thực hiện được chức năng quản lý của mình.


7

Khơng ai, khơng tổ chức nào đứng ngồi pháp luật, hoặc
đứng trên pháp luật. Đó là một mặt của vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác phải thấy rằng, Nhà nước pháp quyền tuy hoạt
động bằng pháp luật nhưng ngồi nội dung pháp luật thì việc
tuân thủ, thực hiện nghiêm túc pháp luật trong xã hội còn tùy
thuộc vào nhiều nội dung khác nữa, như vị trí của các cơng
dân trong Nhà nước, việc đảm bảo thực hiện quyền dân chủ,
và lợi ích hợp pháp của các công dân và các tổ chức xã hội,
vị thế quốc gia trong cơng pháp quốc tế, v.v…Muốn có Nhà
nước pháp quyền thì phải xây dựng được pháp chế và trật tự
pháp luật. Bởi lẽ, pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu cũng
mới là khả năng, là tiền đề cần thiết, là cơ sở pháp lý cho đời
sống xã hội. Có pháp luật chưa chắc đã có pháp chế. Chỉ khi
nào có sự tuân thủ, thực hiện đúng đắn nghiêm chỉnh pháp
luật của các cá nhân và tổ chức thì xã hội mới có pháp chế
và trật tự pháp luật; tức là pháp luật không thể đồng nhất với

pháp chế. Pháp chế thể hiện mối tương quan giữa hoạt động


8

của các chủ thể pháp luật. Nó phụ thuộc nhiều vào ý thức
pháp luật, cách thức thực hiện và bảo vệ pháp luật của các
chủ thể pháp luật (các cơ quan Nhà nước, các tổ chức đảng,
các tổ chức chính trị, kinh tế - xã hội và các công dân,v.v..).
Pháp chế vì thế có quan hệ chặt chẽ với dân chủ, với sự
lãnh đạo của Đảng. Dân chủ là nền tảng củng cố pháp chế.
Ngược lại, pháp chế là điều kiện để bảo vệ, củng cố và phát
triển dân chủ, tức là phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Càng mở rộng dân chủ, thì càng phải tăng cường pháp chế
để đảm bảo trật tự, kỷ cương và công bằng xã hội. Công tác
tăng cường xây dựng pháp chế tuỳ thuộc cơ bản vào sự lãnh
đạo của Đảng, nhất là các cấp uỷ Đảng từ trung ương đến
địa phương, trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, tăng
cường cán bộ có phẩm chất và năng lực cho lĩnh vực pháp
chế, kiểm tra chặt chẽ các hoạt động thực hiện và bảo vệ
pháp luật của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội các
công dân, nhất là cán bộ đảng viên. Để xây dựng được pháp
chế thì ngay từ khâu xây dựng luật cũng đòi hỏi sự lãnh đạo


9

của Đảng sao cho nội dung pháp luật thể hiện đúng ý chí của
nhân dân lao động, có khả năng đảm bảo và bảo vệ chế độ
chính trị - xã hội cũng như các quyền công dân của người lao

động và các quyền hợp pháp của các tổ chức xã hội.
Trong hiến pháp năm 1992 đã quy định, phải tăng cường
pháp chế để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Điều này đòi hỏi phải xây dựng và hồn chỉnh cả ba
mặt: nội dung hình thức và cơ cấu của hệ thống pháp luật.
Đồng thời phải tổ chức thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh các
quy phạm pháp luật của các tổ chức và cơng dân trong tồn
xã hội. Tồn bộ q trình xây dựng pháp luật và pháp chế
khơng đi chệch ý chí của nhân dân lao động, trong đó cơ bản
là ý chí của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và tầng lớp
trí thức. ý chí đó thể hiện tập trung và sáng rõ nhất trong
cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của
dân do dân và vì dân phải chịu chế ước về chính trị, cụ thể
là dân chủ chính trị của giai cấp công nhân, giai cấp nông


10

dân, tầng lớp trí thức, của tất cả những người lao động và
sự lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quyền
làm chủ của nhân dân lao động và sự lãnh đạo của Đảng tất
nhiên gắn liền với nghĩa vụ tuân thủ và thực hiện hiến pháp,
pháp luật. Dân chủ chính trị và sự lãnh đạo chính trị của
Đảng đảm bảo môi trường và định hướng trị cho Nhà nước
pháp quyền, nhất là trong giai đoạn khởi đầu xây dựng nền
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chính trị của định hướng xã hội chủ nghĩa chính
là thực hiện và bảo đảo quyền lực chính trị, trong đó cơ bản
là quyền lực Nhà nước, quyền lực này là sự thể hiện tập

trung và cơ bản quyền lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ
của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Sự
chế ước về mặt chính trị của định hướng xã hội chủ nghĩa đối
với hoạt động quản lý của Nhà nước là nhằm khẳng định và
đảm bảo quyền lược chính trị của Đảng, của giai cấp cơng
nhân và tồn thể nhân dân lao động.
2. Xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa


11

Nội dung cơ bản và trước tiên của định hướng xã hội chủ
nghĩa là quyền lực Nhà nước nói riêng và quyền lực chính trị
nói chung phải thuộc về nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng đó chỉ là một nội dung
chính trị và nó chỉ có ý nghĩa nếu trên cơ sở đó thực hiện các
nội dung kinh tế, xã hội và văn hoá của định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhằm từng bước hình thành được xã hội xã hội
chủ nghĩa mà ở mức độ nhận thức hiện nay của chúng ta đó
là: dân giầu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh. Việc sử dụng phát huy quyền lực chính trị để xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải nắm vững và xử lý thành
công nội dung và u cầu của chính trị. Theo V.I.Lênin đó là:
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế cơ đọng
lại. Chính trị là quan hệ xã hội giữa các giai cấp thể hiện tập
chung ở Nhà nước. Chính trị là tham gia các cơng việc Nhà
nước cả về mặt đối nội và đối ngoại. Chính trị vừa là khoa
học vừa là nghệ thuật. Nghĩa là không thể và khơng được
phép coi chính trị thơ thiển là âm mưu và thủ đoạn, mà phải



12

coi trọng q trình xây dựng văn hố chính trị tương ứng với
yêu cầu xây dựng một xã hội tốt đep, một xã hội văn hoá xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Quản lý Nhà nước đối với quá trình xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế có sự tác động của tồn cầu hóa và cách mạng khoa
học cơng nghệ theo tinh thần của Lênin do đó sẽ phải quyết
những vấn đề sau:
A, Về kinh tế
Tại một nước cịn ở tình trạng kém phát triển như Việt
Nam đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ lượng lượng sản xuất
đồng thời phải từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới xã
hội chủ nghĩa.Phải nói rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường
hội nhập quốc tế có sự tác động của tồn cầu hố và cách
mạng khoa học cơng nghệ có nhiều điều kiện để phát triển
manh mẽ lực lượng sản xuất; đồng thời cũng đặt ra nhiều
vấn đề khó khăn. phức tạp cho quá trình xây dựng quan hệ
sản xuât mới xã hội chủ nghĩa. Hiện nay và trong thời gian rất


13

dài nữa, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa phải dược
xây dựng cả ba mối quan hệ chủ yếu sau: Quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức quản lý và trao đổi
hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm.
Tính chất xã hội chủ nghĩa trong quan hệ sản xuất mới

phải được thể hiện ở vai trò chủ đạo của sở hữu cơng cộng
hay sở hữu xã hội, trong đó cơ bản là sở hữu Nhà nước; ở tổ
chức quản lý vĩ mô của nền kinh tế bởi Nhà nước xã hội chủ
nghĩa và sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của đa số người
lao động vào quá trình tổ chức, quản lý sản xuất kinh tế, nhất
là ở cơ sở; ở quan hệ phân phối theo lao động và phúc lợi xã
hội, đóng vai trị chủ đạo trong xã hội, nhân dân lao động
ngày càng được làm chủ nhiều hơn về kinh tế.
Hiện nay, khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân
và khu vực kinh tế nước ngồi sẽ cịn đóng vai trị lớn trong
tương quan các thành phần kinh tế. Giá trị đóng góp vào
GDP của các khu vực này sẽ lớn hơn và cùng với việc thu
hút được việc làm trong xã hội, chúng sẽ gây áp lực lớn vào


14

đời sống chính trị, xã hội…của đất nước. Do đó, quá trình xây
dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng
khó khăn hơn, phức tạp hơn.
Trong tình hình như vậy, u cầu chính trị đối với quản lý
Nhà nước là ngay từ đầu và trong suốt giai đoạn cơng nghiệp
hố, hiện đại hố cùng với việc tăng cường đầu tư của khu
vực tư nhân, khu vực kinh tế nước ngoài, Nhà nước phải
phát triển mạnh mẽ kinh tế cổ phần ở ngay trong khu vực này
đồng thời thúc đẩy sự phát triển của kinh tế Nhà nước, kinh
tế hợp tác và kinh tế tư bản Nhà nước. Quản lý Nhà nước đối
với các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu, đối với các
hình thức đa dạng của tổ chức, quản lý và phân phối, rõ ràng
là không đơn giản. Hơn thế nữa, cần phải giữ vững định

hướng chính trị, đẩy mạnh các hình thức kinh tế cổ phần và
chuyển hoá chúng sang con đường xã hội chủ nghĩa trên cả
ba phương diện: sở hữu, quản lý, phân phối. Yêu cầu này
không chỉ dừng lại ở việc khẳng định quyền lực chính trị, mà
chủ yếu ở việc xác lập các tính chất và nội dung xã hội chủ


15

nghĩa trong quan hệ sản xuất cũng như lực lượng sản xuất
của xã hội, v. v..
B, Về quan hệ giữa các giai tầng xã hội
Trong điều kiện phân hóa, phân tầng xã hội do tác động
của kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước đối với các giai tầng
xã hội khơng chỉ cịn ở phạm vi giai cấp cơng nhân, giai cấp
nơng dân và tầng lớp trí thức, mà đối với tiểu chủ và các Nhà
doanh nghiệp, chủ trang trại. Riêng số lượng các Nhà doanh
nghiệp, chủ trang trại hiện khơng phải là nhỏ. Từ khi có luật
doanh nghiệp, đã có khoảng vài chục nghìn cơng ty trách
nhiệm hữu hạn đăng ký kinh doanh. Số doanh nghiệp dân
doanh hạch toán kinh tế độc lập hiện nay có khoảng 50 nghìn
doanh nghiệp. Ngồi ra, cịn khoảng vài chục nghìn chủ trang
trại.
Trong nội bộ mỗi giai tầng xã hội cũng có sự phân hóa,
phân tầng xã hội. Trong giai cấp cơng nhân có: cơng nhân cổ
phần, cơng nhân biên chế Nhà nước, công nhân hợp đồng
theo thời gian, theo công việc tại tất cả các thành phần kinh


16


tế…Ngồi ra, cịn những người làm th ở nơng thơn, đơ thị
khơng thuộc giai cấp cơng nhân. Tình hình cũng diễn ra gần
như vậy trong giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Thơng
thường thì phân hóa giai tầng trong xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường sẽ dẫn đến phân hóa giai cấp. Nếu để xu
hướng này trở thành hiện thực thì cũng đồng nghĩa với việc
làm phương hại đến nền tảng xã hội - giai cấp của con
đường phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tế hiện nay đang nổi lên vấn đề tác động đến quan
hệ giữa các giai tầng trong xã hội và trong nội bộ mỗi giai
tầng xã hội như: Nạn tham nhũng, bn lậu, lãng phí của
cơng, các hiện tượng tiêu cực trong q trình cơng tác của
một số cán bộ trong bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã
hội và doanh nghiệp Nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực như,
nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, các hoạt
động thi hành pháp luật, huy động sự đóng góp của dân…
Vấn đề việc làm, thu nhập, phân hóa giàu nghèo, đời sống
của đồng bào các dân tộc ít người, khu căn cứ cách mạng và


17

kháng chiến cũ cịn rất nhiều khó khăn. Vấn đề học tập, chữa
bệnh của người nghèo. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm
môi trường sinh thái, sự hủy hoại tài nguyên thiên nhiên ngày
càng gia tăng. Sự suy thoái về đạo đức lối sống của một số
cán bộ đảng viên. Sự thâm nhập của các sách báo, văn hoá
phẩm phi xã hội chủ nghĩa, đầu độc đến tinh thần và tình cảm
của con người Việt Nam ta. Những hoạt động lợi dụng tự do

tín ngưỡng- tơn giáo của một số phần tử phản động. Tệ nạn
xã hội và tội phạm xã hội gia tăng nhiều như ma tuý, mại
dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em…
Do nhiều nguyên nhân, ở một số tỉnh thành phố đã phát
sinh “điểm nóng” và nhiều vụ kiện tụng đông người. Những
vấn đề trên, phản ánh mức độ phức tạp của các quan hệ xã
hội giữa các giai tầng xã hội cùng với quá trình phát triển của
kinh tế thị trường. Hiện nay, quá trình cổ phần hố, phát triển
của kinh tế trang trại và phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở
mức độ khác nhau đã và đang dẫn đến quá trình tập trung và
tích tụ tư liệu sản xuất. Về mặt kinh tế, đó là q trình tập


18

trung và tích tụ sản xuất đồng thời qua đó thúc đẩy phân
công và hợp tác lao động. Song, về mặt xã hội khơng tránh
khỏi tình trạng tăng số lượng người làm công, làm thuê ở đô
thị và nông thôn.
Xu hướng tích tụ, tập trung ruộng đất vào những hộ làm
ăn giỏi, đồng thời số hộ khơng có đất hoặc ít đất chuyển sang
hoạt động phi nông nghiệp hoặc làm công, làm thuê, kể cả
làm thuê trong nông nghiệp đang là một thực tế tại nhiều địa
phương trong nước.
Do đó, trong q trình điều hịa quan hệ xã hội giữa các
giai tầng xã hội, công tác quản lý Nhà nước cần phải thực
hiện được nhiệm vụ chính trị - xã hội rất quan trọng là: củng
cố khối liên minh công - nơng - trí thức, trên cơ sở đó củng cố
và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, để đảm bảo nền
tảng xã hội - giai cấp vững chắc của sự phát triển đất nước

đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
C,Về sự tham gia của nhân dân lao động vào các công
việc của Nhà nước


19

Trong q trình đổi mới, nhân dân có nhiều điều kiện
tham gia vào các công việc Nhà nước bằng các hình thức
dân chủ đại diện trong bầu cử, ứng cử. Hoạt động của các cơ
quan dân cử và các tổ chức chính trị - xã hội đã lơi cuốn sự
tích cực của đông đảo của nhân dân. Bước đầu nhân dân
thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở như trực tiếp bầu
trưởng thôn, trực tiếp tham gia giải quyết các công việc kinh
tế - xã hội ở làng xóm, cụm dân cư …Nhân dân cũng có khả
năng trực tiếp tham gia vào xây dựng đường lối, chính sách
và luật pháp. Chẳng hạn như đợt tham gia ý kiến đóng góp
vào các văn kiện của đại hội X của Đảng vừa qua là một ví
dụ.
Đổi mới các hoạt động quản lý Nhà nước đã được tiến
hành trong quá trình từng bước đổi mới hệ thống chính trị
trên cơ sở xử lý đúng đắn mối quan hệ khăng khít giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đã từng bước hình thành
được các quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; đồng


20

thời xác định đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ luật,

kỷ cương; quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiện cơng dân;
dân chủ có sự lãnh đạo của Đảng.
Những tiến bộ bước đầu được trình bầy trên đây đã tạo
được nền tảng cho đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững quốc phòng, an ninh. Bản chất giai cấp cơng nhân, tính
dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước được giữ vững và củng
cố. Đây là cơ sở thuận lợi để nhân dân lao động tham gia vào
các công việc Nhà nước. Nhưng hiện nay trong q trình
tham gia vào các cơng việc Nhà nước của nhân dân lao động
đang nổi lên một số vấn đề đó là:
Bộ máy Nhà nước chưa thật vững mạnh; tình trạng tham
nhũng, lãng phí quan liêu, cịn nghiêm trọng nhưng chưa
được ngăn chặn triệt để; hiệu lực quản lý, diều hành của Nhà
nước chưa cao, kỷ cương xã hội chưa nghiêm, làm giảm sút
niềm tin của nhân dân lao động.
Tổ chức bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh về quy mô, về
tổ chức biên chế; sự phân công, phối hợp giữa ba quyền: lập


21

pháp, hành pháp và tư pháp cịn có những điểm chưa rõ về
chức năng, nhiệm vụ; mối quan hệ phân cấp Trung ương địa phương còn một số mặt chưa cụ thể; tình trạng tập trung
quan liêu cũng như tình trạng phân tán, cục bộ chưa được
khắc phục.
Sự lãnh đạo của Đảng có mặt chưa đáp ứng được với
yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà
nước cũng như yêu cầu phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động.
Để nhân dân lao động, trước hết là giai cấp công nhân,

giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức tham gia ngày càng
tích cực hơn vào việc bảo vệ, giữ vững độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do
dân và vì dân địi hỏi quản lý Nhà nước phải đảm bảo và phát
huy được quyền làm chủ của quảng đại nhân dân.
3. Đổi mới quản lý Nhà nước
Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII) năm 1995 xác định
ba yêu cầu đối với quản lý Nhà nước là: “Phục vụ và thúc đẩy


22

sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bài trừ quan liêu,
tham nhũng; nâng cao chất lượng năng lực, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước”1.
Nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đặt
ra yêu cầu chính trị, mà cả các yêu cầu kinh tế, pháp quyền…
đối với quản lý Nhà nước. Nhưng dù mức độ thế nào thì bản
chất của quản lý Nhà nước trước sau vẫn là phục vụ chính
trị; bảo đảm định hướng chính trị của q trình phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa. Nếu làm sai lệch sẽ làm lu mơ
bản chất đó, sẽ tạo ra nguy cơ “chệch hướng” trong quản lý
Nhà nước, ở đây đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự tham gia
tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội và xây dựng một
Nhà nước mạnh của dân, do dân và vì dân. Quản lý Nhà
nước cịn có sự địi hỏi phải nắm vững nghệ thuật chính trị và
khoa học chính trị; đó là phải xây dựng được văn hố chính

1


.Văn kiện hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khốVII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995.


23

trị tương ứng với yêu cầu ngày càng cao của quá trình xây
dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Những yêu cầu mới của quản lý Nhà nước, xuất hiện từ
yêu cầu của công cuộc công nghiệp hố, hiện đại hố, từ
những yếu kém, thiếu sót trong công tác quản lý Nhà nước
đồng thời chúng cũng nảy sinh trong bối cảnh mới của tình
hình trong nước và quốc tế. Từ Đại hội VIII (1996) Đảng ta đã
khẳng định: “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời
kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản
hồn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước” 2 Trong mỗi tiến của
cách mạng lại xuất hiện những điều kiện mới, yêu cầu mới,
nội dung mới của định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng từ
những bối cảnh mới đó của con đường phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa công tác quản lý Nhà nước nếu
không đáp ứng được những yêu cầu mới sẽ không thể hiện
đúng vai trị trụ cột của hệ thống chính trị là công cụ chủ yếu
2

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr. 67-68.



24

để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lịch sử đã
chỉ ra về sự không tương dung giữa quản lý Nhà nước với
bước ngoặt chuyển biến từ điều kiện chiến tranh sang điều
kiện hồ bình vào nửa sau thập kỷ 70 của thế kỷ XX không
cho phép lặp lại trong bước chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hố, hiện đại hố có sự tác động tồn cầu hóa
như hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần quán triệt
các vấn đề sau, trong q trình kiện tồn cơng tác quản lý
Nhà nước, nhằm đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa:
Một là, xây dựng Nhà nước mang bản chất giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích chung tồn thể các dân tộc và toàn
thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Đây là quan điểm nêu rõ bản chất giai cấp công nhân của
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong mối


25

quan hệ thống nhất với tính dân tộc, tính nhân dân và được
thể hiện trên những quan điểm cơ bản sau:
Từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến tổ chức và hoạt
động Nhà nước đều quán triệt hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm, chính sách của đảng, của giai cấp

công nhân, nhằm xây dựng thành công xã hội xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong quá trình
hội nhập với thế giới dưới tác động của tồn cầu hóa.

Nhà nước được xây dựng trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Do lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là thống nhất nên bản chất giai cấp công nhân của Nhà
nước đồng thời cũng thể hiện ở sự gắn bó chặt chẽ với tính
nhân dân, tính dân tộc. Tính nhân dân của Nhà nước ta thể
hiện ở chỗ: chính quyền Nhà nước và quyền lực nói chung


×