Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội thực trạng và giải pháp phát triển.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.61 KB, 98 trang )

Mở ĐầU
Giao nhn v vn ti hng húa l yờu cầu tất yếu của trao đổi, mua bán
hàng hóa, nó là một khâu khơng thể thiếu được trong q trình lưu thơng,
nhằm đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Trong kinh doanh
ngoại thương, giao nhận và vận tải hàng hóa càng có vai trị quan trọng, nó
ảnh hưởng tới phạm vi mặt hàng, khối lượng và kim ngạch buôn bán của các
quốc gia, cũng như của các doanh nghiệp. Trước kia, giao nhận có thể do
người kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà vận tải tiến hành. Khi vận tải và bn
bán quốc tế phát triển, địi hỏi sự phân cơng lao động và chun mơn hóa
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, vận tải, giao nhận. Kết quả là giao nhận tách
khỏi xuất nhập khẩu và vận tải, sinh ra các tổ chức giao nhận chuyên nghiệp,
phục vụ vận tải và buôn bán quốc tế. Các tổ chức này hình thành dưới dạng
các hãng, cơng ty.
Đối với nước ta hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, cùng với sự tác động của q trình tồn cầu hóa, tự do hóa thương mại
quốc tế, việc phát triển các hoạt động giao nhận vận tải quốc tế có một ý
nghĩa hết sức quan trọng, góp phần làm cho kinh tế đất nước phát triển nhanh
mạnh hòa nhịp cùng xu thế phát triển của thời đại.
Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải, Công ty
Kho vận miền Nam - SOTRANS đã có mặt trên thị trường này từ khi nó còn
là một lĩnh vực khá mới mẻ đối với Việt Nam. Qua một thời kỳ dài trưởng
thành và phát triển, SOTRANS đã khẳng định được vị thế của mình, nâng
thương hiệu SOTRANS lên tầm quốc tế. Sau một thời gian thực tập tại
SOTRANS Hà Nội, nhận thấy vai trò của hoạt động giao nhận hàng hóa là
đặc biệt quan trọng trong hoạt động ngoại thương nên em quyết định chọn đề
1


tài: "Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi
nhánh Cơng ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội: thực trạng và giải
pháp phát triển". Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến thực


trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế của
SOTRANS Hà Nội giai đoạn 2000 - 2004, với mục đích đề xuất các kiến
nghị và giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận
hàng hóa quốc tế nói riêng và phát triển hoạt động kinh doanh nói chung cho
Chi nhánh.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên sự tổng hợp, phân tích và đánh giá các
số liệu về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa
quốc tế
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng
hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam SOTRANS Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động
kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi
nhánh Cơng ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội

2


CHƯƠNG I
Lý LUậN chung Về kinh DOANH DịCH Vụ GIAO NHËN
HµNG HãA QC TÕ
I. DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HĨA QUỐC TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM
1. Dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
1.1. Khái niệm về dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Đặc điểm của bn bán quốc tế là người mua và người bán ở những
nước khác nhau. Sau khi hợp đồng mua bán được ký kết, người bán thực hiện
việc giao hàng, tức là hàng hóa được vận chuyển từ người bán sang người
mua. Để cho q trình vận chuyển đó được bắt đầu - tiếp tục - kết thúc, tức là

hàng hóa đến tay người mua, cần phải thực hiện hàng loạt các cơng việc khác
liên quan đến q trình chun chở như bao bì, đóng gói, lưu kho, đưa hàng
ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, vận tải hàng hóa đến cảng
đích, dỡ hàng ra khỏi tàu và giao cho người nhận hàng… Những cơng việc
đó được gọi là giao nhận vận tải hàng hóa.
Theo quy tắc mẫu của Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận
(FIATA) về dịch vụ giao nhận, dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là bất
kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp,
đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên
quan đến các dịch vụ trên, kể cả vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm,
thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Theo Luật Thương mại Việt Nam "Dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành
vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ
người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và
3


các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự ủy thác
của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác
(gọi chung là các khách hàng)".
Như vậy, giao nhận hàng hóa quốc tế là tập hợp những nghiệp vụ, thủ
tục có liên quan đến q trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng
hóa từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng (giữa hai quốc gia khác nhau).
1.2. Phạm vi của dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Trừ phi chính người gửi hàng hoặc người nhận hàng muốn trực tiếp
tham gia vào bất cứ khâu thủ tục hoặc chứng từ nào, cịn thơng thường người
giao nhận thay mặt chủ hàng lo liệu quá trình vận chuyển qua các giai đoạn
khác nhau. Người giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách trực tiếp hoặc
thông qua đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba khác. Dịch vụ giao nhận
hàng hóa quốc tế bao gồm bốn loại thông dụng trên thế giới hiện nay là:

1.2.1. Loại dịch vụ thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu)
Theo những chỉ dẫn của người gửi hàng, người giao nhận sẽ thực hiện
các nhiệm vụ sau đây:
- Chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người chuyên chở thích hợp.
- Lưu cước với người chuyên chở đã chọn.
- Nhận hàng và cung cấp những chứng từ thích hợp như: giấy chứng nhận
hàng của người giao nhận, giấy chứng nhận chuyên chở của người giao
nhận…
- Nghiên cứu những điều khoản trong tín dụng thư và tất cả những luật
lệ của Chính phủ áp dụng vào việc giao hàng ở nước xuất khẩu, nước
nhập khẩu cũng như ở bất kỳ nước quá cảnh nào, và chuẩn bị tất cả
những chứng từ cần thiết.
- Đóng gói hàng hóa (trừ phi việc này do người gửi hàng làm trước khi
giao hàng cho người giao nhận) có tính đến tuyến đường, phương thức vận

4


tải, bản chất của hàng hóa và những luật lệ áp dụng nếu có ở nước xuất khẩu,
nước quá cảnh và nước gửi hàng đến.
- Lo liệu việc lưu kho hàng hóa nếu cần.
- Cân, đo hàng hóa.
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa nếu người gửi hàng yêu cầu.
- Vận tải hàng hóa đến cảng, thực hiện việc khai báo hải quan, các thủ tục
chứng từ liên quan và giao hàng cho người chuyên chở.
- Thực hiện việc giao dịch ngoại hối, nếu có.
- Thanh tốn phí và những chi phí khác bao gồm cả tiền cước.
- Nhận vận đơn đã ký của người chuyên chở giao cho người gửi hàng.
- Thu xếp việc chuyển tải trên đường nếu cần thiết.
- Giám sát việc vận tải hàng hóa trên đường gửi tới người nhận hàng

thông qua những mối liên hệ với người chuyên chở và đại lý của người giao
nhận ở nước ngoài.
- Ghi nhận những tổn thất của hàng hóa, nếu có.
- Giúp đỡ người gửi hàng tiến hành khiếu nại với người chuyên chở về tổn
thất hàng hóa, nếu có.
1.2.2. Loại dịch vụ thay mặt người nhận hàng (người nhập khẩu)
Theo những chỉ dẫn giao hàng của khách hàng, người giao nhận sẽ:
- Thay mặt người nhận hàng giám sát việc vận tải hàng hóa khi người
nhận hàng lo liệu vận tải hàng hóa.
- Nhận và kiểm tra tất cả những chứng từ liên quan đến việc vận
chuyển hàng hóa…
- Nhận hàng của người chuyên chở và nếu cần thì thanh tốn cước.
- Thu xếp việc khai báo hải quan và trả lệ phí, thuế và những phí khác cho
Hải quan và những cơ quan khác.
- Thu xếp việc lưu kho quá cảnh nếu cần.
- Giao hàng đã làm thủ tục hải quan cho người nhận hàng.

5


- Giúp đỡ người nhận hàng tiến hành khiếu nại đối với người chuyên chở
về tổn thất hàng hóa nếu cần.
- Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối nếu cần.
1.2.3. Dịch vụ giao nhận hàng hóa đặc biệt
Người giao nhận thường thực hiện việc giao nhận hàng bách hóa bao
gồm nhiều loại thành phẩm, bán thành phẩm, hay hàng sơ chế và những hàng
hóa khác giao lưu trong bn bán quốc tế. Ngồi ra tùy theo yêu cầu của
khách hàng, người giao nhận cũng có thể làm những dịch vụ khác có liên
quan đến các loại dịch vụ hàng hóa đặc biệt như:
-


Vận chuyển hàng cơng trình

Việc này chủ yếu là vận chuyển máy móc nặng, thiết bị... để xây dựng
những cơng trình lớn như sân bay, nhà máy hóa chất, nhà máy thủy điện, cơ
sở lọc dầu... từ nơi sản xuất đến công trường xây dựng. Việc di chuyển những
hàng hóa này cần phải có kế hoạch cẩn thận để đảm bảo giao hàng đúng thời
hạn và có thể cần phải sử dụng cần cẩu loại nặng, xe vận tải ngoại cỡ, tàu chở
hàng loại đặc biệt... Đây là một lĩnh vực chun mơn hóa của người giao
nhận.
- Dịch vụ về vận chuyển quần áo treo trên mắc
Những quần áo may mặc được chuyên chở bằng những chiếc mắc áo
treo trên giá trong những container đặc biệt, và ở nơi đến được chuyển trực
tiếp từ container vào cửa hàng để bày bán. Cách này loại bỏ được việc phải
chế biến lại quần áo nếu đóng nhồi trong container và đồng thời tránh
được ẩm ướt, bụi bẩn…
- Triển lãm ở nước ngoài
Người giao nhận thường được người tổ chức triển lãm giao cho việc
chuyên chở hàng đến nơi triển lãm ở nước ngoài. Người giao nhận phải tuân
thủ những chỉ dẫn đặc biệt của người tổ chức triển lãm về phương thức

6


chuyên chở được sử dụng, về nơi cụ thể làm thủ tục hải quan ở nước đến khi
giao hàng triển lãm, về những chứng từ cần lập…
1.2.4. Dịch vụ khác
Ngoài những dịch vụ nêu trên, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng,
người giao nhận cũng có thể làm những dịch vụ khác phát sinh trong quá
trình chuyên chở và cả những dịch vụ đặc biệt như gom hàng, có liên quan

đến hàng cơng trình, các dự án chìa khóa trao tay…
Người giao nhận cũng có thể thơng báo cho khách hàng của mình về nhu
cầu tiêu dùng, những thị trường mới, tình hình cạnh tranh, chiến lược xuất
khẩu, những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng mua bán ngoại
thương và nói chung là tất cả những vấn đề liên quan đến công việc kinh
doanh của khách hàng.
2. Người giao nhận hàng hóa trong thương mại quốc tế
2.1. Khái niệm về người giao nhận hàng hóa quốc tế
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là "Người giao nhận - Freight
Forwader". Người giao nhận có thể là:
- Chủ hàng.
- Chủ tàu.
- Công ty xếp dỡ hay kho hàng.
- Người giao nhận chuyên nghiệp.
- Bất kỳ một người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận
hàng hóa. Theo Luật Thương mại Việt Nam thì đó là thương nhân có giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất được quốc tế chấp nhận về
thuật ngữ "Người giao nhận". Ở nhiều nước khác nhau người kinh doanh giao
nhận được gọi tên khác nhau như: Đại lý hải quan, Mơi giới hải quan, Đại lý
thanh tốn, Đại lý gửi hàng và giao nhận, Người chuyên chở chính... Nhưng tất
cả đều mang một tên chung trong giao dịch quốc tế là "Người giao nhận hàng
7


hóa quốc tế" (International Freight Forwarder) mà nhiệm vụ chủ yếu của người
giao nhận là bán dịch vụ giao nhận.
Đặc biệt trong những năm gần đây, người giao nhận thường cung cấp
dịch vụ VTĐPT, đóng vai trị là người kinh doanh VTĐPT (MTO) và phát
hành cả vận đơn vận tải.

Doanh nghiệp giao nhận là doanh nghiệp kinh doanh các loại dịch vụ
giao nhận hàng hóa trong xã hội. Sản phẩm của doanh nghiệp giao nhận
chính là các dịch vụ trong giao nhận mà doanh nghiệp giao nhận đóng vai trị
người giao nhận.
2.2. Vai trị của người giao nhận hàng hóa trong thương mại quốc tế
Trước đây, người giao nhận chỉ làm đại lý thực hiện một số công việc do
các nhà xuất nhập khẩu ủy thác như xếp dỡ, lưu kho hàng hóa, làm thủ tục
giấy tờ, lo liệu vận tải nội địa, thủ tục thanh toán tiền hàng... Song cùng với
sự phát triển của thương mại quốc tế và tiến bộ kỹ thuật trong ngành vận tải
mà dịch vụ giao nhận cũng được mở rộng hơn. Ngày nay người giao nhận
đóng vai trị rất quan trọng trong thương mại và vận tải quốc tế. Người giao
nhận không chỉ làm đại lý, người nhận ủy thác mà còn cung cấp các dịch vụ
trọn gói về tồn bộ q trình vận tải, phân phối hàng hóa và đóng vai trị như
một bên chính - Người chun chở. Vai trị này thể hiện qua các chức năng
sau đây:
2.2.1. Môi giới hải quan/ Người giao nhận tại biên giới
Thuở ban đầu, người giao nhận chỉ hoạt động ở trong nước với nhiệm vụ
là làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu. Sau đó, mở rộng hoạt động
phục vụ cả hàng xuất khẩu và dành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc
lưu cước với các hãng tàu theo sự ủy thác của người xuất khẩu hoặc người
nhập khẩu tùy thuộc vào quy định của hợp đồng mua bán. Trên cơ sở được
Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt người xuất khẩu, người nhập
khẩu để khai báo, làm thủ tục hải quan hay môi giới hải quan.

8


2.2.2. Làm đại lý
Trước đây, người giao nhận không đảm nhận trách nhiệm của người
chuyên chở, mà chỉ hoạt động như một cầu nối giữa người gửi hàng và người

chuyên chở như một đại lý của người chuyên chở hoặc của người gửi hàng.
Người giao nhận nhận ủy thác từ chủ hàng hoặc từ người chuyên chở để thực
hiện các công việc khác nhau như nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm
thủ tục hải quan, lưu kho… trên cơ sở hợp đồng ủy thác.
Người giao nhận khi là đại lý:
- Nhận ủy thác từ người chủ hàng để lo những cơng việc giao nhận hàng
hóa xuất nhập khẩu, làm việc để bảo vệ lợi ích của chủ hàng, làm trung gian
giữa người gửi hàng với người vận tải, người vận tải với người nhận hàng,
người bán với người mua.
- Hưởng hoa hồng và không chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hóa,
chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình chứ khơng chịu trách nhiệm về
hành vi của người làm thuê cho mình hoặc cho chủ hàng.
2.2.3. Lo liệu chuyển tải và tiếp gửi hàng hóa
Khi hàng hóa phải chuyển tải hoặc quá cảnh qua nước thứ ba, người
giao nhận sẽ lo liệu thủ tục quá cảnh hoặc tổ chức chuyển tải hàng hóa từ
phương tiện vận tải này sang phương tiện vận tải khác, hoặc giao hàng đến
tay người nhận.
2.2.4. Lưu kho hàng hóa
Trong trường hợp phải lưu kho hàng hóa trước khi xuất khẩu hoặc sau
khi nhập khẩu, người giao nhận sẽ lo liệu việc đó bằng phương tiện của mình
hoặc thuê người khác và phân phối hàng hóa nếu có yêu cầu.
2.2.5. Người gom hàng
Dịch vụ này đã xuất hiện rất sớm ở châu Âu chủ yếu phục vụ cho vận tải
đường sắt. Đặc biệt trong vận tải hàng hóa bằng container, dịch vụ gom hàng
là không thể thiếu nhằm biến hàng lẻ (LCL) thành hàng nguyên container
9


(FCL) để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải. Khi là
người gom hàng, người giao nhận có thể đóng vai trị là người chun chở

hoặc chỉ là đại lý.
2.2.6. Người chuyên chở
Trong nhiều trường hợp, người giao nhận đóng vai trị là người chun
chở, tức là người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải với chủ hàng và
chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng.
Người giao nhận đóng vai trị là người thầu chun chở (Contracting Carrier)
nếu anh ta ký hợp đồng mà không trực tiếp chuyên chở. Nếu người giao nhận
trực tiếp chuyên chở thì anh ta là người chuyên chở thực tế (Performing
Carrier). Dù là người chuyên chở gì thì vẫn chịu trách nhiệm về hàng hóa.
Trong trường hợp này, người giao nhận phải chịu trách nhiệm về hàng hóa
trong suốt hành trình khơng những về hành vi lỗi lầm của mình mà cả những
người anh ta sử dụng và có thể phát hành vận đơn.
2.2.7. Người kinh doanh vận tải đa phương thức ( MTO/CTO)
Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hay
còn gọi là "Vận tải từ cửa đến cửa" thì người giao nhận đã đóng vai trò là
người kinh doanh VTĐPT. MTO thực chất là người chuyên chở, thường là
chuyên chở theo hợp đồng và phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa.
Với nhiều chức năng như vậy, người giao nhận thường được coi là
"Kiến trúc sư của vận tải" vì người giao nhận có khả năng tổ chức quá trình
vận tải một cách tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất.
3. Các tổ chức giao nhận quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam
3.1. Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận - FIATA
Ngay từ năm 1552, hãng giao nhận đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện ở
Badiley, Thụy Sĩ, với tên gọi E. Vansai. Hãng này kinh doanh cả vận tải, giao
nhận và thu phí giao nhận rất cao, khoảng 1/3 giá trị của hàng hóa.

10


Cùng với sự phát triển của vận tải và buôn bán quốc tế, giao nhận được

tách khỏi vận tải và buôn bán, dần trở thành một nghành kinh doanh độc lập.
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty giao nhận dẫn đến sự ra đời các Hiệp
hội giao nhận trong phạm vi một cảng, một khu vực hay một nước. Trên
phạm vi quốc tế hình thành các Liên đồn giao nhận như: Liên đoàn những
người giao nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ… đặc biệt là "Liên đoàn quốc tế các hiệp
hội giao nhận", gọi tắt là FIATA.
Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA), thành lập năm 1926
là một tổ chức giao nhận, vận tải lớn nhất thế giới. FIATA là một tổ chức phi
chính trị, tự nguyện, là đại diện của 35.000 công ty giao nhận ở 130 quốc gia
trên thế giới. Thành viên của FIATA là các hội viên chính thức và hội viên
hợp tác. Hội viên chính thức là Liên đồn giao nhận của các nước, cịn hội
viên hợp tác là các cơng ty giao nhận riêng lẻ.
FIATA được sự thừa nhận của các cơ quan thuộc Liên hợp quốc như:
Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC), Hội nghị của Liên hợp
quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), Ủy ban châu Âu của Liên hợp
quốc (ECE) và ESCAP…
FIATA cũng được các tổ chức liên quan đến buôn bán và vận tải như:
Phòng thương mại quốc tế, Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (IATA),
các tổ chức của người chuyên chở và chủ hàng thừa nhận.
Mục tiêu chính của FIATA là bảo vệ và tăng cường lợi ích của người
giao nhận trên phạm vi quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận, liên
kết nghề nghiệp, tuyên truyền dịch vụ giao nhận vận tải, xúc tiến quá trình
đơn giản hóa và thống nhất chứng từ và các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn
nhằm cải tiến chất lượng dịch vụ của hội viên, đào tạo nghiệp vụ ở trình độ
quốc tế, tăng cường các quan hệ phối hợp giữa các tổ chức giao nhận với chủ
hàng và người chuyên chở. Phạm vi hoạt động của FIATA rất rộng, thông
qua hoạt động của hàng loạt Tiểu ban:
- Tiểu ban về các quan hệ xã hội.
11



- Tiểu ban nghiên cứu về kỹ thuật vận chuyển đường ô tô, đường sắt,
đường hàng không…
- Ủy ban về vận chuyển đường biển và vận tải đa phương thức.
- Tiểu ban luật pháp, chứng từ và bảo hiểm.
- Tiểu ban về đào tạo nghề nghiệp.
- Ủy ban về đơn giản hóa thủ tục bn bán.
- Tiểu ban về hải quan.
Hiện nay nhiều công ty giao nhận của Việt Nam đã trở thành hội viên
hợp tác của FIATA.
3.2. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam - VIFFAS
Những năm 60 thế kỷ XX, các tổ chức giao nhận quốc tế ở Việt Nam
mang tính chất phân tán. Các đơn vị xuất nhập khẩu tự đảm nhận việc tổ
chức chuyên chở hàng hóa của mình, vì vậy các cơng ty xuất nhập khẩu đã
thành lập riêng phòng kho vận, chi nhánh xuất nhập khẩu, trạm giao nhận ở
các cảng, ga đường sắt liên vận.
Để tập trung đầu mối quản lý, chuyên mơn hóa khâu vận tải, giao nhận,
năm 1970 Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) đã thành lập hai tổ chức
giao nhận:
- Cục Kho vận kiêm Tổng công ty giao nhận ngoại thương, trụ sở ở
Hải Phịng.
- Cơng ty giao nhận đường bộ, trụ sở tại Hà Nội.
Năm 1976, Bộ Ngoại thương đã sáp nhập hai tổ chức trên thành lập một
công ty giao nhận thống nhất là Tổng công ty giao nhận và kho vận ngoại
thương (Vietrans). Trong thời kỳ bao cấp, Vietrans là cơ quan duy nhất được
phép tiến hành tổ chức giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu trên cơ sở ủy thác
của các đơn vị xuất nhập khẩu.
Những năm gần đây, kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước, dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu


12


khơng cịn do Vietrans độc quyền nữa mà do nhiều cơ quan, tổ chức khác
tham gia, trong đó nhiều chủ hàng ngoại thương lại tự đảm nhận công tác
giao nhận.
Do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường giao nhận Việt Nam, để bảo vệ
quyền lợi của các nhà giao nhận, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam
(VIFFAS) đã được thành lập năm 1994 và đã trở thành hội viên chính thức
của FIATA trong năm đó. Cho đến nay, VIFFAS đã có 76 thành viên. Ngồi
ra, đến đầu năm 2005 đã có hơn 30 cơng ty giao nhận - vận tải của Việt Nam
được công nhận là hội viên hợp tác của FIATA.
4. Sự cần thiết phải phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại
Việt Nam
Trong q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cùng với sự tác
động của q trình tồn cầu hóa, tự do hóa thương mại quốc tế, các hoạt động
giao nhận vận tải ngày một tăng trưởng mạnh, góp phần tích lũy ngoại tệ, đẩy
mạnh giao lưu kinh tế, nối liền các hoạt động kinh tế giữa các khu vực trong
nước, giữa trong nước với nước ngoài làm cho nền kinh tế đất nước phát triển
nhịp nhàng, cân đối.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa được coi là "nhà tổ chức - kiến
trúc sư của vận tải" vì người giao nhận có khả năng tổ chức q trình chuyên
chở một cách tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất. Họ phải lựa chọn
phương tiện, người vận tải thích hợp, tuyến đường thích hợp có hiệu quả kinh
tế nhất và đứng ra trực tiếp vận tải hay tổ chức thu xếp q trình vận tải của
tồn chặng với nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau như tàu thủy, máy
bay, ô tô… vận chuyển qua nhiều nước và chịu trách nhiệm trực tiếp với chủ
hàng. Vì vậy chủ hàng chỉ cần gõ môt cửa, ký một hợp đồng vận tải với
người giao nhận nhưng hàng hóa được vận chuyển kịp thời, an toàn với giá
cước hợp lý từ cửa kho nhà xuất khẩu tới cửa kho nhà nhập khẩu, tiết kiệm

được thời gian, giảm chi phí vận chuyển và nâng cao được tính cạnh tranh

13


của hàng hóa trên thị trường quốc tế. Sự phát triển của dịch vụ giao nhận
hàng hóa ở một nước gắn liền với sự phát triển vận tải ở nước đó.
Tiền đề cho sự phát triển hoạt động giao nhận vận tải của nước ta là rất
nhiều và có triển vọng cao. Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống kết
cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động giao nhận vận tải cũng được Nhà
nước quan tâm phát triển. Hệ thống bến cảng, sân bay, đường quốc lộ trên bộ,
đường sông, đường sắt… được nâng cấp xây dựng mới thường xuyên. Nhà
nước liên tục tiếp nhận khoa học công nghệ mới trong giao nhận vận tải như:
hiện đại hoá hệ thống máy nâng hạ container, cần cẩu, tin học hoá hoạt động
giao nhận vận tải…
Đặc biệt từ khi thi hành chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt
được sự tăng trưởng đáng kể với tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm
7,3%, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm là 20% và đã tạo nên những điều
kiện cần thiết cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Việc phát triển trên sẽ
khuyến khích các chủ tàu, mơi giới hàng hải, giao nhận và các thương gia về
những cơ hội hoạt động trong xuất nhập khẩu do sự tăng trưởng kinh tế liên
tục mang lại.
Việt Nam nằm trên tuyến đường vận tải quan trọng từ Thái Bình Dương
qua Ấn Độ Dương, từ biển Đơng ra Thái Bình Dương nên tiềm năng giao
nhận vận tải biển của Việt Nam rất lớn. Mặt khác, Việt Nam có chiều dài bờ
biển 3.260 km với nhiều vịnh tự nhiên kín gió như: Vũng Tàu, Hạ Long, Cam
Ranh... nên có điều kiện để xây dựng các cảng biển lớn. Hiện cả nước đã xây
dựng được 90 cảng các loại với gần 24.000 mét cầu cảng, 10 khu trung
chuyển tải và 10 triệu m2 kho bãi. Nhiều cảng biển Việt Nam đã được xây
dựng thành những cảng biển quốc tế quan trọng như cảng Hải Phòng, cảng

Đà Nẵng, cảng Bà Rịa - Vũng Tàu, hệ thống cảng khu vực thành phố Hồ Chí
Minh… Để đáp ứng nhu cầu giao nhận vận tải hàng hoá trong nước và quốc
tế, Nhà nước đã có nhiều đề án về phát triển ngành giao nhận vận tải biển:
hiện đại hoá cơ sở vật chất giao nhận vận tải biển, tăng nhanh đội tàu buôn
14


dự kiến các con số về trọng tải đội tàu buôn nước ta đến năm 2010 là 1,5
triệu DWT. Vào tháng 3 năm 2005, Việt Nam đã khai trương hạ thuỷ con tàu
chở container lớn nhất nước, đây có thể được xem là bước tiến quan trọng
của Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới và hiện đại hố cơ sở vật chất cho
hoạt động giao nhận vận tải của đất nước.
Phát triển kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế ở nước ta có một
ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ giao lưu hàng hóa
xuất nhập khẩu với các nước trên thế giới, tạo điều kiện đơn giản hóa chứng
từ, thủ tục thương mại, hải quan và các thủ tục pháp lý khác, hấp dẫn các bạn
hàng nước ngồi có quan hệ kinh doanh với các doanh nghiệp trong nước,
làm cho sức cạnh tranh hàng hóa ở nước ta trên thị trường quốc tế tăng lên
đáng kể, và tạo điều kiện cho đất nước có thêm nguồn thu ngoại tệ, cải thiện
một phần cán cân tài chính của đất nước. Có thể nói việc phát triển dịch vụ
giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế gắn liền với sự phát triển kinh tế của đất
nước.
II. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
GIAO NHẬN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
1. Cơ sở pháp lý của hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế
1.1. Các cơ quan tổ chức liên quan
Ngoài mối liên hệ với người gửi hàng và người nhận hàng, người giao
nhận cần phải liên hệ với rất nhiều các cơ quan tổ chức khác nhau trong suốt
giai đoạn làm dịch vụ cho khách, như:
- Cơ quan quản lý Nhà nước:

Các Bộ chủ quản. Cơ quan Hải quan để khai hải quan. Cơ quan Cảng để
làm thủ tục thông qua cảng. Ngân hàng trung ương để được phép kiểm tra hối
đoái. Bộ Y tế để xin giấy phép y tế. Viên chức lãnh sự để xin giấy chứng
nhận xuất xứ. Các cơ quan kiểm soát mậu dịch xuất nhập khẩu. Các cơ quan
cấp giấy phép vận tải.
15


- Các tổ chức vận tải
Các công ty (hãng) kinh doanh vận tải đường biển, đường hàng không,
đường thủy, đường sắt, đường bộ…
- Các tổ chức dịch vụ có liên quan:
Đại lý hãng tàu. Các công ty giao nhận, kiểm kiện… Dịch vụ xếp/dỡ.
Kho hàng ga, cảng… Người giữ kho để lưu kho hàng hóa. Tổ chức đóng gói
để đóng gói hàng. Cơng ty bảo hiểm để bảo hiểm hàng hóa. Ngân hàng
thương mại để thực hiện tín dụng chứng từ…
1.2. Cơ sở pháp lý
• Các văn bản của Nhà nước
Nhà nước Việt Nam đã ban hành khá nhiều các văn bản, quy phạm pháp
luật quy định trách nhiệm giao nhận hàng hóa của các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp nhằm điều chỉnh mối quan hệ phát sinh từ các hợp đồng mua
bán, vận tải, bảo hiểm, giao nhận, xếp dỡ... như:
- Bộ luật Hàng hải Việt Nam ngày 30 tháng 6 năm 1990.
- Quyết định 2073/QĐVT ngày 6 tháng 10 năm 1991 của Bộ Giao thông
vận tải về việc ban hành thể lệ bốc dỡ, giao nhận và bảo quản hàng hóa tại
cảng biển Việt Nam.
- Pháp lệnh Hải quan ngày 20 tháng 2 năm 1990.
- Nghị định 114/HĐBT ngày 27 tháng 5 năm 1991 của Hội đồng bộ
trưởng ban hành quy định cụ thể thủ tục hải quan và lệ phí hải quan.
- Bộ luật Hàng khơng dân dụng Việt Nam ngày 26 tháng 12 năm 1991…

• Các luật lệ quốc tế
Các công ước, các định ước, các hiệp ước, các hiệp định, các nghị định
thư, các quy chế… về buôn bán, vận tải, bảo hiểm… mà việc giao nhận bắt
buộc phải phù hợp mới bảo vệ được quyền lợi của chủ hàng.
• Các loại hợp đồng.
• Các tập quán thương mại, hàng hải và luật tập tục của mỗi nước.
16


2. Địa vị pháp lý, quyền hạn nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao
nhận hàng hóa quốc tế
2.1. Địa vị pháp lý
Do thiếu luật lệ quốc tế về lĩnh vực giao nhận, địa vị pháp lý của người
giao nhận ở từng nước có khác nhau, tùy theo luật pháp ở nước đó.
2.1.1. Đối với các nước theo luật tập quán
Đối với các nước theo luật tập quán - là luật khơng thành văn như Anh,
Úc, Canada, NewZealand thì địa vị pháp lý của người giao nhận được căn cứ
trên khái niệm về đại lý. Người giao nhận lấy danh nghĩa của người ủy thác
(tức người gửi hàng hay người nhận hàng) để giao dịch cho công việc của
người ủy thác.
Hoạt động của người giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy tắc
truyền thống về đại lý, như việc phải mẫn cán khi thực hiện nghĩa vụ của
mình, phải trung thực với người ủy thác và phải tuân theo các chỉ dẫn hợp lý
của người ủy thác. Bên cạnh đó người giao nhận được hưởng những quyền
bảo vệ và các giới hạn trách nhiệm phù hợp với vai trò của một đại lý.
Trong trường hợp người giao nhận đảm nhiệm vai trò của người ủy thác
(người ủy thác là người cho phép và chỉ đạo một người khác - người đại lý hành động cho lợi ích của mình, chịu sự chỉ đạo và kiểm sốt của mình) tự
mình ký kết hợp đồng sử dụng cho người chuyên chở và các đại lý, thì khơng
được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm nói trên, mà phải
chịu trách nhiệm cho cả q trình vận tải hàng hóa kể cả khi hàng nằm trong

tay những người chuyên chở và các đại lý mà anh ta sử dụng. Tuy nhiên
trong thực tế, thường có sự khác biệt tùy theo loại dịch vụ mà người giao
nhận đảm nhiệm. Chẳng hạn như khi người giao nhận đảm nhận trách nhiệm
lo liệu vận tải đường bộ, tự mình vận chuyển hàng hóa, đó là đảm nhận vai
trị của người ủy thác; nhưng nếu như người ủy thác có một đại lý phụ mà
khách hàng của người giao nhận biết và đồng ý chỉ định thì người giao nhận

17


giữ nguyên địa vị đại lý của mình. Nhưng khi người giao nhận làm dịch vụ
gom hàng và cấp vận đơn riêng của mình thì người giao nhận trở thành người
ủy thác.
2.1.2. Đối với các nước theo luật dân sự
Ở những nước có luật dân sự thì địa vị pháp lý, quyền lợi và nghĩa vụ
của những người giao nhận giữa các nước có khác nhau. Thơng thường người
giao nhận ở những nước đó lấy danh nghĩa của mình giao dịch cho công việc
của người ủy thác, họ vừa là người ủy thác, vừa là đại lý. Đối với người ủy
thác (người nhận hàng hay người gửi hàng) họ được coi là đại lý của người
ủy thác, và đối với người chuyên chở thì họ lại là người ủy thác.
Tuy nhiên, thể chế mỗi nước có những điểm khác nhau. Ví dụ, Pháp là
một nước có luật dân sự, ngồi trách nhiệm về các hoạt động giao nhận của
mình, người giao nhận còn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện đúng đắn
hợp đồng vận tải đã ký. Về phương diện này, người giao nhận thường được
coi như người chuyên chở. Khi có trách nhiệm nảy sinh trong việc thực hiện
vận tải thực sự, luật của Pháp cho phép chủ hàng có quyền kiện người giao
nhận hoặc người chuyên chở. Song Đức cũng là một nước có luật dân sự thì
địa vị pháp lý của người giao nhận lại khác. Người giao nhận không chịu
trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng vận tải trừ phi bản thân anh ta trực
tiếp thực hiện vận tải.

Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận (FIATA) đã soạn thảo một bản
mẫu "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" để các nước tham khảo xây dựng các
điều kiện cho nghành giao nhận của mình, giải thích rõ ràng các nghĩa vụ,
quyền lợi và trách nhiệm của người giao nhận. Nhiều Hiệp hội coi "Điều kiện
kinh doanh tiêu chuẩn" là một trong những phương tiện chủ yếu nhằm duy trì
và nâng cao tiêu chuẩn nghề nghiệp của nghành giao nhận và đã thông qua
"Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" cho hội viên của mình làm căn cứ hợp
đồng hoặc đính kèm hợp đồng ký với khách hàng. Những điều kiện này
thường được hình thành phù hợp với tập quán thương mại hay thể chế pháp
18


lý hiện hành ở từng nước. Những nước chưa có điều kiện kinh doanh tiêu
chuẩn thì hợp đồng giữa người giao nhận và khách hàng quy định những
quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm mỗi bên.
2.2. Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận hàng hoá
quốc tế
Từ những cơ sở pháp lý nói trên, có thể phân biệt quyền hạn, nghĩa vụ
và trách nhiệm của người giao nhận khi đóng vai trị đại lý và khi đóng vai
trò người ủy thác. Ở địa vị nào, người giao nhận cũng phải chăm sóc chu đáo
hàng hóa được ủy thác, thực hiện đúng những chỉ dẫn của khách hàng về
những vấn đề có liên quan đến vận tải hàng hóa.
• Khi người giao nhận là đại lý
- Người giao nhận phải chịu trách nhiệm về những lỗi lầm, sai sót của bản
thân mình khi thực hiện dịch vụ. Lỗi lầm sai sót đó có thể là: giao hàng trái
chỉ dẫn, giao hàng sai địa chỉ, quên mua bảo hiểm hoặc sai sót trong việc bảo
hiểm cho hàng hóa mặc dù đã có chỉ dẫn, lỗi lầm khi làm thủ tục hải quan,
lập chứng từ nhầm lẫn, tái xuất không theo những thủ tục cần thiết hoặc
khơng hồn lại thuế, quên thông báo khiến hàng phải lưu kho tốn kém…
- Người giao nhận không chịu trách nhiệm về tổn thất do lỗi lầm, sai sót

của bên thứ ba (người chuyên chở, người ký hợp đồng phụ, nhận lại dịch
vụ…) miễn là người giao nhận đã biểu hiện sự cần mẫn thích đáng trong việc
lựa chọn bên thứ ba đó.
Khi là đại lý thì người giao nhận phải tuân thủ "Điều kiện kinh doanh
tiêu chuẩn" của mình.
• Khi người giao nhận đóng vai trị người ủy thác, với tư cách là một bên
ký hợp đồng độc lập đảm nhận trách nhiệm với danh nghĩa của mình thực
hiện các dịch vụ do khách hàng u cầu, thì ngồi những trách nhiệm của đại
lý nói trên, người giao nhận cịn chịu trách nhiệm về cả những hành vi và sơ
suất của bên thứ ba mà người giao nhận sử dụng để thực hiện hợp đồng.

19


Trong trường hợp này người giao nhận thường thương lượng với khách hàng
giá dịch vụ (giá khốn, giá cả gói), chứ không chỉ nhận hoa hồng như đại lý.
Người giao nhận thường đóng vai trị người ủy thác khi thu gom hàng lẻ,
khi kinh doanh vận tải đa phương thức, khi đảm nhận tự vận chuyển hàng
hóa hay nhận bảo quản hàng hóa trong kho của mình.
Khi đóng vai trị là người chuyên chở thì các "Điều kiện kinh doanh tiêu
chuẩn" thường không áp dụng mà áp dụng các công ước quốc tế hoặc các
quy tắc do Phòng thương mại quốc tế ban hành.
3. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng hoá quốc tế
Đối với mỗi phương thức vận tải, đối với mỗi loại hàng hóa khác nhau
thì trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng hóa cũng khác nhau. Ở đây chỉ giới
thiệu trình tự giao nhận hàng hố xuất nhập khẩu tại cảng biển để hiểu hơn về
hoạt động giao nhận hàng hố quốc tế.
3.1. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng xuất khẩu
3.1.1. Chuẩn bị hàng để giao cho người vận tải



Chuẩn bị hàng hố, nắm tình hình tàu:

Nghiên cứu hợp đồng mua bán và L/C để chuẩn bị hàng hoá. Chuẩn bị
các chứng từ cần thiết để làm thủ tục hải quan. Tiến hàng lưu cước. Lập Bảng
danh mục hàng xuất khẩu gửi hãng tàu.


Kiểm tra hàng hố

Về số lượng, trọng lượng, phẩm chất có phù hợp với hợp đồng mua bán
hay không. Xin kiểm nghiệm, giám định, kiểm dịch (nếu cần) và lấy giấy
chứng nhận hay biên bản thích hợp.
3.1.2. Giao hàng cho người vận tải


Làm thủ tục hải quan

Đăng ký tờ khai hải quan. Tính thuế sơ bộ và ra thơng báo thuế. Kiểm
hố. Tính lại thuế và nộp thuế.

20




Giao hàng hoá xuất khẩu cho tàu

- Đối với hàng đóng trong container
+ Nếu gửi hàng nguyên container (FCL)

. Người gửi hàng điền và ký Booking note rồi giao lại cho đại diện hãng
tàu để xin ký cùng Bản danh mục hàng xuất khẩu.
. Hãng tàu ký Booking note, cấp lệnh giao vỏ cotainer để chủ hàng mượn.
. Người gửi hàng đưa container rỗng về kho của mình để đóng hàng vào,
lập Bản chi tiết đóng gói, mang hàng ra cảng để làm thủ tục hải quan.
. Giao hàng cho tàu tại CY quy định, lấy Biên lai thuyền phó để lập B/L.
. Cảng bốc container lên tàu, người gửi hàng mang Biên lai thuyền phó
đến hãng tàu hoặc đại lý để lấy B/L.
+ Nếu giao hàng lẻ (LCL)
. Người gửi hàng mang hàng đến giao cho người vận tải tại CFS quy định
và lấy HB/L.
. Người chuyên chở hoặc người gom hàng đóng các lơ hàng lẻ đó vào
container, xếp container lên tàu và vận chuyển đến nơi đến.
. Thanh lý, thanh khoản tờ khai hải quan.
- Đối với hàng hố thơng thường
Người gửi hàng trực tiếp giao hàng cho tàu hay uỷ thác cho cảng để
cảng giao hàng cho tàu, cũng có thể giao nhận tay ba (người gửi, cảng, tàu)
theo các bước:
. Trước khi xếp phải vận chuyển hàng từ kho cảng, lấy lệnh xếp hàng.
. Tiến hành bốc và giao hàng cho tàu.
. Sau khi xếp hàng lên tàu, cảng sẽ lập Bản tổng kết xếp hàng lên tàu.
. Lấy Biên lai thuyền phó để trên cơ sở đó lập B/L.
. Thơng báo cho người mua về việc giao hàng và mua bảo hiểm cho hàng
hoá (nếu cần).
3.3.1. Lập bộ chứng từ thanh toán
21


Căn cứ vào hợp đồng mua bán và L/C, cán bộ giao nhận phải lập hay lấy
các chứng từ cần thiết để tập hợp thành bộ chứng từ thanh toán và xuất trình

cho ngân hàng để thanh tốn tiền hàng.
3.1.4. Quyết tốn
Thanh tốn các chi phí liên quan đến q trình giao nhận: chi phí bốc
xếp, vận chuyển, bảo quản, lưu kho… Thanh tốn tiền thưởng phạt xếp dỡ
(nếu có).
3.2. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng nhập khẩu
3.2.1. Chuẩn bị trước khi nhận hàng
Nắm thông tin về hàng và tàu, về thủ tục hải quan… Nhận các giấy tờ
như: thông báo tàu đến, B/L và các chứng từ khác về hàng hoá…
3.2.2. Tổ chức dỡ và nhận hàng từ người vận tải
• Đối với hàng nhập đóng trong container
- Đối với hàng nguyên container (FCL)
. Khi nhận được Thông báo hàng đến từ hãng tàu hay đại lý, người nhận
mang B/L gốc đến hãng tàu để lấy D/O và đóng lệ phí.
. Mang D/O đến Hải quan làm thủ tục, nộp thuế nhập khẩu và đăng ký
kiểm hoá.
. Mang bộ chứng từ đến văn phòng quản lý tàu để xác nhận D/O.
. Người nhận hàng mang 2 bản D/O đã có xác nhận của hãng tàu đến bộ
phận kho vận làm phiếu xuất kho và nhận hàng.
- Đối với hàng lẻ (LCL)
. Chủ hàng mang B/L gốc hoặc HB/L đến hãng tàu hoặc đại lý của người
gom hàng để lấy D/O.
. Sau khi xác nhận, đối chiếu D/O thì mang đến thủ kho để nhận phiếu
xuất kho.
. Sau đó mang chứng từ đến kho CFS để nhận hàng.

22





Đối với hàng nhập thơng thường

Hàng nhập khơng đóng trong container có thể gồm: nguyên tàu, nguyên
hầm tàu hay rời từng lô nhỏ. Việc giao nhận những loại hàng này có thể tiến
hành giữa cảng với tàu, giữa người nhận với tàu hay giao nhận tay ba (tàu,
cảng, người nhận).
- Trước khi dỡ hàng, tàu hoặc đại lý phải cung cấp cho cảng Bản lược
khai hàng hoá, Sơ đồ hầm tàu.
- Người nhận hàng và đại diện tàu tiến hành kiểm tra tình trạng hầm tàu.
- Dỡ hàng bằng cần cẩu của tàu hoặc của cảng và xếp lên phương tiện vận
tải để đưa về kho bãi.
- Lập Bản kết toán nhận hàng với tàu.
- Lập các giấy tờ cần thiết trong quá trình giao nhận như Biên bản hư
hỏng đổ vỡ, Biên bản giám định, hay Giấy chứng nhận hàng thiếu (nếu cần).
3.2.3. Làm thủ tục hải quan
Sau khi có B/L và D/O có thể tiến hành làm thủ tục hải quan cho hàng
nhập khẩu. Thủ tục hải quan thường qua các bước:
- Chuẩn bị hồ sơ hải quan.
- Khai và tính thuế nhập khẩu. Người nhận tự khai và áp mã tính thuế.
- Đăng ký tờ khai.
- Đăng ký kiểm hoá.
- Tiến hành kiểm hoá.
- Kiểm tra thuế.
- Nhận thơng báo thuế, đóng thuế và lệ phí hải quan.
3.2.4. Quyết tốn
Thanh tốn các chi phí cho cảng: tiền thưởng phạt xếp dỡ, tiền phạt lưu
container, tiền lưu kho bãi…
4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động giao nhận hàng hoá quốc
tế của doanh nghiệp

4.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
23


Gồm những yếu tố, những mối quan hệ nằm ngoài khả năng kiểm sốt
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có một cách duy nhất là tự điều chỉnh
bản thân để phù hợp với các yếu tố này.
4.1.1. Môi trường pháp lý
Đó là luật quốc gia, luật quốc tế, các tập quán quốc tế… về hoạt động
giao nhận và các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động giao nhận như xuất
nhập khẩu, bảo hiểm, hải quan… Tại đó địa vị pháp lý, quyền hạn, nghĩa vụ
và trách nhiệm của người giao nhận được quy định. Môi trường pháp lý làm
nền cho hoạt động giao nhận được diễn ra và là cơ sở để giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động giữa người giao nhận và các bên liên quan khi
thực hiện hợp đồng.
Hệ thống luật pháp rõ ràng, nhất quán, đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho hoạt
động giao nhận diễn ra thuận lợi, tiết kiệm được thời gian và chi phí do sự
chồng chéo của các quy định pháp luật.
4.1.2. Mơi trường kinh tế
Tình hình kinh tế quốc gia cũng như kinh tế thế giới đều ảnh hưởng đến
hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế. Các yếu tố kinh tế bao gồm GNP bình
quân đầu người và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, sự thay đổi trong cơ
cấu sản xuất và tiêu dùng, yếu tố lạm phát, yếu tố lãi suất… đều tác động một
cách trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động kinh doanh giao nhận vận tải hàng
hóa quốc tế.
Đặc biệt tình hình xuất nhập khẩu hàng hố của Việt Nam là yếu tố ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất đến hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế của Việt Nam, bởi giao nhận vận tải hàng
hoá quốc tế là một ngành kinh tế phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoá. Mối quan hệ giữa thương mại quốc tế - vận tải - giao nhận thường là mối

quan hệ tỉ lệ thuận. Ngoại thương của đất nước có phát triển, khối lượng hàng
hố xuất nhập khẩu tăng lên nhu cầu vận chuyển hàng hố gia tăng thì các

24


doanh nghiệp kinh doanh giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế cũng có cơ hội
tăng doanh số hoạt động.
4.1.3. Môi trường cạnh tranh
Một trong những thách thức lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp
là phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hiện nay, tại
Việt Nam có trên 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kho vận giao
nhận vận tải thuộc đủ mọi thành phần kinh tế: tư nhân, nhà nước, liên
doanh… đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với tiềm lực tài chính, sự
hỗ trợ từ cơng ty mẹ, khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại… là
những đối thủ nặng ký trên thị trường. Đặc biệt đây là một lĩnh vực kinh
doanh rất hấp dẫn bởi không cần nhiều vốn đầu tư như kinh doanh các
ngành khác mà lợi nhuận thu được rất cao, do đó có ngày càng nhiều các
doanh nghiệp tham gia vào thị trường này.
Với một môi trường cạnh tranh gay gắt như vậy địi hỏi các doanh
nghiệp phải tự tìm cho mình hướng đi đúng phù hợp với năng lực bản thân,
tận dụng lợi thế cạnh tranh để đứng vững và khẳng định vị thế của mình.
4.1.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật
Lịch sử đã chứng minh rằng, các cuộc cách mạng khoa học lớn đã diễn
ra trong đời sống xã hội con người đều được phản ánh trong ngành vận tải.
Đầu những năm 60 của thế kỷ XX, trong các phương thức vận tải bắt đầu áp
dụng khá phổ biến phương pháp chuyên chở bằng container. Container hàng
hóa trong chuyên chở hàng hóa đã trực tiếp làm thay đổi sâu sắc về nhiều mặt
không chỉ trong ngành vận tải mà trong các ngành kinh tế khác, mà trực tiếp
là ngành giao nhận.

Cuộc cách mạng container đã tạo điều kiện cho dịch vụ gom hàng lẻ có
cơ hội phát triển mạnh và tạo ra một dịch vụ kinh doanh mới - cho thuê kho
bãi để container. Nhưng đồng thời làm giảm hiệu quả kinh doanh kho vận do
hàng hóa để trong cotainer có độ an tồn cao nên chỉ cần có bãi thích hợp là

25


×